CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
32.
RUỒI BAY
VÔ NHÀ
Có một gia đình nọ trong nhà có rất
nhiều ruồi, vu vu vo vo, đâm vào xô ra, quấy rầy, bám đầy người làm cho người
trong nhà không thoải mái.
Chủ
nhân rất giận dữ đem người giữ nhà đánh cho một trận và chất vấn nó:
-
“Tại sao mày
tự tung tự tác đem ruồi bỏ vào trong nhà hử ?”
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 32 :
Người
ta nói “tức quá hóa cuồng” “giận mất khôn” là vậy.
Ruồi
bay vào nhà thì có nhiều lý do, nhưng lý do “thuyết phục” nhất là trong nhà
không sạch sẽ vệ sinh cho lắm, nên có nhiều ruồi bay vào kiếm ăn…
Ruồi
nhặng làm cho con người ta mất đi niềm vui khi ăn cơm, nó cũng làm con người ta
bực mình khi nghỉ ngơi giải trí…
Tâm
hồn sạch tội trọng thì ruồi nhặng cám dỗ khó mà bu đến được, nhưng một tâm hồn
tội lỗi thì ruồi nhặng bu đến nhiều hơn: ruồi nhặng cám dỗ xác thịt, ruồi nhặng
kiêu căng, ruồi nhặng ghét ghen, ruồi nhặng nói xấu người khác, ruồi nhặng dâm ô.v.v…
tất cả những thứ ruồi nhặng này chỉ thích bu đến nơi những tâm hồn sống trong tội
lỗi, bởi vì một tâm hồn tội lỗi thì giống như một hầm rác dơ bẩn mà ma quỷ rất
thích đến cư ngụ…
Đừng
giận dữ chửi mắng ma quỷ đã dùng ruồi nhặng đam mê, ruồi nhặng tham lam, ruồi nhặng
xác thịt để cám dỗ mình, nhưng hãy buồn phiền trách mình là không quyết tâm dọn
dẹp tâm hồn mình cho sạch sẽ để trở nên cung điện cho Thiên Chúa Ba Ngôi đến ngự
trị…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
31.
TRẦN CẢO
CAI RƯỢU
Trần Cảo yêu rượu như yêu mạng sống,
hơn nữa tửu lượng của ông ta rất lớn, lúc còn làm đốc học ở Sơn Đông, ông cha sợ
con mình tham uống rượu mà hư việc nên viết thư dặn dò ông ta nên cai rượu.
Trần
Cảo sau khi nhận được thư khuyên bảo của cha mình bèn đi đặt làm một cái bát
(chén) lớn đặc biệt chứa được hai lít rượu, lại còn khắc trên chén tám chữ để
bó buộc mình:
-
“Cha biểu
cai rượu, chỉ uống ba bát”.
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 31:
Con cái có
phúc không phải là cha mẹ có nhiều của cải, nhưng có phúc là vì chúng nó có cha
mẹ biết ngăn ngừa những tật hư tính xấu của mình.
Bất
hạnh của con cái không phải vì cha mẹ nghèo khó, nhưng là vì cha mẹ nuông chiều
con cái quá mức đến nỗi con làm sai cũng cho là đúng, con muốn gì thì được nấy
nên dần dần nó trở nên người xấu mà không hay…
“Con
có cha như nhà có nóc” nghĩa là con cái sẽ được núp dưới sự che chở của cha
mình cách an toàn không sợ mưa sợ nắng, đó chính là hạnh phúc của con cái, nhưng
“có nóc” mà nóc bị dột, tức là có cha mà cha không dạy dỗ bảo ban con cái khi
chúng nó lầm lỗi thì chắng khác chí khuyến khích con…vào nhà tù ở cho xong chuyện.
Trách
nhiệm của cha mẹ trước mặt Thiên Chúa rất là lớn lao, chúng ta có hiểu điều đó để
chu toàn bổn phận của mình trong gia đình với con cái ?
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
30.
TÌM PHẦN MỘ
TỔ TIÊN
Lúc Hùng An Sanh còn ở Sơn Đông, có
người nói dối ông ta:
-
“Nơi thôn
nọ có phần mộ tổ tiên, là phần mộ của Thái Quang người Hà nam thời nhà Tấn đến
hôm nay là bảy mươi hai đời, nguyên trước đây có một tấm bia nhưng bây giờ
không biết người trong thôn đem chôn ở đâu nữa ?”
Hùng
An Sanh tin cho là thật bèn đến đào phần mộ kế bên, đào rất lâu mà cũng không
thấy tấm bia, thế là liên tiếp mấy năm làm đơn tố với quan phủ.
Trưởng
sứ Kỳ châu là Trịnh Đại Quán phán rằng:
-
“Bảy mươi
hai đời là người của hoàng đế Phục Hi[1]
trước đây, ta làm sao có thể thay ông đi tìm được chứ, triều đình nhà Tấn cũng
không có vị tướng quân nào có tên như thế đã vượt qua Hà Nam cả”.
An
Sanh thất vọng quá lớn, bèn dắt cả gia đình lớn nhỏ đến đầu phần mộ tổ tiên mà
khóc lớn…
(Cổ kim tiếu sử)
Suy tư 30:
Ở đời có người
đi tìm cái có nơi cái không có, và cũng có người đi tìm cái không có nơi cái
có.
Cái
có của người Ki-tô hữu là Thiên Chúa nhưng họ lại đi tìm Thiên Chúa nơi tội lỗi,
cái có của người Ki-tô hữu là thiên đàng nhưng họ lại đi tìm thiên đàng nơi những
chỗ ăn chơi đàng điếm, thế là họ đi tìm cái có nơi cái không; cái không nên có
nơi người Ki-tô hữu là kiêu căng, ích kỷ, ghét ghen, nhưng họ lại đi tìm cái kiêu
ngạo nơi ghét ghen, họ tìm cái ghét ghen nơi ích kỷ và họ tìm cái ích kỷ nơi kiêu
ngạo, thế là họ đi tìm cái không nên có nơi cái có thể làm cho họ mất sự sống đời
đời…
Lời
nói dối của người thế gian thì có rất nhiều người tin, nhưng lời nói thật của
Thiên Chúa thì ít người tin, bởi vì chính những người Ki-tô hữu –là con cái của
Thiên Chúa - đã không bày tỏ niềm tin vào Thiên Chúa trong cuộc sống của mình,
thì đố có ai mà tin có Thiên Chúa hiện hữu chứ ?
[1] Theo
truyền thuyết của Trung Quốc hoàng đế Phục Hi là một trong tam đại đế vương.
29.
QUẬN THỦ KIÊNG
KỴ
Có một quận thủ nọ kiêng kỵ rất nhiều
điều, vừa mới đến nơi nhiệm sở thì có người tên là
Các
gia nhân biết ý của ông ta bèn kêu người ấy đổi họ “Đinh” thành họ “Thiên”, quả
nhiên quận thủ vui vẻ tiếp kiến.
Lại
một ngày nọ có vụ án lớn đến báo, trong văn tự có viết hai chữ “chết bệnh”,
quan sứ biết là ông ta rất sợ thấy chữ đó, bèn dùng ngón tay che lấp hai chữ ấy
lại, quận thú vừa coi thì thấy bị che mất nên không hiểu nghĩa, bèn dùng cây viết
gõ vào ngón tay của quan sứ để ông ta dời tay đi.
Khi
ngón tay dời đi thì mặt quận thủ biến sắc vì thấy hai chữ ấy, bèn vội vàng cầm lấy
văn thư đến bàn án và xoay tròn cái bàn nhiều lần, miệng thì lẩm bẩm niệm bùa
chú trừ hung.
Mọi
người trong công đường nín không được nên cười ha ha.
(Cổ kim
tiếu sử)
Suy tư 29 :
Tín ngưỡng
nhân gian thì có nhiều điều kiêng kỵ vì họ tin nhiều điều dị đoan.
Có
những người Ki-tô hữu nổi giận đùng đùng khi có ai đó kêu tên cha mẹ mình vì họ
rất kiêng kỵ điều ấy, nhưng lại thờ ơ dửng dưng khi nghe người khác kêu tên Đức
Chúa Giê-su ra mà nhạo báng, và có lúc cũng chính họ trong lúc kể chuyện tiếu
lâm cho người khác nghe cũng đem tên Đức Chúa Giê-su ra mà cười…
Kiêng
kỵ kêu tên cha mẹ ra vì chúng ta trọng kính cha mẹ mình đó là việc làm tốt,
nhưng càng tốt hơn khi chúng ta bảo vệ và cung kính trước danh thánh Giê-su, bởi
vì điều đó đã được Đức Chúa Giê-su hứa và làm cho chúng ta được vinh danh trước
mặt Cha trên trời trong ngày phán xét.
Người
Ki-tô hữu không ai đem tên Đức Chúa Giê-su ra để nhạo cười, nhưng rất “kỵ rơ” với
những ai đem tên Đức Chúa Giê-su ra mà nhạo cười, trái lại, người Ki-tô hữu sẽ
nhân danh danh thánh Giê-su để cầu nguyện với Chúa Cha trong cuộc sống hằng ngày
của họ…
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
28.
KHÔNG CẤM
CƯỚP MỘ
Mưu Triều Sĩ tính hủ lậu, nhậm chức
ở phủ Hà Trung huyện Vưu Môn.
Có
một người tên là Tiết Thiếu Khanh trú ngụ rất lâu ở địa phương ấy. Ngày nọ, đột
nhiên thấy cây thông và cây tu trên mộ của tổ tiên bị ai chặt mất tiêu, bèn đi đến
huyện cáo trạng.
Triều
Sĩ cầm tờ cáo trạng vừa mới coi không biết rõ đâu đuôi như thế nào, bèn phán:
-
“Vườn ngự
uyển của Châu Văn vương thì bá tánh đều có thể đến đó đốn củi, thả trâu bò. Còn
phần mộ của mày, Tiết Thiếu Khanh, có gì là không ổn mà cấm người ta đốn củi chứ
!”
(Cổ
kim tiếu sử)
Suy tư 28 :
Người dân
thường mà hủ lậu thì người ta vẫn còn thứ tha thông cảm, chứ người làm quan mà
hủ lậu thì khó mà được người khác thông cảm, bởi vì cái hủ lậu của người dân ít
làm hại ai, còn cái hủ lậu của người làm quan thì không những làm hại nước hại
dân, mà còn làm cho người khác không tiến bộ được vì cái hủ lậu của họ.
Người
hủ lậu là người có đầu óc lạc hậu và lỗi thời.
Có
những người Ki-tô hữu ít đi lễ nhà thờ để nghe giảng, hoặc ít đến các lớp giáo lý
để tìm hiểu thêm giáo lý của Giáo Hội, nên họ sống đạo cách lạc hậu bằng cách
giữ đạo hơn là sống đạo, nên họ chưa trưởng thành trong đời sống tín ngưỡng của
mình.
Thời
nay vẫn còn có một vài ông trùm ông biện trong giáo xứ lạc hậu và lỗi thời, các
vị này đến nhà thờ vẫn còn cầm cây roi mây (tre) thu giấu sau lưng để quất đám
trẻ con chơi giỡn nơi nhà thờ, họ vẫn còn bạt tai trẻ con khi chúng nó nói chuyện
hoặc ngủ gục trong nhà thờ, mà không nhẹ nhàng nhắc nhở cho chúng nó biết nhà thờ
là nơi mọi người cùng cầu nguyện đừng làm ồn người khác…
Giáo
Hội luôn canh tân và đổi mới theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Thánh Thần, thì chúng
ta cũng cần phải đi theo Giáo Hội để canh tân mình trước rồi canh tân người
khác sau…
Đốn
củi nơi nghĩa địa và chặt cây trồng trên mộ thì khác nhau xa, một bên thì đốn những
cây không có chủ một bên thì chặt và phá hoại cây người ta trồng trên mộ.
Giữ
đạo là đem đạo của mình “cất” trong ngăn tủ không cho ai biết và cũng chẳng cho
ai, nhưng sống đạo là đem đạo mà mình tin mình yêu ra thực hành trong cuộc sống,
làm cho đạo của mình trở thành ngọn đèn trước là soi sáng mình sau là soi sáng tha
nhân để họ nhận ra Đức Chúa Giê-su Ki-tô đang sống trong chúng ta vậy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
27.
Năm cuối đời nhà Tây Hán,
Lang
Da là đất của Tề[1],
tập quán của người ở đây là lúc làm việc thì chậm rề rề nhưng thích làm bộ làm
tịch.
-
“Đó là
theo quy cũ trước nay như vậy, mỗi khi có thái thú mới đến nhậm chức đều phải
như thế, đợi sau khi thái thú đến quan sát hỏi han quỵ lụy và bày tỏ sự thành
khẩn, thì mới bằng lòng ra tựu chức”.
-
“Người Tề
muốn đem thói xấu này biến thành phong tục tập quán truyền cho đời sau sao ?”
Thế là bãi miễn tất cả chức vụ của
các hạ quan muốn làm bộ làm tịch này. Tất cả các hạ quan này hối hận mãi không
thôi.
(Cổ
kim tiếu sử)
Suy tư 27 :
Có những cô
gái thích làm bộ làm tịch nên…ở giá, có những chàng trai mất đi
dáng hiên ngang vì làm bộ làm tịch, có những người bỏ mất nhiều
cơ hội tiến thân vì cái thói làm bộ làm tịch của mình…
Con
người ta ai cũng không thích người làm bộ làm tịch, vì những người như thế thì
luôn có một tâm hồn phức tạp, đôi lúc sống không thành thật với bản thân cũng
như với người khác.
Loại
người thứ nhất không nên làm bộ làm tịch là các linh mục, nghĩa là các ngài đừng
chấp hai tay sau lưng và lên giọng kẻ cả khi nói chuyện với giáo dân lớn tuổi
hơn mình trong giáo xứ của mình; loại người thứ hai không nên làm bộ làm tịch
là các tu sĩ nam nữ, nghĩa là họ luôn sống với nét đơn sơ khiêm tốn của mình
trước mặt mọi người, chứ không kiểu cách gượng ép cho ra vẽ mình là một tu sĩ;
loại người thứ ba không nên làm bộ làm tịch là những người Ki-tô hữu, nghĩa là
họ nên sống chan hòa thật lòng với nhau, đừng làm bộ làm tịch nói nói cười cười
nhưng trong lòng thì cả một bồ dao găm hại anh chị em mình…
Các
quan thuộc hạ ở Lang Da đã bị bãi chức vì làm bộ làm tịch với thái thú của
mình, chúng ta cũng sẽ bị “bãi miễn” làm con Thiên Chúa trong ngày phán xét vì
chúng ta cứ làm bộ làm tịch với Ngài khi còn sống ở trần gian này, mà làm bộ làm
tịch với Thiên Chúa tức là sống không chân thành với tha nhân vậy.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)