Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay...


Tác giả : Hạnh Lâm Tử


CHUYỆN NGỤ NGÔN

CHO

THỜI HIỆN NAY

(Chuyện đồng thoại dành cho người lớn)
 
 

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
 
Xin tri ơn
Linh mục nghĩa phụ Ignatio Nguyễn Thới Hoà
Đã cầu nguyện, nâng đỡ và khuyến khích
Những tâm hồn nhiệt thành
Đáp lại lời mời gọi làm Linh mục, Tu sĩ của Chúa.

 
     Lời giới thiệu
      “Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay” là của nữ văn sĩ Hạnh Lâm Tử, người Đài Loan. Bà cảm nghiệm được triết lý sống qua cảnh vật thiên nhiên, dùng những cảnh sinh hoạt của loài vật mà nhân cách hoá câu chuyện, để trở thành những chuyện ngụ ngôn có tính giáo dục cao.
     Những câu chuyện này có thể gợi ý làm bài giảng, dạy giáo lý hoặc dùng để suy tư, cũng rất có ích cho mọi người.
     Sau mỗi câu chuyện có một đoạn ngắn chia sẻ suy tư của người dịch, xin được giới thiệu cùng bạn đọc.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
 -----------------
 
1.  NGỰA TRẮNG, NGỰA ĐEN  
     Chuyện ngựa trắng và ngựa đen cùng kéo xe, tranh chấp không hơn nhau, bèn cùng nhau gặp Đấng tạo hóa, xin Ngài quyết định.
Đấng tạo hóa nói:
-    “Một con ngựa đi nhanh, một con ngựa đi chậm, chiếc xe nhất định phải đổ nhào. Một con ngựa đi về bên trái, một con ngựa đi về bên phải, chiếc xe nhất định rệu rã năm bè bảy mảng. Chỉ có hai con ngựa cùng bước đi nhịp nhàng, nhanh chậm giống nhau, có mục tiêu và phương hướng giống như nhau, thì chiếc xe mới có thể đi được vừa nhanh vừa nhẹ nhàng”.
     Một tấm chăn không đắp được hai người (lớn nhỏ) khác nhau, một chiếc thuyền không lắp hai lái. Tâm địa không giống nhau, không nên mang cùng một ách.

Suy tư 1:
     Thói thường người cùng bè cánh với nhau, thì khi làm việc tương đối dễ chịu hơn.
     Thế giới này chiến tranh liên miên cũng chỉ vì ý thức hệ khác nhau.
     Các phe phái kình chống nhau, dùng mọi thủ đoạn để công kích nhau, cũng chỉ vì không đồng chính kiến với nhau, người ta dùng mọi phương tiện có thể, để lật nhào nhau cũng chỉ vì lòng dạ quá nhỏ nhen.
     Thói thường là như thế.
     Nhưng tinh thần bác ái của Đức Chúa Ki-tô thì không phải như vậy, “bác” là rộng lớn, “ái” là yêu, tình yêu rộng vô biên, cho nên mới có thể chứa đựng những chính kiến khác nhau, những bất đồng khác nhau.
     Giáo Hội của Đức Chúa Ki-tô không phải là một chứng minh hùng hồn của bác ái sao? Giáo Hội không phải là gồm mọi dân tộc trên thế giới sao? Giáo Hội không phải là đủ mọi màu da, chủng tộc sao? Ấy vậy mà vẫn hiệp nhất, vẫn cộng tác với nhau, vẫn thăng tiến thế giới, vẫn trường cửu vững bền cho đến ngày Chúa lại đến.
     Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn, mà trong đó, mỗi cá nhân đều quên mình đi, để vì anh em chị em mà phục vụ.
     Như vậy, không còn ngựa trắng hay ngựa đen nữa, mà chỉ có một mục tiêu mà mỗi phần tử trong cộng đoàn đều hướng đến: bác ái.
2.  MÂU THUẪN
     Con người ta khi đến bước đường cùng cho đến khi mù tịt không biết gì, thì quay lại cầu xin Đấng tạo hóa thương xót.
     Đấng tạo hóa nói đúng điểm then chốt giả dối của con người:
-        “Các ngươi gọi Ta là Chúa, nhưng không kính trọng Ta là Chúa; các ngươi cầu mong Ta làm Chúa, nhưng lại oán trách Ta làm Chúa”.
Suy tư 2:
     Con người ta khi nghèo quá, thì lại oán trách ông trời sao lại để cho mình nghèo như thế ?
     Con người ta khi giàu có quá dư thừa, no đủ, thì Thiên Chúa cũng không tránh khỏi bị chửi: sao ông trời để tôi đánh bạc thua, để tôi bị mất tiền, để tôi bị chúng lừa…
     Thất vọng: oán trách Thiên Chúa.
     Đã được thoả mãn: quên mất Thiên Chúa.
     Chỉ có những ai biết nhìn đến những việc mà Thiên Chúa đã làm cho mình, mới không ngớt lời cảm tạ tình yêu của Ngài mà thôi.
3.  MỐT THỊNH HÀNH
     Một trận gió, trong rừng rậm đột nhiên nổi lên một trận phong ba, rất nhiều động vật đều say đắm trong tử vi, bói toán, coi sao trên trời, địa lý, vui vẻ không biết mệt nhọc.
     Đấng tạo hóa nhìn thấy hiện tượng quái lạ này, than thở, nói: “Bói toán mê tín, là vì thiếu lòng tin đối với mình. Các ngươi dùng phương trình để thiết kế mình, để suy ra quá khứ và tương lai của mình. Kết quả là dễ bị vây trong cảnh hỗn loạn, vừa khóc vừa cười, vừa vui vừa sầu”.
Suy tư 3:
     Hồi còn nhỏ, mỗi ngày tôi đều có học giáo lý, nhưng lúc đó nơi quê tôi gọi là học kinh nghĩa, cho đến bây giờ, sau hơn ba mươi năm, tôi vẫn còn thuộc làu câu giáo lý của kinh nghĩa:
     Hỏi: “Hỏi dị đoan là gì?
     Thưa: “Thưa là những sự đơm tế quảy lạy ông bà cha mẹ, tin bói khoa nham độn, cậy phù thuỷ pháp môn nhan, tướng mạo, chọn ngày giờ, chạp giỗ, lên đồng xuống đồng, thờ tiên sư, thổ công..., đặt bài vị cây nêu… …đốt giấy tiền vàng bạc, khi chiêm bao mộng huyễn, gặp đàn ông đàn bà bàn luận tốt xấu, cùng là tin chim kêu gà gáy chuột túc, nhện sa, rằng thiên rằng thính và mọi điều khác như vậy”.
     Ngày nay người ta coi tử vi bằng máy vi tính.
     Người ta tính chuyện hôn nhân cũng bằng máy tính điện tử.
     Làm nhà, mở công xưởng, đi du lịch, đi làm ăn cũng “hỏi” máy vi tính.
     Người ta hiện đại hoá dị đoan.
     Người ta quên mất nguồn gốc, nguyên nhân của hiện tại, quá khứ và tương lai là Thiên Chúa.
     Như thế cũng đủ biết con người ta tin thật nhiều điều nhảm nhí, và cũng có những người công giáo vừa tin vào Thiên Chúa, vừa tin vào những điều gọi là dị đoan ở trên.
4.  BỐN QUÂN TỬ.  
     Mai, Lan, Cúc, Trúc, vì để tranh giành chức vị vua trong các loài hoa, nên chúng nó đều sử dụng các loại thủ đoạn để chèn ép lẫn nhau, giở đủ mọi thứ thủ đoạn xấu xa.
     Chim hạc hỏi Đấng tạo hóa:
-        “Lạ thật, họ không phải là bốn quân tử sao, bình thường thì phong độ thanh thoát, khiêm tốn hoà nhã có lễ nghĩa, tại sao bây giờ lại biến thành như thế chứ?”
     Đấng tạo hóa trả lời:
-        “Phải hay không phải là quân tử, thì chỉ có để cám dỗ ra trước mặt thì bản tính tự nhiên sẽ lòi ra”.
Suy tư 4:
     Người ta thường nói, đừng lấy thước mà đo lòng quân tử, thước đây chính là ám chỉ đến tiền tài, danh vọng, quyền uy.
     Có quân tử không chết vì tiền, nhưng chết vì sắc đẹp; có quân tử không chết vì sắc đẹp, nhưng lại chết vì danh vọng; cũng có hạng quân tử không chết vì danh vọng, nhưng lại “ngẻo” vì một tiếng khen… lãng nhách.
     Có người bộ dáng bên ngoài thì như là quân tử chính hiệu “con nai vàng”, chẳng có chi làm lung lay được họ, nhưng khi đụng chạm đến quyền lợi cá nhân thì họ biến thành “con chó sói” chính hiệu, giương nanh vuốt móng, nhìn thấy mà ghê.
     Nhạc Bất Quần được giới võ lâm tặng cho danh hiệu cao quý: quân tử kiếm, thế nhưng vì pho võ công “Tịch tà kiếm pháp” mà ông ta đã đánh mất tất cả, mất nhân cách, mất nhân phẩm, giết đệ tử, lừa bạn bè, đến nỗi bà vợ chịu không nỗi hành vi tiểu nhân hèn hạ của ông nên đã tự tử…
     Vậy thì ai là người quân tử?
     Thưa, chính là người biết “kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em như chính mình vậy”.
Thật, làm người quân tử khó lắm thay!
5-  ÁI TÌNH CỦA PHONG TÍN TỬ [1]
     Phong Tín Tử nhìn thấy cái bóng xa xa của con bươm bướm, tình cảm liên miên, bèn nói: “Các anh coi, con bướm vừa đẹp đẽ lại vừa dịu hiền, hơn nữa phong cách lại thanh thoát. Không như con ong mật chỉ biết kêu vù vù, mà lại còn mang thêm một cái kim châm, đi đốt người khắp nơi, thật là đáng ghét chết đi được”.
     Hoa sen trêu chọc: “Ấy là vì anh thích con bướm, người mà anh thích thì tất cả khuyết điểm đều thành ưu điểm; người mà anh không thích thì ngay cả ưu điểm của họ [anh] nhìn cũng không thấy”.
Suy tư 5:
     Tục ngữ Việt Nam có câu: “Khi yêu thì trái ấu cũng tròn, khi ghét thì trái bồ hòn cũng méo”. Trái ấu thì ai cũng biết nó “méo” đến thậm tệ, nhưng thật ra nó không phải méo, mà là hình thù chẳng ra cái gì cả; còn trái bồ hòn “tròn” đến mức độ nào thì ai mà chẳng biết, khỏi nói.
Nhưng cái đáng nói ở đây chính là yêu và ghét đều có thể làm cho tròn biến thành méo, và từ méo biến thành tròn, đúng là vĩ đại.
     Chỉ có tình yêu của Đức Chúa Giê-su mới có đủ sức làm méo ra tròn.
     Chỉ có sự ganh ghét của ma quỷ mới làm cho tròn thành méo.
     Ôi ! Yêu và ghét đều là do cái tâm mà ra cả.
6.  NÔ LỆ CHO THÓI QUEN 
     Có một thời, hoa sen rất được mọi người tán thưởng, nhưng đến khi tiếng vỗ tay dần dần chấm dứt, thì nó lại như mất cái gì đó, bản thân không được thoải mái.
     Đấng tạo hóa nói: “Người nát rượu chìm trong cồn, người đánh bạc lạc mất giữa những con số, con chữ. Lúc nào con đắm đuối trong thói quen, thì trở thành nô lệ cho thói quen”.
Suy tư 6:
      Cũng là chuyện thường tình của con người mà thôi, mấy cô gái khi nghe ai khen mình đẹp thì khoái tít lên chứ, ai khen mình tài giỏi thì cũng sung sướng hơn học sinh được điểm mười.
     Nhưng nếu nhìn một cô gái mà nói: cô xấu như quỷ dạ xoa thì có nước mà chết sớm, cô ta sẽ la toáng lên, nào là có mắt như đui, nào là mắt không tròng, nào là…
     Con người ta ai cũng thích được kẻ khác khen, dù là khen dối trá, khen để lấy lòng, khen để hưởng xái vài chút danh quyền, chút tình yêu còm cỏi, vì thế, khi người ta không còn khen nữa thì lại buồn rầu, lại trách móc và…hận đời.
     Khen hay chê, không phải tự nhiên mà có, nhưng bởi tại mình mà ra.
     Mình làm tốt: khen
     Mình làm dở: chê,
đó là chuyện thường tình của người đời, chẳng có chi lạ cả. Nhưng cái lạ chính là: khi người ta khen hay chê mà mình vẫn vui tươi, cười sung sướng, coi họ là anh em, cái đó đúng là “ngược đời”, là môn đệ của Đức Chúa Ki-tô vậy.
7.  LÒNG KHÔNG BỐ TRÍ PHÒNG THỦ
     Hoa hải đường ôm tâm nhĩ bị nghiến đau và chảy máu, đau khổ nói với Đấng tạo hóa:
-    “Người lạ làm tổn thương con, con có thể quên đi rất nhanh, tại sao người càng thân cận, càng làm cho con không thể chịu đựng được?”
     Đấng tạo hóa thở dài, nói:
-    “Thân cận không nhất định là thân mật, thân mật không nhất định là thân yêu. Người càng thân cận thường làm tổn thương cho nhau càng sâu. Trước mặt người chí thân, chí cận, chí ái, thì trong lòng mình không bố trí phòng thủ, cho đến nỗi bị vết thương vừa sâu vừa lớn.”

Suy tư 7:
     Tục ngữ Việt Nam có câu: “Yêu nhau lắm, cắn nhau đau”, thật là đúng trăm phần trăm, không chê vào đâu được.
     Các cặp vợ chồng trước khi ly dị, không phải là họ đã có thời kỳ yêu nhau lắm sao?
     Các bạn trẻ thanh niên nam nữ, trước khi chia tay nhau “đường ai nấy đi”, không phải đã có lần họ đã bất chấp những nghề nghiệp tương lai mà cha mẹ định sẵn cho họ, để đi theo tiếng gọi tình yêu của người bạn gái [trai] sao?
… … … … … … … … … … …
     Họ đã có một thời bất chấp mọi thứ trên đời: khen chê, thù ghét, đau khổ, vui buồn, sung sướng, phớt lờ mọi sự để được yêu hay sao ?
     Nhưng cái đau khổ nhất của họ chính là bị người yêu phản bội, bởi càng yêu thương tin tưởng bao nhiêu, đến khi tan vỡ, thì sự thù ghét cũng theo đó mà nhân lên cho đầy bấy nhiêu.
     Con người ta mà đã như thế huống chi là Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không xử sự như con người, nghĩa là Ngài không thù hận, không oán ghét, không “yêu nhau lắm, cắn nhau đau”, nhưng Ngài càng yêu thì càng xoá bỏ những khuyết điểm, càng ban ân sủng, càng chờ đợi.
     Ngài sẽ buồn biết bao, khi chúng ta lừa dối và phản bội Ngài.
8.  CON DIỆC THÍCH KIỆN.
     Con diệc quen thói cáo trạng trong khi cầu khẩn :
-    “Đấng tạo hóa ạ, Ngài xem, con chim bay  không trồng cũng không thu hoạch, nhưng lại sống nhàn nhã thoải mái, không phải lo ăn lo mặc, thật quá lười biếng. Hoa bách hợp không kéo sợi cũng không dệt, từ sáng đến tối chỉ làm đỏm cho mình, thật là rất dễ hao kiệt [tinh thần]. Ngài có nên cho họ một bài giáo huấn để họ tỉnh táo chăng?”
     Đấng tạo hóa thở dài, nói:
-    “Người tự cho mình là nhân nghĩa ơi, khuyết điểm lớn nhất của con chính là: thích đóng người khác vào  thập giá”.
Suy tư 8:
     Người biệt phái vào cầu nguyện trong đền thờ (Mt 18, 9-12), đã tố cáo người thu thuế đang qùy cầu nguyện ở phía sau: “Lạy Chúa, con không như cái thằng thu thuế tội lỗi kia, nó không ăn chay mỗi tuần, nó không bố thí mà chỉ biết bóc lột, nó…”
     Có những tín hữu khi vào toà xưng tội nhưng không chấp nhận tội của mình, mà cứ đổ tội cho người khác: “Thưa cha, nếu con mẹ ấy không chửi con thì con sẽ làm ngơ. Thưa cha, nếu thằng cha đó không có chọc ghẹo con, thì con không có mắng nó là đồ tồi, đồ dơ dáy…”
     Có những người lúc cầu nguyện mà cứ phân bì với người khác: “Lạy Chúa, sao Chúa cho nó giàu có thế, tiền dư bạc thừa để nó ăn chơi đàng điếm, nếu Chúa cho con thì con không như nó đâu, con sẽ bố thí cho người nghèo, con sẽ dâng cho nhà thờ, con sẽ…”
     Nếu trong khi cầu nguyện mà chúng ta biết nói: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vô cùng, vì Chúa đã ban cho con như con đang có, nếu con giàu có, thì chắc con sẽ kiêu ngạo vô cùng; nếu con hơn mọi người, thì chắc là con coi trời chằng có ki-lô-gam nào cả. Lạy Chúa, Chúa ban cho anh [chị] ấy nhiều thứ quá, tiền bạc, danh vọng, vợ đẹp con ngoan, xin Chúa cho họ biết sử dụng những thứ ấy để làm sáng danh Chúa và có ích cho họ, cho mọi người…”
9.  BIẾT BAY
     Con chim nói: “Tôi biết bay”
     Hoa sen nói: “Tôi cũng biết bay”.
     Con chim khinh miệt không thèm nhìn hoa sen, nói:
-    “Mày (nói) có sai không? Mày đã bị đóng chết trên mặt đất, làm thế nào mà bay được chứ?”
     Hoa sen vui vẻ, sung sướng trả lời rất tự nhiên:
-    “Anh sử dụng cánh để bay, còn tôi dùng quả tim để bay”.
Suy tư 9:
     Thiên Chúa ban cho mỗi người tài năng tri thức không giống nhau: có người thông thạo thiên văn địa lý, có người dạy học, có người làm họa sĩ, có người làm ruộng chân lấm tay bùn, có người buôn bán, có người làm linh mục, có người làm dì phước.v.v…
     Ai cũng có tư cách và nhân phẩm của mình.
     Ai cũng có khối óc để suy tư và quả tim để yêu thương.
     Vậy thì, không có lý do gì mà ngăn cấm anh chị em thăng tiến, bay cao.
10. TÌM TÒI VẬN MỆNH
      Chim quạ rất lưu tâm đến cái gọi là “vận mệnh”.
     Nó cũng không ngừng trưng cầu cách nhìn của người khác đối với “vận mệnh”. Con cáo nói nó cũng không dám nghĩ đến vấn đề này, càng nghĩ càng hồ đồ, mà con rái cá có một bộ dạng mù tịt không biết tí gì, tự nó còn lo cho mình qua ngày đoạn tháng cũng chưa xong, vậy mà con chim quạ cũng mê hoặc nó.
     Rốt cuộc, có hay không có “vận mệnh” chứ, tại sao càng tìm tòi, càng cảm thấy nó thất thường bất đắc dĩ ?
Suy tư 10:
     Con người ta từ cổ chí kim, giàu hay nghèo, có học hay không có học, cũng đều muốn biết vận mệnh của mình như thế nào, vì thế, họ tìm cách sửa đổi vận mệnh của mình.
     Nhưng chẳng mấy ai biết vận mệnh là gì cả.
     Họ chỉ biết lúc nào làm ăn thua lỗ thì cho là vận xui; lúc nào công ty sạt nghiệp thì cho là thời vận chưa tới, vận xui; lật xe, con chết, vợ theo trai, họ cũng cho là vận xui...
     Có người vì thấy thời vận của mình quá đen, quá hắc ám, nên không ngần ngại bỏ tiền ra để mua vận mệnh hên, nhưng rốt cuộc tiền mất mà vận xui vẫn cứ đuổi không đi.
     Đố ai mà biết được vận mệnh của mình ? Trên đời này từ xưa đến nay chẳng có một người nào biết cả, ngoại trừ Thiên Chúa.
     Nhưng cho dù là chúng ta không biết vận mệnh của mình ra sao, thì chúng ta cũng có thể an vui đi theo vận mệnh, đó là thực hành ý Chúa mọi ngày trong cuộc sống của mình.
11. CHIM CÚ KHÔNG GẶP VẬN MAY
     Chim cú bay đến trên sân thượng của nhà người ta kêu “ố ồ”, làm cho con người vừa chửi, vừa lấy đá ném nó.
     Chim cú mình đầy thương tích, buồn bã khóc tấm tức :
-    “Chúa ạ, con thật là vật chẳng lành sao?”.
-    “Đương nhiên là không phải, bé con.”- Đấng tạo hóa hiền hoà nói tiếp: “Nhưng nhân loại chỉ quen đem mình hạn chế trong quan niệm bất di bất dịch, đem yêu thích của mình để làm yêu thích, đem tiêu chuẩn của mình để làm tiêu chuẩn, ấn định cho thế giới nầy rất nhiều đẳng cấp…”
Suy tư 11:
     Con cú mèo đối với con người có ích lắm chứ.
     Nầy nhé, nó bắt mấy chú chuột phá hoại mùa màng.
     Tôi còn suy ra thêm một đức tính của chim cú nữa, đó là hy sinh. Bạn đừng vội cười, ban ngày, khi bạn vui vẻ học hành, khi bạn đi làm việc kiếm tiền, khi bạn dung dăng dung dẻ dắt bồ đi phố xá coi xe coi cộ, mua sắm hàng hoá, thì con cú kiếm một hốc cây nào đó để nghỉ ngơi, chẳng màng đến chuyện phù vân của con người. Ban đêm, khi bạn đang ngon giấc với nhiều mộng đẹp, nghỉ ngơi sau một ngày vất vả, thì chim cú lại đi làm công việc thanh trừng chuột là những kẻ phá hoại mùa màng của con người…
     Ấy vậy mà con người lại ghét nó chứ, đúng là không công bằng, và con người quả có thành kiến rất đáng sợ.
     Vì thành kiến với ai đó, cho nên thấy họ làm gì, hay dở chưa biết cứ chê đã, đôi lúc cái hay của họ rõ rõ ràng ràng như thế, mà vẫn cứ chê.
     Thành kiến là căn bệnh bất trị của con người, chỉ có tinh thần bác ái của Đức Chúa Ki-tô mới xoá bỏ thành kiến trong chúng ta mà thôi.
12. KHÔNG OÁN TRÁCH
     Hoa sen ấm ức hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Con đem hương thơm thấm tận tim gan của con, bộ mặt đẹp đẽ của con cho người thưởng thức, thân rễ dành để cho người làm thức ăn, nhuỵ hoa có thể dùng làm thuốc. Con đem cuộc đời của con ra cống hiến mà không giữ lại một chút gì cả, Ngài còn muốn con như thế nào nữa chứ?”
     Đấng tạo hóa trả lời :
-    “Ta muốn con không oán trách”.
Suy tư 12:
     Cây đèn cầy khi nó toả sáng chiếu soi, thì tự nó hao đi nhưng nó không oán trách, vì đó là bổn phận của nó, nó tự hủy mình để mọi người được nhìn thấy nhau, vui vẻ và hân hoan trong ánh sáng của nó.
     Khi chúng ta đã dốc toàn lực ra để làm tròn bổn phận, mà chẳng có nhận được một lời khen thưởng hay lời động viên, chúng ta đừng than thở nản chí, vì việc chúng ta đang làm là làm cho Chúa, vì Chúa, chứ không phải vì bản thân mình, cũng không phải vì người này người nọ mà làm.
     Mà đã làm cho Chúa thì cần gì phải trông đợi một lời khen của người đời chứ !
     Người có đức tin thì luôn tâm niệm như thế.
13. TÌNH KHỐN ĐỐN
     Cây trinh nữ vì tình mà khốn đốn, ngày càng tiều tụy, cô ta tấm tức hỏi:
-    “Không yêu, khổ. Yêu, cũng khổ, thì phải nên như thế nào?”
     Đấng tạo hóa nói:
-    “Không yêu thì không buồn, mà yêu thì không oán trách”.
Suy tư 13:
     Có những bạn trẻ nói với tôi: “Thưa thầy, yêu thì khổ, mà không yêu thì lỗ, con thà chịu khổ hơn là chịu lỗ”. Các bạn ấy đã hiểu một nửa của tình yêu, một nửa còn lại thì phải kết hôn rồi mới biết được.
     Yêu là chọn lựa, mà có chọn lựa tức là có hy sinh.
     Có mười chàng trai tất cả đều xuất sắc, cùng yêu một cô gái, cô ta không thể lấy cả mười anh chàng này làm chồng, cô phải chọn một, thế là có hy sinh.
     Yêu và hy sinh giống như hình với bóng, không thể lìa nhau được; yêu mà không hy sinh là ích kỷ; hy sinh mà không yêu là rô-bô, là hành động của chủ nhân ông.
     Thà chịu khổ hơn là chịu lỗ, nhưng đây là cái khổ của hạnh phúc, xin chúc mừng các bạn trẻ.
14. NHÌN SOI
     Hoa sen muốn đến gần nước để soi dung nhan của mình, không ngờ hồ nước chỉ là một vũng nước hổn độn đục ngầu, không khỏi ngạc nhiên, nó giận dữ nói:
-    “Ngài xem, hồ nước ô nhiễm như thế, bảo con làm thế nào nhìn rõ mình chứ?”
     Đấng tạo hóa nhẹ lời nói:
-    “Bé con, nhìn rõ hay không nhìn rõ mình, không ở tại nước trong hay đục, mà là ở tại nơi sự trong đục của tâm hồn”.
Suy tư 14:
     Các cô gái thích soi gương đã đành, vì trời phú cho như thế để làm đỏm làm dáng chứ !
     Ấy vậy mà các chàng trai coi bộ cũng thích soi gương và chải tóc luôn như các cô nàng vậy đó.
     Mỗi ngày, con gái con trai đều có soi gương để coi mặt mũi của mình ngày hôm nay ra sao, họ chỉ coi được phía trước mặt, tức là thấy được mắt, mũi, miệng, lông mày, lông mi, chứ sau ót sau lưng thì làm sao mà thấy được?
     Nhưng nếu mọi ngày, con trai, con gái và hết mọi người, đều soi lòng mình bằng chính lời của Chúa, thì chắc chắn khuôn mặt của tâm hồn họ sẽ đẹp hơn, dịu dàng hơn, khả ái hơn và hấp dẫn hơn.
     Đúng là Lời Chúa hấp dẫn thật.
15. ĐỐI THOẠI VỚI BÙN [1]
     Có người hỏi bùn:
-    “Anh lấy toàn bộ sinh mệnh bồi bổ cho sen, sen cao quý đẹp đẽ, hưởng hết vinh hoa phú quý của nhân gian, mà anh thì lại chịu đựng đủ điều chế giễu ghẻ lạnh, anh không ghen ghét, không vì thế mà uất ức sao?”
     Bùn nói:
-    “Xưa nay chưa từng có ai làm mẹ mà ghét bỏ con gái đi lấy chồng; cũng như từ trước đến nay không ai làm bố mà ghen ghét thành tựu của con cái vượt qua mình”.
     Trong tình yêu nếu không có bao dung, thì yêu không trọn vẹn.
Suy tư 15:
     Chữ “bao”, có nghĩa là ôm, gói, bọc, đùm…
     Chữ “dung”, có nghĩa là chứa, đựng và cũng có nghĩa là dung thứ…
     Giải thích theo nghĩa của tình yêu, bao dung là tha thứ, là khoan dung.
     Vợ hoặc chồng dung thứ cho nhau nhiều lắm là ba lần, qua lần thứ tư thì đem nhau ra tòa ly dị.
     Bố mẹ dung thứ cho con cái ngỗ nghịch, nhiều hơn vợ chồng dung thứ cho nhau nhiều lần, nhưng đứa con nào quá quắc, chịu không nỗi, bố mẹ mới đăng báo từ con.
     Nhưng sự bao dung của Thiên Chúa thì không thể kể hết được, sư bao dung của Ngài rộng lớn vô cùng, trời đất vạn vật không thể chứa nổi.
     Chúng ta luôn xúc phạm đến tình yêu của Ngài, luôn ngổ nghịch với Ngài, nhưng Ngài chẳng đăng báo từ con, cũng chẳng đưa ra toà ly dị, trái lại, Ngài vẫn luôn đợi chờ chúng ta, sẵn sàng đưa tay ra ôm chúng ta vào lòng.
     Sự bao dung của Thiên Chúa thật là quá lớn, cho nên tình yêu của Ngài cũng vô bến bờ.
16. ĐỐI THOẠI VỚI BÙN [2]
     Có người hỏi bùn:
-    “So với sen, nó có ngoại hình đẹp đẽ, nó có hương vị thơm tho, nó có dáng điệu lộng lẫy. Từ xưa đến nay, quốc nội hay quốc ngoại, bao nhiêu tao nhân mặc khách ngâm thơ làm nhạc tán tụng nó; bao nhiêu hoạ gia, nghệ nhân miêu tả nó; bao nhiêu người thưởng thức nó; bao nhiêu người yêu thích nó, còn anh, anh cái gì cũng không có…”
     Bùn nói:
-    “Anh sai rồi, tôi có trải qua toàn bộ sinh trưởng của sen, tôi đã chia sẻ mầm sống mới của nó; sự vui mừng, lo sợ, kinh ngạc trong thời gian thanh xuân của nó, tôi hiểu biết sự buồn khổ của nó; nơi sự thẹn thùng đãi phóng của nó, tôi chia sẻ những sự việc giấu trong lòng của nó; tài hoa nhất đời của nó, tôi mặc hưởng vinh dự và tiếng vỗ tay của nó; lúc sảng khoái thành thục, chúng tôi cùng hoan hô vui mừng được mùa. Nó đi thẳng một mạch đến khô tàn tử vong, tôi vẫn vì nó mà gánh vác trách nhiệm chăm bón thế hệ sau nó.
     Anh biết không, tất cả cái mà các anh biết, bất quá chỉ là hình tượng bên ngoài của sen, mà tôi thì lại có đủ toàn bộ cuộc sống của nó”.
Suy tư 16:
     Con người ta hay ghen ghét, thấy ai hơn mình điều gì thì chịu không nỗi, tìm mọi cách để hạ bệ, để công kích.
     Có người xét bụng ta ra bụng người, mình không thích nhưng thường mượn lời anh em chị em để nói xấu người khác.
     Câu chuyện của bùn chỉ là một câu chuyện ngụ ngôn, nhưng có tính giáo dục cao.
     Càng hiểu anh chị em, thì càng yêu mến anh chị em nhiều hơn; biết người anh em chị em có những khuyết điểm, thì càng thương yêu giúp đỡ nhiều hơn nữa.
     Có người nói tôi rất hiểu bạn tôi, chẳng ai hiểu nó bằng tôi, nhưng lại thường hay chỉ trích, nói xấu và luôn luôn không bằng lòng người anh em chị em của mình.
     Trước khi nói mình hiểu người khác, thì nên hiểu mình trước.
17. ĐỐI THOẠI VỚI BÙN [3]
     Có người hỏi bùn:
-    “Anh không cảm thấy mình dơ bẩn hay sao?”
     Bùn nói:
-    “Nếu trong lòng anh sạch sẽ, thì sẽ nhìn thấy sự sạch sẽ của tôi; nếu trong lòng anh không sạch sẽ, thì trời đất vạn vật sẽ không gì là không dơ bẩn với anh”.
Suy tư 17:
     Các thánh nhân đi đến đâu đều mang quà tặng đến đó phân phát cho mọi người.
     Quà đây chẳng phải là tiền bạc, quà cáp, danh vọng mà là niềm vui, niềm hạnh phúc. Tại sao vậy, bởi vì các ngài nhìn mọi việc, mọi người bằng con mắt của Thiên Chúa, nghĩa là đối với các ngài, ai cũng là đẹp, ai cũng đáng yêu, dù họ là hạng người nào đi chăng nữa, vì chính họ là hình ảnh của Thiên Chúa.
     Các ngài không lấy “bụng ta đo bụng người”, nhưng các ngài đã lấy tình yêu của Đức Chúa Ki-tô mà nhìn mọi việc. Xấu thì làm cho tốt, tốt thì càng làm cho tốt hơn, tốt hơn thì trở nên như các ngài là những sứ giả của Thiên Chúa, là môn đệ của Đức Ki-tô.
     Đừng so sánh mình với ai, cũng đừng lấy ai để so sánh với mình, nhưng chỉ nhìn vào Đức Chúa Ki-tô và các thánh để so sánh, coi mình đã được như các ngài hay chưa, bởi vì các ngài là những hoa quả rất tốt đẹp của Ngài vậy.
18. ĐỐI THOẠI VỚI BÙN [4]
     Có người hỏi bùn:
-    “Anh dốc lòng với đất, im hơi lặng tiếng, bị người giày xéo, áo ngoài lại không màu sắc, anh không cảm thấy buồn phiền chút nào cả sao?”
     Bùn nói:
-    “Khôn ngoan chân chính là (che giấu) ở bên trong, tài hoa chân chính là ở chỗ trầm mặc; tôi để cỏ hoa cây cối sinh trưởng tràn trề, chất dinh dưỡng cung ứng cho chúng nó không thiếu, sinh mệnh của tôi thì vô cùng, sức mạnh còn chưa lộ ra rõ ràng đó sao?
Suy tư 18:
     Bố mẹ thường lo âu khi thấy con cái tài hoa phát tiết hết cả ra ngoài, đó là quan niệm của dị đoan: “Đa tài bạc mệnh, hồng nhan đa truân”.
     Con nít mà ăn nói hơi chút rõ ràng, nhanh nhẹn, thì nói là con nít ranh, lém…
     Thanh thiếu niên mà ăn nói chững chạc, có chút hiểu biết, thì cũng nói: thằng lõi đời.
     Sự khôn ngoan của vua Sa-lô-mon thì chẳng có ai thấy, chỉ đọc trong thánh kinh một vài câu chuyện. Khôn ngoan của người đời là để làm lợi cho mình, tìm danh vọng địa vị, tiền tài, do đó mà nó chóng qua mau tàn.
     Khôn ngoan đích thực của chúng ta là thập giá của Đức Chúa Ki-tô.
     Khôn ngoan không bộc lộ ra bên ngoài, đi đâu cũng ngẩng cái mặt lên: ta là khôn ngoan, là cái rốn của tụi bây.
     Khôn ngoan không phải là nói những lời cao siêu không ai hiểu, mà chính là những lời mộc mạc, phát xuất từ sự yêu mến lời Thiên Chúa, thấm nhuần lời của Thiên Chúa.
     Bởi vì sự khôn ngoan của Thiên Chúa thì khác với sự khôn ngoan của loài người.
19. ẨN TRỐN
     Cú mèo, vì để tìm tòi bản chất của sinh mệnh và các định vị trong vũ trụ, bèn quyết định đóng cửa một năm, nó triệu tập hội nghị ký giả và chiêu đãi đặc biết, rồi nói rõ lý do bế quan [của mình], và yêu cầu mọi người không nên quấy rầy tâm trạng của nó.
     Không hẹn mà gặp, cò trắng cũng đúng lúc, vì để điều chỉnh quan hệ với Đấng tạo hóa và theo đuổi sự yên lặng cho tâm hồn, nên nghĩ rằng cần phải lui đến một nơi tu viện thật thanh vắng để tĩnh tâm. Trước khi đi, nó kính nhờ mỗi một bạn hữu dù quen hay không quen cầu nguyện cho nó: “Lần này tôi phải nhịn ăn bảy ngày, nhất định các anh phải cầu xin cho tôi”.
     Con thỏ không hiểu nói:
-    “Kỳ cục, có phải chúng nó ẩn trốn không, làm cái gì mà chúng nó náo loạn cả lên, thiên hạ đều biết thế!”
Suy tư 19:
     Có người khi ăn chay thì la toáng lên: “Tôi đang ăn chay”, có người khi làm được việc gì cho anh chị em thì “khiêm tốn” kể cách vô tư cho người khác nghe.
     Ăn chay không phải là ăn ít đi, nhưng là ăn những cái mà ngày thường mình không thích, đó chính là hy sinh.
Có những người đến ngày ăn chay thì không đi làm việc, vì đang ăn chay sợ đói đi làm không nổi; có người thích kể cho người khác nghe chuyện ăn chay của mình, tiên tri Giô-na đã nói: “Hãy xé lòng, đừng xé áo”.
     Nhưng có người đâu có lòng nữa mà xé, vì mọi thứ họ có thì họ đều để cả bên ngoài bộ mặt rồi. Như vậy có phải là họ không có tấm lòng không ?
20. NGỖNG TRỜI KIÊU NGẠO
     Ngỗng trời từ lúc du học trở về nước, càng ngày càng cảm thấy cha mẹ là đạo đức giả khó mà thông cảm, những lời nhạt nhẽo của bạn bè, của xã hội là lỗi thời. Quả thật, nó không thể chịu đựng nổi và không ngừng chỉ trích trách móc:
-    “Trời ạ, thế giới này sao lại trở thành ngu đần, vô tri như thế chứ ?”
-    “Bé con, sửa đổi lại không phải là thế giới này, mà chính là nhà ngươi đó”. Đấng tạo hóa nhẹ lời nói tiếp: “Nếu tri thức để cho người kiêu ngạo, thì tri thức sẽ làm cho người ấy té nhào. Nếu học vị để cho người ham hư vinh, thì học vị giống như một bức tường vậy, đem người ta đóng kín ở bên trong…”
Suy tư 20:
     Có người được may mắn đi học nước ngoài, vinh vang tự đắc coi bạn bè không ra gì.
     Có người ra nước ngoài học được vài chữ, thì khoe khoang khắp cùng bờ cõi trái đất: “Tôi học ở một ngôi trường nổi tiếng, ở đây giáo sư dạy giỏi…”, nhưng thực chất họ học hành chẳng ra cái giống gì cả.
     Các bạn trẻ thường có tính sính ngoại, đồng ý là các nước ấy văn minh, tiến bộ, nhưng ta nên học những cái hay của họ để áp dụng cho mình, cho cộng đoàn và cho tổ quốc.
     Có người mới học được vài chữ, nói nôm na bình dân theo kiểu Việt Nam mình là “chữ nghĩa không đầy lá mít”, mà đã chê bai sách nầy viết chẳng ra gì, sách kia viết chẳng ra hồn, chê luôn cả những tác phẩm giá trị về văn học, tôn giáo và khoa học.
     Tôi nghiệm thấy rằng, họ chê vì họ không đủ trình độ để hiểu, đọc mà chẳng hiểu gì, đọc như trẻ em tiểu học đọc sách đại học, đọc được mặt chữ, còn ý nghĩa thì như người mù sờ voi.
     Lúc nào đọc mà không hiểu gì cả, thì nên khiêm tốn nói: tôi không hiểu gì cả, có lẽ phải học thêm, thì đã tiến bộ rồi vậy.
-    Khiêm tốn mà học hỏi thì như than hồng âm ĩ cháy mãi không thôi.
-   Học hỏi trong khiêm tốn, thì như mặt trời từ từ ló dạng ở phương đông, cho đến lúc toả sáng, đem lại ánh quang cho mọi người.
     Đức Chúa Giê-su đã nói Nước Trời không mạc khải cho những kẻ thông thái khôn ngoan đó sao ?
     Đố các bạn biết tại sao?
     Đơn giản là: tâm hồn của họ đã chứa đầy mọi thứ thông thái khôn ngoan của thế gian rồi, còn chỗ đâu nữa để chứa những sự vĩ đại của Nước Trời chứ!
21. CÂY CỎ NHỎ KHÔNG ĐẦU HÀNG
     Thần của vận mệnh vội vàng muốn đoạt đi sinh mệnh của cây cỏ nhỏ.
     Ông ta dùng ánh mặt trời gay gắt đốt cháy, dùng mưa rào làm ngập lụt, dùng gió tuyết ức hiếp, cuối cùng cây cỏ nhỏ bị che mất hơi thở.
     Thần  vận mệnh cười độc ác:
-    “Cuối cùng mày cũng phải đầu hàng”.
     Cây cỏ nhỏ lấy hơi thở cuối cùng nói:
-    “Sự sống cho ông, sự cao quý thì giữ lại”.
Suy tư 21:
     Trước gươm đao, các vị tử đạo không biết đầu hàng, thà chết chứ không bỏ đạo, chối Chúa.
     Bảy anh em và bà mẹ thời Cựu ước đã thà chịu chết chứ không lỗi lề luật của cha ông (2 Mcb 7, 1-41).
     Đọc hạnh các thánh, càng đọc càng thấy các ngài thật anh hùng, và ước gì mình cũng được tử đạo như các ngài…
     Nhưng có thứ tử đạo nhẹ nhàng mà hiệu quả không kém, đó là tử đạo cho “cái tôi” của mình, nghĩa là từ bỏ cái ý riêng của mình để bắt nó đi theo hướng khác, hướng về Nước Trời. Cách tử đạo này không đổ máu, không có lý hình roi vọt, nhưng khó mà vượt qua nổi, nếu chúng ta không biết trang bị cho mình bằng thứ vũ khí: Cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện.
     Chỉ có cầu nguyện mới làm cho những hy sinh hãm mình và đau khổ của chúng ta đơm bông kết trái thêm nhiều mà thôi.
22. SỰ SỐNG CỦA CÂY CỎ NHỎ
     Mùa xuân này, cỏ nhỏ mọc đầy cả một đồng bằng rộng lớn, một vùng phơi phới đi lên.
     Thần vận mệnh ngạc nhiên nói:
-    “Tụi bây không phải đã chết hết rồi hay sao?”
     Cỏ nhỏ trả lời:
-    “Ông bóp nghẹt được sinh mệnh, nhưng không bóp nghẹt được sức sống”.
Suy tư 22:
     Ba trăm năm đạo Chúa bị bách hại ở Rô-ma, tưởng chừng như… tuyệt chủng, thế nhưng trong âm thầm nó vẫn lớn mạnh, đến khi được tự do giữ đạo, thì đã trở thành cây cổ thụ lớn.
     Giáo Hội Việt Nam cũng đã điêu đứng dưới thời đại của các vua chúa, các quan quyền ngoại đạo đã hớn hở vui mừng, vì đã tiêu diệt được đạo “Gia-tô”, nhưng khi cơn bách hại qua đi, thì hạt giống đức tin đã tràn lan khắp đất nước…
     Thế gian có thể cướp mất mạng sống của chúng ta, nhưng sức sống thì thế gian ma quỷ không làm gì được, càng giết thì càng sống, càng cấm càng bành trướng, bởi chính Thiên Chúa là nguồn sống, mà có loại thụ tạo nào có thể giết được Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình chứ ?
     Không ai có thể giết được Thiên Chúa, nhưng thế gian ma quỷ có thể giết Thiên Chúa trong tâm hồn của chúng ta, nghĩa là chúng nó dùng những cám dỗ đam mê xác thịt, tiền tài danh vọng chức quyền và những hưởng thụ…
23. NGUYÊN TẮC CỦA CON ẾCH
     Con ếch khinh miệt nói với con thỏ mà không thèm để ý:
-    “Anh xem, con trăn dáng bộ ra vẻ vênh vang, nhưng thực ra tài năng của nó là giả dối, loại người ấy, thật tôi nhìn không được”.
     Nói qua nói lại, tự nhiên có con trăn đi qua trước mặt chúng nó, con ếch vừa thấy, lập tức bỏ mũ hỏi thăm:
-    “Anh trăn, anh khoẻ chứ ? Anh vừa thay quần áo mới thật là phù hợp, vừa rất mốt lại vừa đẹp nữa ạ!”
Suy tư 23:
     Mỗi quốc gia đều có luật lệ riêng.
     Mỗi dân tộc đều có phong tục tập quán riêng.
     Mỗi gia đình có gia phong riêng.
     Mỗi cá nhân có cách sống không giống nhau.
Chúng ta gọi đó là nguyên tắc.
-    Nguyên tắc sống của người thông minh là dành nhiều thời gian để học hành, đọc sách, nghiên cứu.
-    Nguyên tắc làm việc của người buôn bán là: khách hàng + lợi nhuận = làm giàu.
     Ai cũng có nguyên tắc của mình, nhưng người quân tử thì khác tiểu nhân, nguyên tắc của người quân tử là mực thước, nguyên tắc của tiểu nhân là nịnh.
     Chúng ta –những người Ki-tô hữu- có nguyên tắc riêng mà người đời nghe qua đều ngạc nhiên, thấy qua là giật mình, nguyên tắc đó là: “Có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37), và “ai tát má bên phải, thì giơ cả má bên trái ra nữa…” (Mt 5, 39).
     Đúng là một nguyên tắc mà ai thấy cũng phải thán phục, đố các bạn biết tại sao ?
     Thưa, bởi vì Đức Chúa Giê-su đã giảng và đã thực hành nguyên tắc ấy.
24. ĐẸP XẤU CỦA HOA SEN.
     Mùa hè,
     Hoa sen thật tươi đẹp, liếc xéo nhìn mấy cây cỏ nực hôi mùi cỏ, nó không chịu được, vẻ mặt dương dương tự đắc, thế là nó hỏi Đấng tạo hóa:
-    Ngài nhìn con thế nào ?”
-    Ta chỉ nhìn thấy vẻ xấu xí của con!”
     Mùa thu,
     Hoa sen đã già khô, héo tàn, vẻ tươi tốt đã cực kỳ tàn tạ, nhè nhẹ than thở tự nói với mình: “Bây giờ tôi vừa già vừa xấu xí”.
     Đấng tạo hóa nói:
-    “Không, Ta cảm thấy con rất đẹp!”
     Sen không hiểu bèn hỏi:
-    “Tại sao lúc con nở rộ, dáng điệu muôn vẻ, Ngài lại nhìn con xấu xí. Nhưng khi con buồn bã, thế lực đang tàn tạ, thất bại, thì Ngài lại cho rằng con đẹp đẽ?”
     Đấng tạo hóa mĩm cười, nói:
-    “Bé con, lúc con tự cho rằng mình đẹp đẽ, là lúc Ta nhìn thấy hư vinh và kiêu ngạo của con; và lúc nầy đây, ta nhìn được sự chân thành và thẳng thắn của con!”
Suy tư 24:
     Mỗi người điều có những quan niệm và suy tư không giống nhau, nếu có giống nhau thì không phải là thế giới của loài người nữa.
     Và cách nhìn cũng không hoàn toàn giống nhau.
     Cách nhìn đây không phải đứng nhìn một bông hoa rồi nói nó là hoa, cũng chẳng phải đứng nhìn một toà cao ốc, rồi phán một câu nó là nhà cao tầng.
     Cách nhìn đây bao gồm cả tri thức, lý luận, suy tư, thẩm mỹ, tâm lý…
     Thiên Chúa là Đấng vĩ đại vì Ngài có cách nhìn vĩ đại, bao trùm trong ngoài vạn vật, quá khứ, hiện tại và tương lai.
     Các nhà khoa học thì có cách nhìn của nhà khoa học.
     Các triết gia thì có cách nhìn rắc rối của triết gia.
     Các thánh thì nhìn mọi sự đều tốt đẹp.
     Người thế gian thì nhìn mọi vật đều theo cái thích của họ.
     Người đời chỉ nhìn vẻ bên ngoài rồi khen và chê.
     Nhưng Thiên Chúa thì nhìn cả bên trong lẫn bên ngoài mà không hề khen chê, Ngài chỉ nói: “Điều gì con muốn người ta làm cho mình, thì con hãy làm cho người ta trước” (Mt 7, 12).
25. ĐẤT DUNG THÂN
     Vịt rừng tự nhận là mình có tài cao “bá cháy”, nhưng vì không có người thưởng thức, nên than thở vì trong bụng có đầy tài mà không có dịp để thi thố:
-    “Thiên hạ to lớn, không có chỗ để cho tôi đặt chân hay sao?”
     Đấng tạo hóa nhè nhẹ thở dài:
-    “Thiên hạ to lớn, chỗ này không phải nơi để ngươi đặt chân là gì à?”
Suy tư 25:
     Người kiêu ngạo thì giống như toà nhà cao ốc xây trên cát, nguy hiểm vô cùng, và chẳng có ai muốn ở trong đó bởi vì trước sau nói cũng đổ nhào.
     Kiêu ngạo là gì?
     Nói nôm na kiểu bình dân là không biết mà phách lối, không học mà đòi dạy người khác…
     Tại sao lại có kiêu ngạo?
     Cũng nói theo kiểu bình dân là họ học chưa tới nơi tới chốn, họ chỉ mới bước chân đứng nơi thềm cửa nhà đã la lên: “Trong nhà chẳng có chi đáng coi”- họ học chưa tới.
     Biết được vài kỷ xảo, học được vài chữ thì đó không phải là biết để kiêu căng, mà người khác nhìn vào cảm thấy thương hại và tội nghiệp cho họ.
     Con vịt la to lên: “Trời đất bao la như thế nầy?”.
     Người kiêu ngạo cũng như thế: ở đâu họ cũng cảm thấy không xứng đáng cho mình đặt chân, vì họ cho mình trổi vượt hơn các anh em chị em khác!
     Người kiêu ngạo là người đáng tội nghiệp nhất, bởi vì họ không biết trời cao đất thấp là gì, mà chỉ biết một vài cái tài vặt của mình mà thôi.
26. TO NHỎ CỦA TÂM HỒN
     Mây nói:
-    “Tôi có toàn bộ bầu trời để cho tôi lang thang”.
     Chim nói:
-    “Tôi có toàn bộ núi non, để cho tôi bay lượn”.
     Chúng nó cùng mở miệng cười nhạo hoa sen chỉ có một nhúm đất sét dưới chân để đứng được mà thôi, thế là sen rầu rĩ ủ ê, không ngớt oán than.
     Đấng tạo hóa thấy vậy an ủi nó:
-    “Tại sao con không đem bầu trời, đám mây, núi non, chim sẻ mà thu vào trong lòng con?”
-    “Lòng của con thu được rất nhiều thứ đó sao?”
-    “Thằng bé ngốc”- Đấng tạo hóa cười nói tiếp: “Trên đời chỉ có tâm hồn là có thể lớn và có thể nhỏ. To lớn thì có thể chứa đựng cả trời đất vạn vật trong đó, và cũng có thể nhỏ đến nỗi ngay cả cái kim len vào cũng không được!”
Suy tư 26:
     Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.
     Lòng mẹ rộng lớn bao la, đó là điều tự nhiên ai cũng biết, nhưng rộng lớn bao la này thì chỉ đối với con cái của họ mà thôi, còn đối với những đứa trẻ không phải là con họ, họ có bao la như biển Thái Bình không?
     Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình là lẽ tự nhiên trong trời đất, nhưng nếu nói mỗi người chúng ta có một tấm lòng bao la như biển Thái Bình, thì e rằng có người cười chết.
     Vậy mà có người có tấm lòng bao la hơn cả biển Thái Bình, cao hơn trời, ngút ngàn cả vũ trụ: đó là Đức Chúa Giê-su.
     Nếu chúng ta có tâm hồn yêu thương dung thứ bao la của Đức Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ không còn oán trách, phân bì anh chị em của mình.
     Nếu chúng ta có tâm hồn quảng đại khiêm tốn bao la của Đức Chúa Giê-su, chúng ta sẽ đem tất cả cái hay, cái dở của mọi người cất giấu trong tâm hồn và dâng lên cho Thiên Chúa.
     Tâm hồn có thể rất to lớn và có thể rất nhỏ bé tí, tất cả đều tùy thuộc vào chúng ta có yêu mến Thiên Chúa nhiều hay ít mà thôi.
27. SAU TIẾNG VỖ TAY
     Hoa sen được rất nhiều người sủng ái nên không tránh được vênh vang, nhìn người mà tự đắc.
     Không ngờ, có một ngày, mọi người chuyển mắt qua cố ý nhìn cô hoa hồng và chị hoa lan. Vì mình bị coi nhẹ, bị đối xử nhạt nhẽo, cho nên hoa sen nổi giận đùng đùng và hoang mang bất an.
     Nó không ngừng tự hỏi:
-    “Lẽ nào tôi không trở lại đẹp đẽ sao ? Lẽ nào tôi không trở nên quan trọng sao ? Lẽ nào tôi không có tí gì đáng học tập sao ? Tại sao con người ta vô tình đến hiện thực thế ư ?”
     Ngày lại ngày, sen để mình lún trong tình cảnh ấy và lập đi lập lại không ngừng, nó bắt đầu trở nên nóng lòng sốt ruột, căng thẳng và càng tự ái tự ti hơn.
     Đấng tạo hóa thấy sen tự khổ như thế, trong lòng không nỡ, bèn an ủi nói:
-    “Một cá nhân không nên sợ bị người ta quên, bởi vì chỉ có cái tôi tìm được sau tiếng vỗ tay, mới thật là cái tôi”.
Suy tư 27:
     Chữ “bi” có nghĩa là buồn, sầu…
     Chữ “quan” có nghĩa là nhìn, xem, coi…
     Vậy bi quan là nhìn mọi việc, mọi hoàn cảnh, mọi con người bằng cặp mắt kính màu đen của tâm hồn, mọi thứ đều buồn sầu chán nản, thất vọng.
     Người Ki-tô hữu không nên bi quan mà nên lạc quan mãi. Anh có thể buồn vì có người thân qua đời, chị có thể khóc vì người yêu phản bội, nhưng không được bi quan.
     Bi quan là tự cho mình dở, là bất lực trước hoàn cảnh; lạc quan là yêu đời, là vui tươi, là hạnh phúc, là cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa. Vậy thì tại sao chúng ta lại bi quan chứ?
     Bi quan như đám mây đen, làm cho mọi vật buồn rầu ủ rủ; lạc quan như ánh mặt trời chiếu sáng thế gian.
     Người Ki-tô hữu là người đi loan báo tin vui của Nước Trời, nên họ không thể nào bi quan được, nhưng luôn lạc quan ngay trong những bi quan của cuộc đời.
28. HOA BÌM BÌM KHIÊM TỐN
     Hoa bìm bìm kể lể với Đấng tạo hóa:
-    “Cây Bông Gạo cao to anh tuấn, dung mạo xuất chúng; hoa Dành Dành học vấn uyên thâm, tài cao bá cháy; cây Phượng Hoàng nhiệt tình không chấp vặt, duyên dáng cực đẹp.v.v...những cái ưu điểm ấy con không thể bì nổi”.
     Hoa bìm bìm rủ mặt xuống, nén giọng thấp, nói: “Sở trường duy nhất của tôi là: tôi rất khiêm tốn”.
Suy tư 28:
     Có người luôn ao ước cái này cái nọ nhưng không được; có người suốt đời cứ phân bì mình với anh em chị em mà không bắt tay vào làm cái gì cả.
     Thấy cái hay cái tốt của người ta mà thèm.
     Nhìn sự giàu có người khác mà ước mơ.
     Nhưng cuối cùng ước mơ không thành thì lại tự mình an ủi mình: thôi như thế này cũng được rồi.
     Nếu ngay từ đầu mà nói được như thế thì làm được bao nhiêu là việc, vì khi ta chấp nhận cuộc sống hiện tại, là ta đã nỗ lực canh tân tâm hồn ta được một nửa, phần còn lại là bắt tay vào thực hành.
     Các thánh nam nữ trên thiên đàng đều làm như thế khi các ngài còn ở dưới thế gian này.
29. CUỘC ĐỜI CỦA SEN
     Thời gian như bay, sen bắt đầu già.
     Sen thấy hồng nhan thay sắc, da dẻ dần dần mất đi vẻ bóng mịn; sen cho là tài hoa không trở lại, cuộc đời như bóng ngã về tây, cảm thấy bi ai sợ hãi. Lẽ nào cuộc sống kết thúc không tiếng tăm, không hơi thở như thế này sao? Đâu là những vẽ vang ? Đâu là những tiếng vỗ tay ?
     Nó cầu cứu với Đấng tạo hóa, Ngài nhìn nó dịu dàng nói:
-    “Này con, đây là con đường mà mỗi sinh mệnh phải đi qua”.
     Sen vẫn phản kháng đến cùng:
-    “Nhưng không phải Ngài nói sinh mệnh là vĩnh hằng sao?”
     Đấng tạo hóa khẽ cười:
-    “Huyền diệu của sinh mệnh là ở đây: không có sống thì không có chết, không có chết thì không có sống”.
     Trong mình thế lực đang tàn tạ, ngã lòng, dung nhan đẹp đẽ của sen đã bị tróc ra tàn rụng. Trong tuyệt vọng vô cùng, sen đột nhiên phát hiện nhụy hoa nho nhỏ tự thành hình trong nó, hoa sen bắt đầu hiểu rõ lời của Đấng tạo hóa: chỉ có đi qua sự chết, mới có thể trở lại sự sống.
     Sau khi cánh hoa cuối cùng theo gió mà đi, sen đã hài lòng, nở một nụ cười mà tạ thế.
     Đầu xuân năm nay, trong đầm nước mọc lên vô số là hoa sen mới, mát mẽ không bẩn, tiếp tục đón nhận một mùa phong tao.
 
Suy tư 29:
     Ai cũng có một thời để yêu, và một thời để ghét; ai cũng có một thời đẹp đẽ và một thời để  xấu.
     Đẹp và xấu, yêu và ghét là những cụm từ “quái ác” có sức mạnh làm cho các cô gái mười bảy bẽ gãy sừng trâu phải điêu đứng.
     Đẹp, yêu là những tĩnh từ hạnh phúc đối với họ. Xấu, ghét là những từ kinh khủng với họ.
     Đẹp rồi xấu, trẻ rồi già, đó là quy luật của tạo hoá, nhưng những người Ki-tô hữu thì luôn xác tín rằng: sống chết, đẹp xấu, yêu ghét, giàu nghèo của thế gian chỉ là tạm bợ rồi sẽ có ngày qua đi. Chỉ có những ai tin vào Chúa Giê-su và thực hành lời của Ngài, mới được sự sống đời đời mà thôi.
30. CẦN MỘT THẦN TÍCH
     Chúng sinh họp mặt đông đủ hướng về Đấng tạo hóa, nói:
-    “Cho chúng con một thần tích, như thế chúng con mới tin Ngài là Thiên Chúa thật”.
-    “Các ngươi muốn thần tích như thế nào?”- Đấng tạo hóa buồn, thương hại nhìn mọi người, nói tiếp: “Các người có biết các tinh tú làm thế nào mà phát sáng chăng ? Hoa lan làm thế nào mà nở rộ chứ ? Hạt giống vì sao nảy mầm ? Trẻ con trưởng thành như thế nào…? Dòng suối nhỏ chảy ra biển lớn rồi tiếp tục quay về nơi nguồn gốc của nó; cá hồi chó đi ngược dòng sông lớn trở về nơi sinh trưởng của nó…
     Một đời đi qua, một đời lại đến, các ngươi có mắt nhưng nhìn không thấy; có tai nhưng nghe không được, tâm hồn lại bị mỡ lợn bịt kín, cái gì cũng không cảm nhận được sao?”
Suy tư 30:
     Không một học sinh nào đòi coi bằng cấp của thầy cô giáo, chỉ có những người hay ghen và kiêu căng mới làm như thế, vì trên lãnh vực chuyên môn, kiến thức của trò không hơn thầy.
     Người Do Thái và các thượng tế, biệt phái đòi Đức Chúa Giê-su làm một dấu lạ để họ tin vào Ngài là Đấng Mes-si-a, nhưng Ngài chẳng có làm một dấu lạ nào.
     Mà thực ra, Đức Chúa Giê-su đã làm nhiều dấu lạ: người chết sống lại, người què biết đi, người câm nói được, người điếc nghe được, và dấu lạ vĩ đại nhất chính là sự sống lại của Ngài.
     Hơn hai ngàn năm qua, thế gian vẫn còn đòi  Thiên Chúa làm phép lạ.
     Có những Ki-tô hữu cũng đòi Ngài làm phép lạ.
     Trong cuộc sống của mình, cũng có lúc chúng ta đòi Đức Chúa Giê-su làm phép lạ:
-    Khi buồn thì xin phép lạ cho gặp sự vui.
-    Khi thất vọng thì xin Ngài phép lạ cho được hy vọng.
-    Làm ăn thua lỗ, thi rớt cũng xin Ngài làm phép lạ…
     Cái gì cũng xin phép lạ, mà bản thân việc gì cũng chẳng mó tới, học hành thì biếng nhác, làm việc thì sợ khổ, Chúa đâu làm phép lạ cho những người ấy!
     Phép lạ, kỳ tích trước hết phải do chính nơi bản thân của mình nổ lực làm, nổ lực học hành, phải hăng say vui vẻ chu toàn bổn phận thì Chúa mới ban ơn, ban phương tiện cho chúng ta chứ, đó chính là Chúa ở trong chúng ta và cùng làm việc với chúng ta vậy!
31. CON NHỆN TÁM CẲNG
     Con ngỗng hỏi con nhện:
-    “Anh có rất nhiều chân, mỗi lần đi thì sử dụng chân nào trước?”
     Nhện không hiểu, nói:
-    “Tôi có tám cái cẳng sử dụng cùng một lúc”.
-    “Anh sai rồi”- con ngỗng bắt đầu dạy bảo, khuyên nhủ hết nước hết cái, rồi nói tiếp: “Anh nên có kế hoạch cho tốt, muốn đi đến chỗ nào, đi đường nào xa đường nào gần, lại quyết định sử dụng chân nào đi trước, tức là đã có tiết kiệm thể lực, lại không đến nỗi tự mình làm rối loạn tiền tiêu trận địa của mình”.
     Con nhện suy nghĩ liền cảm thấy có lý, bèn quyết định tuân theo lời dạy của con ngỗng.
     Kết quả phát hiện là: mỗi khi cất bước, không phải giữa chân với chân không phối hợp, mà là giữa chân với chân đánh nhau, làm cho nó không nhích chân được một bước, buồn khổ quá chừng, chỉ có cách là hướng về Đấng tạo hóa mà cầu cứu.
     Đấng tạo hóa cười lớn, nói :
-    “Con nên quên mất cái chân của mình đi”.
     Con nhện có tám cái cẳng, làm thế nào để quên mất chứ ? Nó càng nghĩ càng buồn rầu, quyết định nên điền [cái chân] vào cái bụng là chủ yếu, đúng lúc ấy, nó nhìn thấy một con ruồi bay qua, con nhện chuyển thân chồm qua, mới phát hiện mình bản lĩnh linh hoạt, sử dụng chân nào trước một chút cũng không quan trọng.
     Con nhện không còn nghĩ đến vấn đề của cái chân mà con ngỗng cứ cho rằng nó dạy đúng cách.
Suy tư 31:
     Trời đã sinh ra như thế rồi, cái gì cũng có ích cho mình cả, sao lại chặt bỏ đi ?
     Mỗi bộ vị trong thân thể đều phối hợp đến mức tuyệt vời, mà chẳng có nhà khoa học nào làm được đến mức hoàn hảo như thế.
     Con nhện không có lập trường, nó không biết công dụng của cái chân nó hay sao? Biết chứ, nhưng con ngỗng nói hay quá, có lý quá nên nó quên mất lập trường của mình.
     Chúng ta đã tìm được lời Thiên Chúa là lời ban sự sống, chúng ta đem lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống, nhưng ma quỷ đã cám dỗ chúng ta, khuyên chúng ta hãy ăn chơi cho thoả thích, hãy tìm kiếm danh lợi trước, từ từ rồi hối cải, Chúa rất nhân từ không phạt liền đâu mà sợ.v.v…
     Thế rồi chúng ta nghi ngờ về sự sống đời đời, nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa, thậm chí có lúc chúng tra buông trôi cho cuộc sống đẩy đưa, mất cả niềm tin.
     Giữ vững lập trường, không nghe lời thế gian, không tranh cãi, nhắm mục tiêu là nên thánh mà tiến tới, đó là mục đích ưu tiên và bắt buộc của chúng ta khi còn sống ở thế gian này.
     Chúa vẫn ở với chúng ta!
32. HOA PHONG TÍN TỬ MẤT HỒN
     Phong tín tử bị lún trong ái tình mật ngọt, mỗi ngày trong đầu óc nó luôn nghĩ đến hình dáng đẹp đẽ của con bươm bướm, miệng nó luôn tỉ tỉ tê tê những điều toàn là về con bướm. Người bên cạnh chịu không được, tức cười nói:
-    “Quái lạ, người này làm gì mà giống như mất hồn vậy?”
     Đấng tạo hóa cũng cười nói:
-    “Khi con đã yêu, thì tình yêu liền hình thành một xiềng xích vô hình, bắt con ràng buộc trong thành trì nho nhỏ. Ngoài việc yêu bản thân ra, thì con không nhìn thấy người nào khác!”
Suy tư 32:
     Bạn đã thấy người ta thất tình chưa ?
     Còn tôi thì thấy rồi.
     Khi thất tình thì người ta đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, mặt mày ngơ ngơ ngác ngác, miệng luôn nói lảm nhảm những câu mà thường ngày họ hay nói với người yêu v.v… lại còn khóc, cười, hát hò thất thường. Tóm lại, họ là những con người đáng thương.
     Tại sao họ thất tình?
     Thưa, là vì họ đã bị người yêu ruồng bỏ, nói văn hoa hơn là họ bị phụ tình, người mà họ đã trao cho tất cả con tim, trao cho cả tình yêu giờ đã cao bay xa chạy theo mối tình khác. Người yêu là hạnh phúc, là niềm vui, là cuộc sống, mà con người sống là nhờ những yếu tố ấy, bây giờ những thứ ấy không còn nữa thì làm sao mà sống chứ ?
     Họ đã thất tình vì họ đã quá đặt tin tưởng vào người mà họ yêu.
     Thất tình, nói theo tâm lý học thì là trạng thái mất quân bình của tâm sinh lý, thế thôi, thật đơn giản.
     Thánh Phao-lô đã không vì thập giá mà điên đó sao ? Ngài nói ngài yêu thập giá đến điên rồ! Nhưng cái điên của thánh Phao-lô là cái điên hạnh phúc, điên vì đựơc yêu khi mình không đáng để được yêu.
     Một anh chàng nhà quê mà đựơc một công chúa yêu, thì quả là sung sướng phát điên lên đi chứ, hoặc một người mang án tử mà được khoan hồng thì sung sướng như điên phải không nào ?
     Và như thế thì chúng ta –những người Ki-tô hữu- cũng là những kẻ điên, vì chúng ta chẳng đáng đựơc yêu mà lại đựơc yêu vô cùng; chúng ta là những tử tội nhưng được khoan hồng, lại còn được gọi Thiên Chúa là cha nữa chứ !
     Đối với thế gian, họ cho rằng chúng ta là những tên điên điên khùng khùng, bởi vì họ thấy chúng ta yêu thương kẻ ghét mình, làm ơn cho những kẻ bắt bớ đánh đập mình, lại còn cầu nguyện cho họ nữa...
     Đúng là cái điên hạnh phúc!
33. ĐẸP NHẤT VÀ XẤU NHẤT
     Hướng dương hỏi:
-    “Trên đời thứ gì đẹp nhất?”
     Đấng tạo hóa hoàn toàn không do dự, trả lời:
-    “Tâm hồn”.
-    “Như vậy thì thứ gì xấu nhất?”
-    “Cũng là tâm hồn”.
Suy tư 33:
     Chỉ có Thiên Chúa là lành thánh tốt đẹp.
     Chỉ có ma quỷ là xấu xa đê tiện.
     Và con người chỉ có một tâm hồn.
     Thiên Chúa rất yêu thương con người, và luôn muốn cư ngụ trong tâm hồn của con người, để ban ơn, để thánh hoá, để dạy dỗ…
     Ma quỷ cũng khoái ở trong tâm hồn của con người, nhưng không phải là để ban ơn ích gì cả, mà thích ở, chẳng qua là ghen ghét Thiên Chúa mà thôi.
     Như vậy tâm hồn của chúng ta là “bãi chiến trường” giữa thiện và ác.
     Nếu chúng ta về “phe” của sự thiện, thì chiến đấu với sự ác bằng các vũ khí như: cầu nguyện, hy sinh, tham dự thánh lễ, rước lễ.
     Nếu chúng ta về “phe” ma quỷ, tức là sự ác, thì khỏi chiến đấu làm chi cho mệt, vì chúng ta đã thua rồi, đầu hàng rồi.
     Vậy, xấu cũng là ta, mà tốt cũng là ta chứ còn ai nữa!
34. LỜI HỨA CỦA TÌNH YÊU
     Phong tín tử ngày ngày đuổi theo bươm bướm hỏi:
-    “Nói cho cùng thì em có yêu anh không ? Em có thể vĩnh viễn cam đoan với anh là lòng em không thay đổi không?”
     Bươm bướm, sau khi giải thích lại giải thích, cam đoan lại cam đoan, cuối cùng vẫn bất đắc dĩ nói:
-    “Giả sử tình yêu của chúng ta được thiết lập trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, quy tắc căn bản là không cần phải hứa gì cả. Bởi vì, bản thân của tình yêu chính là một cách hứa rồi vậy”.
Suy tư 34:
     Tôi có một cô học trò nhí nhảnh dễ thương, đã hỏi tôi: “Thưa thầy, anh ấy đã hứa với con là yêu con suốt đời, bây giờ anh ta đi cặp bồ với cô gái khác, như vậy anh ấy có tội không?”- Tôi trả lời: “Có chứ, tội...nói láo”.
     Đúng là tội nói láo, còn mức độ nặng nhẹ thì phải để lương tâm của anh ta và Thiên Chúa xét đoán. Đây không phải là một lời hứa long trọng của bí tích hôn phối được cử hành trong nghi thức hôn phối của Giáo Hội Công Giáo, có sự chứng kiến của linh mục và cộng đoàn, cho nên anh ta chỉ mắc tội nói dối người bạn gái dễ thương của mình mà thôi.
     Bản thân của tình yêu là một lời hứa.
     Bởi vì:
     Một tu sĩ khi chưa chính thức khấn công khai, mà đã tuân giữ và sống những lời mình sẽ khấn vì yêu hội dòng và luật dòng, thì cũng là –đối với Thiên Chúa- coi như là đã khấn, lời khấn công khai chỉ là công thức và hợp thức hoá theo giáo luật.
     Trái lại, một tu sĩ đã tuyên khấn (tạm hay trọn đời) mà không giữ lời khấn thì –trước mặt Thiên Chúa- coi như là không có khấn vì không yêu mến luật dòng, mà lại mắc thêm tội và gây ra gương mù gương xấu cho cộng đoàn và cho các giáo hữu.
     Mỗi người Ki-tô hữu đều có hứa từ bỏ ma quỷ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, nhưng trong cuộc sống hằng ngày có lẽ chúng ta quên mất lời hứa ấy, và người ngoại đạo cũng chẳng thấy chúng ta hứa từ bỏ ma quỷ khi chúng ta cứ làm những điều trái với tinh thần Phúc Âm.   
     Nhưng qua đời sống thánh thiện đạo đức, qua việc làm bác ái yêu thương của chúng ta, thì chắc chắn mọi người sẽ nhận biết chúng ta là con cái Thiên Chúa.
     Bản thân của tình yêu là một lời hứa rồi vậy.
35. HOA SEN TỰ NGỒI TÙ
     Hoa sen hâm mộ chim biết ca hát, con bướm biết bay, còn mình thì cả ngày bị giam cầm trong hồ nước, lâu ngày không tránh khỏi oán than.
     Đấng tạo hóa thấy vậy, lập tức nói:
-    “Bé con, giam cầm con thật ra không phải là hồ nước, mà là cái tâm của con đó”.
Suy tư 35:
     Có người gia đình rất sung túc đầy đủ mọi phương tiện, có xe hơi, vợ con ngoan hiền, nhưng luôn luôn than vắn thở dài là mình quá khổ…
     Có gia đình anh bạn của tôi, thiếu thốn mọi sự, con bị bệnh, vợ chồng đầu tắt mặt tối làm việc mà cũng chẳng đủ ăn, nhưng không hề nghe anh ta than vãn một đôi lời, ngạc nhiên tôi bèn hỏi: “Anh khổ cực như thế, sao mà mặt mày luôn vui vẻ vậy?”- Anh ta trả lời: “Cực khổ chi đâu thầy, chẳng qua đó là thánh giá mà Chúa gởi đến cho mình vác đó thôi”, đúng là một tín hữu gương mẫu.
     Đem cái tâm nhốt trong những đồng tiền, thì cái tâm sẽ lo âu mất ăn mất ngủ; đem cái tâm nhốt trong quyền uy chức tước, thì cái tâm sẽ trở thành độc tài khát máu; đem cái tâm đựng trong những mớ kiến thức tri thức, thí cái tâm sẽ biến thành kiêu ngạo cô độc...
     Nhưng đem cái tâm đặt vào trong bàn tay và thánh ý của Chúa, thì cái tâm sẽ triển nở thăng hoa, an vui tự tại.
36. VE SẦU HỎI
     Ve sầu hỏi Chúa tạo vật:
-    “Có thứ gì vừa có đầy đủ sức sống, nhưng đồng thời cũng có đủ sự chết không?”
-    “Có chứ”- Đấng tạo hóa trả lời, tiếp: “Hạt giống của lúa, lúa mì và tất cả các hạt, chúng nó đều là vừa sống vừa chết, vừa chết vừa sống”.
Suy tư 36:
     Nhưng có hạt giống không bao giờ chết, mà trái lại, những ai vui lòng đón nhận nó, và làm cho nó sinh sôi nảy nở trong tâm hồn và trong cuộc sống của mình, thì được sự sống đời đời, đó là hạt giống Lời Chúa.
-    Lời Chúa không chết, nhưng lan tràn mãi khắp cùng mặt đất.
-    Lời Chúa không chết, nhưng những ai không đón nhận nó, thì sẽ phải chết đời đời.
     Đã có nhiều quốc gia dân tộc đón nhận nó, và cũng có rất nhiều sắc dân chủng tộc bách hại và mưu toan bóp nghẹt nó, nhưng Lời Chúa muôn đời vẫn bất diệt và phát triển mãi cho đến khi vũ trụ này qua đi.
     Hạt giống Lời Chúa trong kho tàng Kinh Thánh, hạt giống Lời Chúa trong thánh lễ Mi-sa, hạt giống Lời Chúa rãi rác trong những sách thiêng liêng của Giáo Hội.v.v...nếu mỗi người Ki-tô hữu biết lắng nghe và đón nhận, thì sẽ được sống đời đời trong tình yêu của Chúa ngay tại trần gian này và ngày sau trên thiên đàng.
37. KHỔ DỊCH VÀ GÁNH NẶNG
     Cây xoan không ngừng băn khoăn về mệnh khổ của mình:
-    “Người khác đều lớn lên cao cao to to, chỉ có tôi là gầy bé như thế này; hoa của người khác nở đều, vừa đẹp vừa sum xuê, mà hoa của tôi thì lại nhìn cũng không thấy như thế này, cây bách quả tròn, cây long não có thể làm ra gỗ, mà tôi thì, ái dà…”
     Đấng tạo hóa thở dài, mở miệng nói:
-    “Này con ạ! Trong cuộc sống nếu không có một sự vật để có thể cám ơn, thì cuộc sống đơn thuần chỉ là một loại khổ dịch và gánh nặng”.
Suy tư 37:
     Ở trên đời mọi ngưòi đều mắc nợ nhau.
-    Chúng ta mắc nợ cô thợ may xinh đẹp, vì áo quần chúng ta mặc là do cô ta may.
-    Chúng ta mắc nợ bác nông dân, vì gạo chúng ta ăn hằng ngày là do công lao khó nhọc của bác trên đồng ruộng.
-    Tri thức chúng ta có là bởi các cô giáo thầy giáo dạy dỗ truyền đạt…
     Người người đều mắc nợ nhau.
     Có người giỏi, có người dở
     Có người xấu, có người tốt…
    Chúng ta thường hay nói: “nhìn lên mình chẳng bằng ai, nhìn xuống thì chẳng ai bằng mình”, nếu cứ như thế mà yên tâm sống đời vui tươi thì thật đẹp biết bao!
     Thế nhưng con người ta cứ ưa nhìn lên hoài à, nếu nhìn lên Thiên Chúa thì chẳng có chi bàn luận, nhưng con ngưới ưa nhìn người khác mà than thân trách phận mình: sao thằng ấy nó giàu thế, sao nó thông minh thế; tại sao con nhỏ ấy cũng như mình mà sao ai cũng thích nó, sao mình không được như nó, nhà cao cửa rộng; sao mình lại khổ cực như thế này…sao…sao và nhiều cái tại sao nữa…
     Nếu cứ hỏi tại sao thì làm sao mà thoải mái yên vui tâm hồn được ?
     Cứ vui vẻ với giây phút hiện tại, giây phút mà tôi đang học hành, đang làm việc, đang vui chơi, đang cầu nguyện…
     Bởi vì Thiên Chúa đong cho ai đấu nào, thì người ta phải trả lại đấu ấy.
38. MƯA GIÓ VÀ CÂY TRẨU
     Tháng năm mai vàng, mưa dầm không dứt.
     Cây trẩu không nhẫn nại, than vãn:
-    “Mưa gió đến bao giờ mới tạnh?”
     Đấng tạo hóa nói:
-    “Mưa gió không phải đã hết rồi sao?”
     Cây trẩu giải thích:
-    “Con nói mưa gió ở phía ngoài”.
     Đấng tạo hóa đáp:
-    “Ta nói mưa gió ở bên trong”.
Suy tư 38:
     Thời tiết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, cứ thế mà xoay chuyển theo thứ tự, không thay đổi.
     Có thay đổi chăng cũng là do lòng người thay đổi.
     Tứ thời bát tiết, đông tàn thì xuân tới, thu tới thì hạ đi, mưa rồi nắng, nắng rồi lại mưa đó là chuyện của trời đất, có kỳ có hạn, không đáng lo ngại.
     Cái lo ngại và đáng sợ nhất chính là mưa bão trong tâm hồn: mưa bão của tình yêu, mưa bão của hận thù.
     Lòng người mà chan chứa tình yêu, thì thế giới chẳng cần gì có giải thưởng Nobel hoà bình, vì có chiến tranh đâu mà vận động hoà bình.
     Lòng người mà chất chứa cơn bão hận thù, thì thế giới điêu đứng hơn cả cuồng phong bão táp, thế chiến thứ hai là một bài học, gần đây nhất- năm cuối của thế kỷ 20 (1999)- là chiến tranh diệt chủng ở Nam Tư, những người gốc An-ba-ni bị giết, bị hãm hiếp, bị đánh đập, bị đuổi khỏi nơi ở của mình.
     Đài Loan, một đảo quốc giàu có, cứ đến giờ tin tức, bạn mở truyền hình ra mà coi, hình như ngày nào cũng có tin tức: giết người.
     Đúng là mưa gió ở bên trong (tâm hồn) nguy hiểm hơn cơn bão ở bên ngoài (thời tiết), ghê gớm thật.
     Nhưng người Ki-tô hữu nhờ Lời Chúa hướng dẫn và bí tích Thánh Thể làm nền tảng vững chắc của yêu thương và của bình an trong tâm hồn, cho nên họ luôn là những người kiến tạo hòa bình trong yêu thương...
39. SỰ NGHI NGỜ CỦA CHIM CÁNH CỤT
     Chim cánh cụt hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Cái gì là lòng tin?”
     Đấng tạo hóa trả lời:
-    “Đối với sự việc mong đợi thì có thể nắm vững; đối với sự việc chưa nhìn thấy thì có thể xác định”.
Suy tư 39:
     “Tô-ma vì đã thấy Thầy, nên anh tin, phúc cho những người không thấy mà tin” (Ga 19, 29).
     Tin là phó thác: tôi tin vào Thiên Chúa, tôi phó thác đời sống tôi cho Ngài, không nghi ngờ gì cả.
     Tin là yêu: tôi tin Thiên Chúa, cho nên tôi yêu mến Ngài.
     Tôi không thấy Ngài, nhưng tôi tin, tôi yêu và tôi hy vọng vào Ngài, bởi vì Giáo Hội dạy tôi như thế, vũ trụ vạn vật đã “nói” như thế và trí óc tôi bảo như thế, và nhất là Đức Chúa Giê-su đã dạy tôi như thế.
     Vợ tin chồng, nhưng không vững bền, vì chồng cũng là con người, cho nên cũng có lúc không đáng tin như tin Thiên Chúa.
     Bạn bè tin tưởng nhau, nhưng cũng không được bảo đảm, vì cũng có lúc bạn bè lừa dối nhau vì lợi danh, chỉ có Thiên Chúa là Đấng không hề lừa dối ai.
     Tin là yêu chứ không phải lợi dụng, tin là hy vọng chứ không phải nại nhiều lý do để rồi thất vọng, tin là phó thác chứ không nghi ngờ vào Đấng đã vì yêu mà chết thay cho tội lỗi của tôi và của nhân loại, đó là Đức Chúa Giê-su.
40. MÙ DẮT MÙ
     Con cáo mù lạc đường, đang lúc sốt ruột lo âu, đột nhiên nghe tiếng bước xa xa đến gần, vội vàng hỏi trong vui sướng:
-    “Chào anh bạn, xin hỏi, đến đường ..xx...ấy, làm sao đi ?”
-    “Anh không thấy sao ?”
-    “Thấy thì còn hỏi anh làm gì”.
     Đối phương lần chần một chút, trả lời:
-    “Được, đi với tôi”.
     Con cáo đi sau lưng người ấy, người ấy bảo sao nghe vậy.
     Đi không bao lâu, hai đứa tập tễnh tiến vào ngõ cụt, loay hoay hết ngày hết buổi mới ra khỏi đó, tiếp tục đi lại lọt vào cái chuồng lợn, khắp nguời đầy mùi hôi thối, lại đi tiếp và cả hai lại rơi vào trong hồ nước, thật lúng túng không dễ dàng để bám vào bờ, cuối cùng con cáo mù chịu không nỗi kêu thét lên:
-    “Anh dẫn đường, nhưng rốt cuộc dẫn như thế nào đây ?”
     Rất lâu, chỉ nghe đối phương biết lỗi nói: “Tôi cũng là kẻ mù như anh ạ!”
Suy tư 40:
     “Mù mà lại dắt mù sao được? Lẽ nào cả hai không sa xuống hố.” (Lc 6, 39)
     Con người ta không có chi khổ cho bằng bị mù, bởi vì mù thì không thấy. Mù thì không thấy cha mẹ, anh chị em hình dáng ra sao, đẹp xấu thế nào ? Mù thì không biêt trời đất, phố xá, xe cộ nó ra làm sao, hình thù như thế nào, tóm lại, mù thì khổ vô cùng.
     Nhưng con mắt tâm hồn mà bị mù thì càng khổ hơn. Vậy thế nào là mù trong tâm hồn ?
     Theo tôi, người mù trong tâm hồn là người kiêu căng, biết mình sai mà không nhận mình sai, thấy người khác trổi vượt hơn mình là đem lòng ghen tức...
     Người bị mù con mắt tâm hồn là người biết một chút xíu về phương diện nào đó, học lóm đựơc cái gì đó, nhưng thích phô trương giữa công chúng, thích làm thầy dạy người khác.
     Xã hội chán khối người bị mù trong tâm hồn, nên xã hội loạn; cộng đoàn nào có thành viên bị mù con mắt tâm hồn thì cộng đoàn ấy thật đáng thương hại. Người bị mù tâm hồn mà giữ được chức vụ trọng yếu trong cộng đoàn, thì đúng là tội nghiệp cho cộng đoàn ấy, lời của Đức Chúa Giê-su nói chẳng sai chút nào: “Mù dắt mù...”
     Con mắt tâm hồn của chúng ta có bị mù không ?
41. CON CÒ DIỆC TRẮNG TỰ THẮT NÚT
      Con cò diệc trắng bị bệnh, cơm nước chẳng màng nghĩ tới, hơi thở yếu ớt suy nhược, không ngớt than vãn :
-    “Khổ quá, quá khổ, có ai đến cứu giúp tôi với”.
     Cú mèo nói với Đấng tạo hóa cứu giúp, Ngài kiểm tra một hồi, rồi thở dài nói:
-    “Nó không có bệnh tật gì cả, chỉ là đem cái tâm của mình buộc chặt mà thôi”.
     Cú mèo nói:
-    “Như vậy thì mau giúp nó nới lỏng ra ạ!”
     Đấng tạo hóa nói:
-    “Chính nó tự thắt mình đấy, nó không tự giải tháo, thì người khác giúp đựơc cái gì chứ ?”
 
Suy tư 41:
     Con người ta khi làm một chuyện gì trái với lương tâm, thì thường bị mặc cảm giày vò, hoặc vì cảm thấy mình thua thiệt với chúng bạn nhiều quá mà sinh ra mặc cảm, luôn thu mình trong cái vỏ mặc cảm thua thiệt- như con ốc thu mình trong cái vỏ cứng- và mặc cảm này càng ngày càng lớn không thể thu hẹp trong tâm hồn đựơc nữa, nên khi có cơ hội là bùng nổ ghê gớm (như hận đời, chán đời, và có thể đi đến giết người hay tự tử…)
     Tự mình giam mình trong cái vỏ mặc cảm thì cũng giống như tự mình ngồi tù, giam mình trong bốn bức tường của mặc cảm, rồi yếm thế, chán đời, mất luôn nguồn sinh khí của tuổi trẻ, chẳng khác gì để phí tuổi thanh xuân trong nhà tù.
     Không một bác sĩ nào có thể chữa lành cho chúng ta cái bệnh mặc cảm, các bác sĩ chuyên về khoa tâm lý trị liệu, cũng chỉ đưa ra phương pháp để giúp chúng ta mà thôi, còn trị liệu là do chúng ta tự chữa lấy.
     Nếu chúng ta không tự mình chữa cho mình, thì không ai có thể giúp được chúng ta.
42. TIẾC, KHÔNG TIẾC VỨT ĐI CÁI TÂM
     Uất kim hương hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Có phương pháp gì để bỏ đi buồn phiền lo nghĩ và tạp niệm trong lòng của chúng ta không?”
     Đấng tạo hóa trả lời cách đơn giản:
-    “Vứt bỏ cái tâm đi”.
     Uất kim hương giật mình.
-    “Như vậy thì không còn tâm hồn nữa hay sao?”
     Đấng tạo hóa cười:
-    “Thì còn nó đâu để mà buồn phiền lo nghĩ và tạp niệm chứ!”
Suy tư 42:
     Đem cái tâm mà vứt đi thì con người chẳng khác gì người điên sống dở chết dở; đem cái tâm mà vứt đi thì con người sẽ trở thành con vật, và tội nghiệp hơn cả con vật; đem cái tâm vứt đi khi chúng ta vẫn còn biết suy tư, biết chọn lựa, thì quả là chuyện không đơn giản...
     Đem cái tâm vứt bỏ đi khi chúng ta không bị điên thì quả là không phải chuyện dễ. Cuộc sống đầy lo âu, tiền ăn tiền mặc, tiền học phí cho con cái, tiền bảo hiểm, bị thất nghiệp, lo mất việc, sợ bị bệnh.v.v… làm sao mà không lo được chứ ?
     Nhưng Đức Chúa Giê-su  đã dạy chúng ta: “Hãy coi chim trời, chúng nó không gieo không gặt, mà cũng không chết đói, hoa huệ ngoài đồng, không dệt không thêu, mà áo cẩm bào của vua Sa-lô-mon cũng không đẹp bằng… (Mt 6, 25- 34), có nghĩa là: hãy phó thác mọi sự cho Thiên Chúa.
     Người Ki-tô hữu biết phó thác cho Thiên Chúa, tức là họ “biết” đem cái tâm mà vứt đi vậy, vứt vào tay yêu thương và quan phòng của Ngài, thì có gì mà tiếc chứ ?
43. VÒNG ĐEO TAY CỦA BÀ GẤU
     Bà gấu mua một cái vòng đeo tay bằng ngọc biếc, rất là quý và nổi tiếng là hiếm có.
     Bắt đầu từ hôm ấy, bà gấu không những thận trọng từng li từng tí khi đi bộ, mà còn cẩn thận khi làm việc. Thậm chí, buổi tối lúc cùng chồng thắm thiết cũng căng thẳng vạn phần, mỗi giờ mỗi khắc bà luôn giữ gìn cái vòng đeo tay bằng ngọc biếc của bà, chỉ sợ một chút vô ý sẽ làm vỡ nó.
     Một hôm, bà ngắm nhìn cái vòng đeo tay ngọc biếc của mình, thích chí quá bèn khoe với Đấng tạo hóa:
-    “Ngài coi cái vòng đeo tay bằng ngọc biếc của con có đẹp không?”
     Đấng tạo hóa cười:
-    “Ta chỉ nhìn thấy cái CÒNG tay ngọc biếc của con mà thôi”.
Suy tư 43:
     Của cải ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi ở đó.
     Sắm được chiếc xe đời mới cũng không yên tâm vì đi đâu cũng sợ mất, đến chỗ gởi xe cũng chẳng dám gởi vì sợ tróc nước sơn, va quẹt…
     Khi gia đình chưa khá giả, thì đi đâu cũng được, chẳng buồn nghĩ đến chuyện về sớm về muộn; nhưng khi giàu có lên thì tối ngủ cũng không yên, sợ trộm vào lấy xe, sợ kẻ cướp vào giết người cướp của…
     Khi đã yêu rồi, thì đi đâu, làm gì cũng nghĩ đến người yêu, trong giấc ngủ cũng mơ thấy người yêu, đúng là của cải ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi ở đó.
     Các bạn đừng cười, người yêu, vợ con cũng là của cải vật chất đấy nhé.
     Hồi tôi còn học ở đại học, lúc học môn “Quản trị kinh doanh”, giáo sư đã giảng về quản lý vật chất trong doanh nghiệp, ông nói: “Người yêu, vợ con cũng là một dạng của cải trong doanh nghiệp tình yêu của các anh chị…”, cả lớp cười ầm lên, nhưng ngẫm nghĩ cũng đúng vậy.
     Lời Chúa là của cải của chúng ta.
     Bí tích Thánh Thể là của cải của chúng ta.
     Cầu nguyện là của cải của chúng ta.
     Chuỗi Mân Côi là của cải của chúng ta.
Chúng ta có mỗi giờ mỗi khắc nhớ đến và nâng niu giữ gìn không?
44. HỎI TRỜI
     Hoa sen hỏi Chúa tạo vật:
-    “Ngài coi, hơi thở của con có mùi thơm tự nhiên mặt mày đẹp đẽ cao thượng, ngọc cốt băng thanh, không quá cho phép chơi bời suồng sả, lại còn thực dụng. Lẽ nào con không xứng đáng đứng đầu muôn hoa độc nhất vô nhị giữa trời đất sao?
     Đấng tạo hóa đáp lời:
-    “Đứng đầu cũng là đứng cuối, quá lớn cũng là quá nhỏ”.
     Sen bác bỏ không chịu:
 -  “Vậy thì Ngài không phải là Đấng chí cao vô thượng à! Sao Ngài lại nói như thế?”
-    “Cho nên”- Đấng tạo hóa nói: “Ta PHỤC VỤ và LO LIỆU cho chúng nhân”.
Suy tư 44:
     Từ khi nguyên tổ chúng ta phạm tội, thì con người trở nên kiêu ngạo, ai cũng muốn đứng trên đầu trên cổ của người khác.
     Các quốc gia giàu có thì muốn thống trị các nước khác.
     Người có tiền bạc ức triệu thì mua danh vọng, chức quyền để được làm ông này bà nọ.
     Có người thích làm bề trên trong cộng đoàn dù trình độ chẳng đến đâu, võ vẽ vài chữ cũng muốn làm “anh hai” của cộng đoàn.
     Đức Chúa Ki-tô đến trần gian không phải để phục vụ đó sao? – “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 14-15).
     Muốn làm lớn thì phải làm nhỏ, có nghĩa là phải phục vụ anh em trước.
     Đức Chúa Ki-tô vừa phục vụ vừa lo liệu cho chúng ta.
     Ngài là Thiên Chúa nên Ngài LO LIỆU.
     Ngài là con người nên Ngài PHỤC VỤ.
     Chúng ta –người Ki-tô hữu- là con người nên chúng ta phục vụ tha nhân, phục vụ anh em, nhưng phục vụ cách chu toàn, phục vụ trong yêu thương, phục vụ trong lo liệu phó thác cho Thiên Chúa.
45. CON DƠI KHÔNG BIẾT BƠI LỘI
     Con dơi phê phán đại chúng hành động chậm chạp, phản ứng vụng về, nó cũng châm biếm chú thỏ mặc dù chạy nhảy được nhanh, nhưng không hiểu cái gì là đo bằng sóng âm thanh và luồng không khí; nó kinh ngạc về sự mù tịt của con rùa đối với tri thức về thiên văn; nó càng không thể chịu đựng con gà trống có cánh mà lại ngay cả bay như thế nào cũng không biết. Nó lớn tiếng la lên:
-    “Trời ạ! Tôi không chịu nổi những người vô tri này”.
     Một hôm, con dơi không cẩn thận và bị rơi xuống hồ nước và chết đuối.
     Mặc dù nó hiểu biết thiên văn địa lý, nhưng đối với kỷ xảo bơi lội thì lại dốt đặc cán mai.
Suy tư 45:
     Ông bác sĩ giỏi nhất thành phố về quê chơi, nhưng cũng chẳng biết làm sao mà bắt con cá lóc đang ở trong cái nơm dưới nước cho bằng bác nhà quê.
     Các ông kỷ sư xây dựng biết bao nhiêu là công trình nổi tiếng, nhưng cũng chẳng làm sao đở đẻ cho con trâu được như chú bé chăn trâu.
     Thế mới biết con người chúng ta không ai là thập toàn cả, anh giỏi thiên văn thì kẻ khác giỏi địa lý, chị hát hay thì có người khác đàn giỏi v.v…
     Vậy thì chúng ta lấy cớ gì mà nói: “Trời ạ! Tôi không chịu nỗi những người vô tri này” chứ ?
     Thiên Chúa ban cho mỗi người một khả năng và tri thức không giống nhau, là để chúng ta làm đẹp vũ trụ này như ý muốn của Thiên Chúa; khả năng không giống nhau là để chúng ta bổ túc cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau, chứ không phải để chê người này người nọ.
     Cái đáng chê là chê sự thoả mãn, kiêu ngạo và lười biếng của chúng ta.
46. QUÁ TRÌNH TÂM LÝ CỦA CHUỘT NHÀ KHI ĂN CẮP DẦU
     Chuột nhà lần thứ nhất ăn cắp dầu, trong lòng đầy dẫy tội lỗi bất an, nó sám hối rằng: “Hồi nhỏ, mẹ dạy tôi làm người phải thanh thanh bạch bạch, tại sao tôi lại làm việc này để “kị” với người như thế này chứ ? Thật đáng chết cho rồi”.
     Lần thứ hai ăn cắp dầu, nó an ủi mình: “Tôi chỉ làm “sai” chút ít, vả lại kẻ khác cũng có lấy, tôi không lấy thì không uổng công cầm”.
     Lần thứ ba ăn cắp dầu, nó biện giải, nói dỏng dạc như có lý lắm: “Tôi thật không muốn ăn cắp, chính cái mùi thơm của dầu đã dụ dỗ tôi, sai trái không phải ở nơi tôi”.
     Sau lần thứ tư, kiến giải của nó là: “Xã hội này qúa không công bằng, chính là cần phải có người như tôi vậy, để nguồn của cải của xã hội cân bằng một chút…”
     Từ đó về sau, chuột nhà không những trân tráo mà còn đàng hoàng ăn trộm.
     Đây chính là quá trình tâm lý của chuột nhà khi ăn trộm dầu.
Suy tư 46:
     Lương tâm thì chỉ có một, nhưng có lương tâm rộng, lương tâm hẹp, lương tâm bối rối…
     Lương tâm rộng thì phán đoán dễ dãi dễ bị ma quỷ lợi dụng, và có khi phạm tội trọng mà vẫn cứ an tâm.
     Lương tâm hẹp thì cái gì cũng cho là tội, có khi vì sợ tội (thực ra không phải tội) mà không dám làm việc bác ái.
     Ma quỷ thích lợi dụng những người có lương tâm rộng để cám dỗ, và thường là có hiệu quả cao. Khi ta phạm tội, thì nó đưa ra nhiều lý do để nói là không có tội, mà nếu có thì cũng không đáng lắm, và cứ thế, cho đến khi chúng ta đắm mình trong tội mà không biết, “chiêu bài” mà ma quỷ hay sử dụng nhất là: Chúa nhân từ lắm. Ngài không phạt đâu, để tuần sau đi xưng tội… …
     Các tu sĩ có lương tâm rộng thì thường biện minh cho công việc của mình khi sai lỗi (hoặc đã lỗi) lời khấn: người ta ai cũng uống rượu mà mình không uống thì lập dị, người ta cười (sợ cười, sợ lập dị so với tội trọng thì cái nào đáng sợ hơn?), hoặc là: mình sống với người ta thì phải như người ta v.v…
     Con chuột đã có “lương tâm rộng”, nên dù đã có bốn lần phạm tội, mà nó vẫn có lời biện minh cho hành động phạm tội của mình, rốt cuộc nó trân tráo phạm tội mà không còn bị lương tâm lên án nữa.
     Đường xuống hỏa ngục thì rộng thênh thang nên có nhiều người đi, nhưng đường lên thiên đàng thì chật hẹp nên ít người đi...
47. CÁNH CỦA CON GÀ
     Con lừa hỏi con gà:
-    “Cũng có cánh tại sao đại bàng biết bay, mà anh thì chỉ có kiếm ăn trên mặt đất?”
     Con gà lớn tiếng kinh ngạc:
-    “Cái gì, tôi có cánh à?”
     Con lừa cũng lớn tiếng kinh ngạc:
-    “Hả, anh không có cánh sao?”
     Con gà hoảng sợ giật mình khiếp vía:
-    “Trời ạ, cái này là cánh của tôi sao ? Tôi còn cho rằng mẹ tôi cho tôi để làm áo gió chứ!”
Suy tư 47:
     Bổn phận của các nhà giáo dục là không những truyền đạt kiến thức cho học trò, mà còn có bổn phận khơi dậy các khả năng có nơi học trò mà chính chúng nó cũng không biết, bằng không, nhân tài của đất nước sẽ dần dần mai một.
     Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn biết khơi dậy cái tôi của cá nhân, có nghĩa là biết làm cho mỗi cá nhân phát huy đựơc khả năng của mình để xây dựng cộng đoàn.
     Nếu chúng ta là người lãnh đạo cộng đoàn lớn hay nhỏ, thì nên thúc đẩy các thành viên trong cộng đoàn phát huy các năng khiếu của họ, để cộng đoàn có thể phát triển và trưởng thành.
     Đức Chúa Giê-su đã làm như thế khi chọn các tông đồ, hãy nhìn các tông đồ xem sao, từng người với những năng khiếu riêng tư, đã được Ngài chọn lựa, khuyến khích và đặt họ vào đúng công việc và khả năng của mỗi người, và thế là Giáo Hội của Đức Chúa Giê-su ở trần gian phát triển mãi không ngừng cho đến ngày tận thế...
48. XÂY MỘT BỨC TƯỢNG ĐIÊU KHẮC
     Để nhớ thương ân đức của Đấng tạo hóa, mọi người quyết định xây một bức tượng của Ngài.
     Phe loài chim kiến nghị xây trên dãy núi cao, chúng nó nói: “Như thế mới có thể hiện rõ sự cao cả và vĩ đại của Đấng tạo hóa”.
     Phe loài thú lại có ý kiến giằng co ngược lại, chúng nó nói: “Nên xây ở bên bờ biển, mới có thể biểu hiện ra sự rộng lớn và từ ái của Đấng tạo hóa”.
     Hai phe không bên nào nhượng bộ, cuối cùng, chúng nó quyết định hỏi chính Đấng tạo hóa, hy vọng đem tượng xây ở chỗ nào.
-    “Thì xây ở trong lòng các ngươi”- Đấng tạo hóa nói tiếp: “Nếu trong lòng các ngươi thật có Ta, từng giờ từng phút ghi nhớ lời Ta, thông cảm bao dung cho nhau, yêu người khác như yêu chính mình, thì đó là cách tốt nhất để kỷ niệm và cám ơn Ta vậy”.
Suy tư 48:
     Trong thành phố, các tượng đài liệt sĩ được dựng lên ở các nơi công cộng, để tưởng nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ, đây là chuyện thường tình mà các dân tộc trên thế giới thường hay làm, nhưng trên thế giới lại có những hạng người thích bắt người khác ghi công của mình:
-         Có những người có tiền của thì thích dâng cúng cho nhà thờ để làm công đức, nhưng chẳng bao giờ thấy họ đến nhà thờ tham dự thánh lễ.
-         Có người nhiều tiền hơn, xây nhà dựng cửa cho người nghèo ở, gọi là thương yêu anh em đồng loại, nhưng đòi họ -những người nghèo- phải tuân theo những ý muốn của mình như là mafia vậy.
     Phải nói là nhà thờ công giáo đa số cao to đẹp đẽ, hùng tráng và có tính nghệ thuật, cũng đúng thôi, vì là nơi thờ phượng Thiên Chúa cho nên phải làm cho xứng đáng, nhưng thử hỏi, có bao nhiêu tâm hồn tráng lệ để dâng hiến cho Thiên Chúa?
     Có linh mục đi đến họ đạo nào là đập bỏ nhà thờ cũ (hay ít nữa là sửa lại) để xây lại theo ý của mình, rồi khánh thành rầm rộ, nơi cổng nhà thờ (hoặc nơi bậc cung thánh) khắc tấm bảng đồng thật nổi: “Nhà thờ đựơc khánh thành ngày… … do LM Giuse Thạch Văn W…  khởi công xây dựng”, cũng oai danh lắm chứ. Nhưng trong họ đạo có bao nhiêu “con chiên” thiếu ăn, có bao nhiêu “bê” con thất học cần cha sở và họ đạo giúp đỡ một phần, có bao nhiêu cô gái bán thân nuôi mình và nuôi gia đình, họ đang cần sự an ủi hỏi thăm của cha sở và giáo xứ giúp họ làm nghề lương thiện, có bao nhiêu “nghé” con đang lang thang bụi đời, không đến nhà thờ học giáo lý.v.v… mà cha sở và họ đạo có lưu tâm chăng?
     Đừng chú trọng đến việc xây nhà thờ bằng gỗ đá, nhưng nên tập trung xây nhà thờ trong tâm hồn các tín hữu. Nhà thờ thật cao to, tráng lệ, mà tâm hồn các tín hữu của mình thì cô đơn, xa Chúa xa Mẹ, sống xa hoa truỵ lạc, không yêu thương, không bác ái, thì nhà thờ cao to đẹp đẽ để làm chi ?
     Thiên Chúa không thích như thế, Ngài thích các mục tử của Ngài chú trọng xây đắp bồi dưỡng các đền thờ sống động là các tín hữu; Ngài cũng muốn những con người hảo tâm nên xây dựng đền thờ của Ngài ở trong tâm hồn của mình, nghĩa là thực hành lời Chúa, sống yêu thương đồng loại, siêng năng tham dự thánh lễ, các bí tích v.v…
     Đó chính là xây “tượng Chúa” ở trong lòng mình vậy!
49. PHƯƠNG PHÁP LÀM GIÀU
     Con kiến hỏi:
-    “Có cách gì có thể làm cho chúng ta thêm giàu có không?
     Đấng tạo hóa nói:
-    “Có, sự thoả mãn”.
Suy tư 49:
     Con người ta thường có túi tham không đáy.
     Bạn thử lấy cái thùng không đáy mà đi gánh nước xem sao? Gánh cả ngày cũng không được một… lon sữa bò, chứ đừng nói là một thùng lớn.
     Lòng tham không đáy tức là không bao giờ thoả mãn với những gì mình có: có tiền muốn có thêm, có xe rồi đòi mua xe mô-đen hơn, có ti vi đòi mua video, có vi tính đòi “chơi” mạng lưới internet hiện đại hơn, có vợ rồi lại đòi thêm vợ nữa.v.v…
     Vậy mà Đấng tạo hóa lại nói thoả mãn là làm thêm sự giàu có, thật rắc rối ?
     Nhưng lời Ngài nói đếu là sự thật, nếu chúng ta thoả mãn với những gì mình có, rồi vui thú hưởng thụ những gì mình đang có với tất cả vui vẻ và tạ ơn, mà không mơ ước được như người này người nọ, không ghen tương hậm hực với người khác, không phải là ta đã giàu có sao?
     Thỏa mãn chính là vui vẻ chấp nhận những gì mình đang có, đó chính là sự giàu có rất dễ dàng tìm kiếm trong cuộc sống của chúng ta.
50. CHẾT HOẶC KHÔNG CHẾT
     Mùa xuân hỏi:
-    “Có cái gì so với cái chết lại càng đau khổ hơn không?”
     Đấng tạo hóa đáp:
-    “Giữa chết và không chết”.
-    “Nghĩa là sao?”
-    “Thể xác sống, mà tâm hồn thì đã chết rồi”.
Suy tư 50:
     Người ta thường dùng câu này để thoá mạ những người sống thất nhân ác đức: “Cái thằng cha (con mẹ) vô lương tâm”.
     Vô lương tâm tức là không có lương tâm.
     Nói vậy thì thật oan cho họ bởi vì ai cũng có lương tâm cả, chẳng qua là vì họ không được ai dạy dỗ chỉ bảo cho mà thôi, hoặc là vì đi theo bạn bè xấu, hoặc là sống trong hoàn cảnh mà hằng ngày bắt buộc phải tiếp xúc với những con người xấu, cho nên lương tâm họ dần dần trở nên chai lì, xơ cứng…
     Có những người họ biết như thế là không tốt, nhưng không còn cách gì khác, họ tự cho mình là đồ phế bỏ của xã hội.
     Có những người không còn lương tâm nữa, nên hành động của họ gây căm tức, phẩn uất cho mọi người.
     Họ đau khổ đã đành, nhưng những người còn có lương tâm thì đau khổ hơn, nhất là những bạn bè và những người thân yêu của họ.
     Người thân xác còn sống nhưng tâm hồn đã chết thì đáng sợ hơn cọp dữ, bởi vì họ sống và hành động theo ích kỷ của mình; họ gây đau khổ cho người khác hơn cả sự chết, bởi vì chết chỉ có một lần, nhưng đau khổ do người vô lương tâm gây ra thì xảy ra hàng ngày trong cuộc sống của họ.
     Thật đáng thương hại !
51. HOA HỒNG VÀ MÙA XUÂN
     Hoa hồng nói:
-    “Tôi chỉ có hoa vào mùa xuân”.
     Mùa xuân nói:
-    “Mỗi ngày tôi nở hoa đều là mùa xuân”.
Suy tư 51:
     Hoa nở đúng mùa thì đúng rồi, chỉ sợ đúng mùa mà hoa không nở thì “hẻo” luôn, và nếu có hoa nào mỗi ngày đều nở, và mỗi ngày đều là mùa xuân thì đúng là lếu láo.
     Vậy mà hoa nở mỗi ngày, và, mỗi ngày đều là mùa xuân thì có thật đấy, mỗi lần bạn thấy một cô gái đẹp cười, bạn sẽ nói: chà, nụ cười đẹp như hoa, hay là, cười tươi như hoa… Bạn thấy ai mặt mày tươi vui hớn hở thì nói: mặt tươi như mùa xuân…
     Vậy thì chúng ta –những người Ki-tô hữu- mỗi người phải là hoa, phải là mùa xuân, để chúng ta đem nụ cười tươi như hoa, mặt mày rạng rỡ tươi cười như mùa xuân tặng cho đời cho người, như thế không phải là chúng ta làm cho bộ mặt thế gian này thêm đẹp hay sao, để những người bất hạnh biết cười trong đau khổ, để những người nghèo biết cười trong nhọc nhằn, để những người kiêu ngạo biết cười trong khiêm tốn sửa mình.v.v...
     Mỗi người là một cánh hoa đem lại mùa xuân cho mọi người.
     Đúng là một bức tranh đẹp tuyệt vời !
52. ĐIỂM KHỞI ĐẦU, ĐIỂM CUỐI
     Chim sẻ hỏi:
-    “Sự chết thật có nhiều sợ hãi không?”
     Đấng tạo hóa trả lời:
-    “Cái này con cần phải hỏi con, con đặt sự chết ở điểm khởi đầu hay điểm cuối ?”
Suy tư 52:
     Nói đến sự chết ai mà không sợ, nhưng có những vị thánh không sợ chết, mà trái lại, ngày ngày các ngài đều suy gẫm về sự chết.
     Nếu chúng ta đặt sự chết ở điểm khởi đầu, có nghĩa là chúng ta xác tín: “Chết không phải là hết, mà là bắt đầu cuộc sống mới”, tức là cuộc sống vĩnh cữu với Thiên Chúa, thì không có gì đáng sợ hãi, bởi vì khi chúng ta đã xác tín như thế, thì chúng ta luôn tìm điều lành để làm và tránh điều ác
     Còn nếu chúng ta đặt sự chết ở điểm cuối, có nghĩa là: chết là hết, thì thật là đáng sợ hãi, bởi vì khi chúng ta đặt sự chết ở điểm cuối thì chúng ta sẽ sống trong ích kỷ, không nghĩ đến sự chết và do đó mà dễ dàng sống trong tội...
     Giáo Hội dạy chúng ta tin: sau khi chết thì có phán xét, phán xét rồi thì hưởng phúc thiên đàng đời đời, hay là bị án phạt hỏa ngục đời đời.
     “Vì chính khi chết đi là lúc vui sống muôn đời…”
53. BA CÁI TAI CỦA CON THỎ
     Có một con thỏ có ba cái tai.
     Những con thỏ khác nhìn nó không thuận mắt, nên nhao nhao phê bình, nói:
-    “Thật kỳ quái, chúng ta đều có hai cái tai, tại sao một mình anh lại có ba cái?”
-    “Chắc chắn nó là một quái vật không bình thường”.
-    “Đúng, chúng ta không cần quái vật, đuổi nó đi, đuổi nó đi”.
     Để được sự đồng ý và tiếp nhận của chúng nhân, con thỏ ấy nhịn đau cắt đi một cái tai. Mấy năm sau, nó đi đến một khu rừng rậm khác, bổng phát hiện những con thỏ ở đây đều có ba cái tai.
     Chúng nó hình như phát hiện ra người…ngoài hành tinh, vây quanh nó bình phẩm đủ điều:
-    “Trời ạ, con thỏ xấu xí nầy ở đâu đến đây vậy ?”
-    “Anh coi, nó thiếu một cái tai, chúng ta có bị truyền nhiễm không ?”
-    “Thật tôi không thể chịu đựng khi ở cùng với loại thỏ như thế…”
     Con thỏ nghi hoặc không hiểu gì cả, rốt cuộc có ba cái tai là bình thường hay là có hai cái tai mới đúng. Nhưng nó chỉ khẳng định duy nhất là: chỉ cần nó không giống với người khác, thì nhất định bị coi là khác loài, không được đón tiếp.
Suy tư 53:
     Muốn vừa lòng ông chủ, những người làm công luôn nịnh hót để đánh mất nhân cách của mình.
     Để cấp trên khen thưởng và để lấy lòng họ, các nhân viên thường che giấu cái tôi của mình, chịu lòn cúi, nịnh hót…
     Con người ta khi đã đánh mất mình đi thì không còn là mình nữa, chỉ là những con người máy làm theo lệnh của cấp trên.
    Vì quyền lợi cá nhân, vì địa vị, vì danh vọng, mà có rất nhiều người tự chặt bỏ đi sự can đảm, cương trực, ngay thẳng của mình.
     Thánh Gioan Tiền Hô bị chặt đầu vì đã can ngăn những tội loạn luân lăng loàn của vua Hê –rô-đê, ngài đã không đánh mất sự cương trực của mình.
     Thánh nữ Ma-ri-a Gô-ret-ti đã bị đâm hàng chục nhát đao vì để bảo vệ sự trong trắng của mình.
     Thánh Tô-ma Thiện thà chịu chết vì đạo Chúa, hơn là được quan gả con gái cho và được ra làm quan…
     Bản chất người tu sĩ khi hoạt động tông đồ, khi học hành nghiên cứu, khi tiếp xúc, thì đừng để bị đánh mất vì những ham muốn không chính đáng với lời khấn của mình.
54. AI NHỚ MÃI KHÔNG QUÊN
     Chim khách có giúp đỡ cho tha nhân, sau đó rất lâu, người nọ đối với chim khách vẫn cảm kích biểu lộ tình cảm. Chim khách không tránh khỏi dương dương tự đắc, nói:
-    “Ngài coi, người ấy vẫn cứ nhớ mãi không quên ân đức của con”.
     Đấng tạo hóa thở dài nói:
-    “Bé con, nhớ mãi không quên, chính là bản thân con đó”.
Suy tư 54:
     Giúp cho tha nhân mà kể lễ với mọi người, thì coi như là không giúp.
     Giúp cho tha nhân mà có dịp là nhắc tới, tức là đòi người ta trả công.
     Giúp cho tha nhân mà không nhận tiếng cảm ơn cuả họ là kiêu ngạo, là khinh bỉ họ.
     Với tấm lòng thành giúp đỡ họ chỉ vì họ là con cái Thiên Chúa và cũng là anh chị em của tôi, đó mới thật sự là yêu người và nâng cao phẩm giá của tha nhân.
     Người nghèo khổ, người cần giúp đỡ chung quanh chúng ta rất nhiều, nhưng mấy ai nhận được sự giúp đỡ chân thành như thế ?
     Rất ít người nhận ơn rồi quên ơn, mà nếu họ có quên thì cũng chẳng “nhằm nhò gì mấy cái lẻ tẻ” ấy, bởi vì khi người ta quên ơn của mình đã giúp đỡ họ, thì Thiên Chúa lại nhớ những việc lành mà chúng ta đã làm cho tha nhân.
     Đừng than vãn là họ quên ơn, cũng đừng buồn vì họ “ăn cháo đái bát”, bởi vì khi chúng ta đong cho ai đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong lại cho chúng ta đấu ấy.
     Không lỗ lã đâu mà sợ.
55. TRỜI QUANG, TRỜI MƯA ĐỀU CHƠI KHÔNG VUI
     Hoa cô đình báo oán Đấng tạo hóa, nói:
-    “Mấy lúc trước mặt trời chiếu quá nóng thiêu đốt người đựơc, trong lòng sốt ruột không yên tâm. Mấy hôm nay thì vừa gió vừa mưa liên tục, khắp nơi đều ẩm ướt mốc meo cả, thời tiết hết sức xấu”.
-    “Bé con, Ta xem không phải là thời tiêt quá xấu, e rằng lòng con quá xấu mà thôi”- Đấng tạo hóa nói tiếp: “Giả như tâm trạng của con dịu mát, há bị mặt trời đốt cháy ? Giả như tâm trạng của con ôn hoà, lại há bị gió mưa ngược đãi sao ? Con nhìn thế giới bằng loại tâm hồn nào, thì thế giới sẽ hiện ra dáng dấp như thế ấy”.
Suy tư 55:
     Với người bi quan, chúng ta thường nói họ nhìn đời bằng cặp kính màu đen.
     Với người lạc quan, chúng ta nói họ nhìn đời bằng cặp kính màu hồng.
     Kính màu đen hay màu hồng chỉ là cách nói để diễn tả tâm trạng vui buồn của chúng ta mà thôi. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ngày tết vui như thế ấy mà cô bé học trò của tôi cái mặt cứ như là đám ma, hỏi ra mới biết là cô ta đã chia tay với bạn trai, vậy thì tết đối với cô bé ấy chỉ là: vui là vui gượng ấy mà…
     Kính màu đen hay màu hồng cũng ám chỉ đến thành kiến trong lòng chúng ta.
     Người Việt Nam chúng ta có thành kiến cho là người Tàu họ ăn ở không được ngăn nắp, vệ sinh, nhưng cứ qua Đài Loan mà coi, họ ngăn nắp vệ sinh hơn cả mình tưởng.
     Đức Chúa Giê-su đã bị thành kiến của người đồng hương vì họ cho rằng, Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giu-se thì làm gì mà quyền phép, làm sao mà ăn nói dạy dỗ đựơc chứ, thế là Chúa Giê-su không thèm làm phép lạ cho họ…
     Đôi lúc thành kiến của chúng ta cũng làm nghẹt tài năng của người khác, cũng con người ấy, năm trước khác, năm nay lại thay đổi hơn, chững chạc hơn, ăn nói bặt thiệp hơn, nhưng vì thành kiến nên chúng ta cứ coi thường họ như mấy chục năm về trước...
     Cứ lấy mình mà suy ra, nếu ai cũng có thành kiến với mình, thấy mình đâu cũng chê bai này nọ, thử hỏi tâm trạng của mình như thế nào…?
     Cứ nhìn đời, nhìn mọi người với cặp kính đơn sơ của tâm hồn, không màu mè gì cả, có phải là đời đẹp hơn không chứ ?
56. TÌNH HÌNH CỦA TÂM HỒN
     Con sên hỏi:
-    “Tình hình xã hội thật quá khó nhọc chăng?”
-    “Tình hình của tâm hồn càng khó hơn!”. Đấng tạo hóa đáp.
Suy tư 56:
     Đúng là tình hình xã hội lộn xộn rối rắm lên:
Ở châu âu thì khối Liên minh Bắc đại tây dương (NATO) ném bom, tiêu diệt những căn cứ quân sự của tên tổng thống nước Nam tư, đã phạm tội diệt chủng dân tộc An-ba-ni.
     Ở Á châu thì Ấn độ và Pa-kít-tan đã khơi chiến, Pakistan đã thông báo bắn rơi máy bay của Ấn độ, còn Ấn độ thì tuyên bố đã cắt đứt đường dây tiếp tế cho đội quân Kasmir phản loạn. Đúng là thế giới sắp… loạn xà ngầu.
     Tại sao thế giới lại như thế?
     Thưa là vì “tình hình tâm hồn của con người càng phức tạp hơn”. Nếu tình hình tâm hồn con người không phức tạp, thì đâu có nạn diệt chủng dân tộc An-ba-ni. Nếu tình hình tâm hồn con người không phức tạp, thì Pakistan đâu có xui giục, tiếp tế cho phe Kasmir quấy rối Ấn độ.
     Nếu tâm hồn của chúng ta không phức tạp, không ghen ghét, thì anh em của chúng ta đâu có vì chúng ta mà xa Chúa, bỏ nhà thờ ?
     Nếu tình hình tâm hồn của chúng ta an vui tự tại, thông cảm với những khuyết điểm của người khác, đón tiếp anh em như bạn tri kỷ, thì có phải là chúng ta đang rao giảng Tin Mừng của Chúa không ? Đúng quá đi chứ!
“Thầy để lại bình an cho anh em.
Thầy ban cho anh em bình an của Thầy,
Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng,
Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”
(Ga 14, 27).
     Mỗi ngày trong thánh lễ, không phải chúng ta đều được chúc: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em” đó sao ? Vậy thì chúng ta hãy mau mau đem bình an này cho mọi người chung quanh chúng ta vậy.
57. SAU KHI TRÈO LÊN ĐỈNH NÚI
     Chó sói đã hao tổn nhiều sức lực mới thật không dễ dàng trèo lên đỉnh núi, nó nhìn xuống, nhà cửa chi chít, cất giọng ngạo mạn: “Chả trách người xưa đã nói, đứng trên núi Thái sơn mà nhìn thì thấy thiên hạ quá nhỏ, rốt cuộc hôm nay ta cũng hiểu được ý nghĩa của câu nói này”.
     Nói chưa dứt, thì từ xa xa truyền lại thanh âm như sấm đánh: “Mày nói sai rồi, với ta mà nói, thì mày vẫn còn ở dưới chân núi ấy”.
     Chó sói ngẩng đầu lên, một ngọn núi cao to đồ sộ đang đứng sừng sững sau lưng nó, ngay cả một góc trời đều bị che lấp, chó sói nhìn nhìn chỗ mình đứng, ngờ vực không hiểu, bèn hỏi:
_ “Như vậy xét cho cùng, bây giờ tôi đang đứng trên đỉnh núi, hay là ở dưới chân núi?”
     Núi lớn cười ha hả một hồi rồi nói:
_ “Cái này thì cần phải coi mày nhìn lên hay nhìn xuống!”
Suy tư 57:
     Người ta hay nói: núi này cao còn có núi khác cao hơn, bàn tay có ngón ngắn ngón dài, người giỏi thì có người giỏi hơn.
     Con chó sói chỉ mới trèo lên một ngọn núi, mà cứ tưởng là cao nhất thiên hạ, ai dè lại có ngọn núi cao to hơn, lớn hơn đang ở phía sau nó.
     Có người đi học chỗ này một chút, chỗ kia một chút, coi sách hai chút, gộp tất cả các chút ấy lại, phần căn bản chưa xong, vậy mà đi đâu cũng muốn tỏ ra mình là người giỏi nên coi ai không ra gì, thậm chí phê bình lung tung tác giả này, nhạc sĩ nọ, giáo sư kia. Hay lăng xăng trước mặt mọi người, làm trò cười cho thiên hạ, đó là hạng người mà tâm lý học phân loại là “năng động”, thích làm chuyện cho người ta để ý.
     Cái tội nghiệp của người kiêu ngạo là ở đó, lên không được mà xuống cũng không xong, nhưng thực ra lên xuống cũng do tâm hồn họ mà ra, nếu họ khiêm tốn nhận mình còn cần phải học hỏi nhiều, thì là một may mắn cho cơ hội tiến thân của họ.
     Chuyện kể rằng: “Vì nhu cầu cần có bài hát để ca tụng Thánh Tâm Đức Chúa Giê-su, người ta mời hai vị linh mục nổi tiếng đạo đức, uyên thâm thần học và yêu mến Thánh Thể cách đặc biệt để sáng tác lời thơ chúc tụng Thánh Thể,đó là thánh Tô-ma A-qui-no và thánh Bô-na-ven-tu-ra. Khi thánh Tô-ma đọc cho ban tổ chức nghe, thì người ta thấy thánh Bô-na-ven-tu-ra đang cử động đôi tay dưới gầm bàn, lúc người ta mời ngài đọc tác phẩm của mình, thì ngài đưa hai tay lên trời- một đống giấy vụn- các cử toạ ngạc nhiên hết sức, ngài nói: “Cha Tô-ma viết hay quá, tuyệt với, không có gì có thể hay hơn nữa, nên con đã xé bài của con rồi…”
     Thật là một nhân đức khiêm tốn tuyệt vời, người ta cũng nói rằng, nếu thánh Bô-na-ven-tu-ra không xé vụn tác phẩm của mình, thì kho tàng văn chương của Giáo Hội sẽ có thêm một tuyệt tác nữa, thật đáng tiếc và cũng đáng khâm phục thay.
     Người khiêm tốn thật là người biết nhận ra những giới hạn của mình.
58. BAY
     Con chim cuốc kháng nghị với Đấng tạo hóa:
-    “Trong các loài chim mà Ngài sáng tạo, tại sao có loại có lông cánh xinh đẹp, có loài thì tướng mạo khó coi, rất là không công bằng ạ!”
     Đấng tạo hóa trả lời như than thở:
-    “Điều con nói đó với chuyện biết bay có quan hệ gì chứ?”
Suy tư 58:
     Thiên Chúa dựng nên mọi sự và Ngài thấy chúng đều tốt lành.
     Chuyện đẹp hay xấu nó chẳng quan hệ gì với sự tốt lành cả, con giun đất nó xấu xí như thế nhưng lại làm cho đất tơi xốp, không phải là tốt lành sao ?
     Chim sơn ca hót hay như thế, bộ lông nó cũng đẹp, không phải là tốt lành sao ? Mọi sự đều tệ hại đi sau khi nguyên tổ chúng ta phạm tội. Nhưng sự tệ hại ấy đã được Chúa Giê-su xuống thế làm người, lấy máu thánh của mình để rửa sạch tội lỗi của nhân loại và làm cho nó trở nên tốt lành hơn.
     Đẹp xấu bên ngoài không quan trọng, tốt lành bên trong tâm hồn mới là quan trọng.
     Đẹp xấu là do cái tâm của mình.
59. CON NGÀI VÀ CON BƯỚM
     Con ngài ấm ức, bất bình, kháng nghị với Đấng tạo hóa:
-    “Cùng thuộc về côn trùng loại bộ cánh vảy, chủng loại ngài chúng con so với bươm bươm cũng nhiều gấp chín lần hơn, nhưng lại không nhận được sự coi trọng của ngoại giới, nói toạc móng heo ra: chẳng qua là vì chúng con lớn lên không được xinh đẹp. Ngài có thể nặng cái này mà nhẹ cái kia như thế ư?”
     Đấng tạo hóa trả lời:
-    “Bé con thân yêu ạ, con biết không, trong toàn bộ sinh thái, vai trò mà con gánh vác thập phần quan trọng, không phải bất cứ sinh vật nào khác có thể giành giật và thay thế được. Hơn một nửa sinh hoạt của con là ban đêm, do đó, dáng vẻ bên ngoài xinh đẹp đối với con hoàn toàn không quan trọng, cái quan trọng là những thực vật nào nở vào ban đêm, đều phải nhờ con để truyền thụ phấn hoa”.
Suy tư 59:
     Trong thân thể con người, phần nào cũng quan trọng, bộ vị nào cũng quan trọng và có ích lợi, không một bộ phận nào thay thế cho nhau được, và cũng không khinh không trọng bộ phận nào cả. Điều này ai cũng biết.
     Nhưng có một điều mà không mấy ai biết, hay biết mà không thèm nghĩ tới, đó là mỗi một con người sinh ra trên mặt đất này đều có giá trị như nhau, có quyền bình đẳng như nhau, và quan trọng nhất là có bổn phận xây dựng thế giới này ngày càng tốt đẹp như ý muốn của Thiên Chúa, và đó là điều đáng nói.
     Mỗi người tuỳ theo khả năng Thiên Chúa ban cho mà góp sức.
     Đừng mặc cảm mình kiến thức không bằng ai mà không góp sức, nhà bác học không thể đổi công việc của mình cho bác nông dân; cô thợ may xinh đẹp không thể đổi công việc của mình cho chị kỹ sư; trẻ em không thể gánh vác công việc của người lớn; dì phước không đem công việc phục vụ của mình “bàn giao” cho anh công nhân; linh mục không đem bổn phận mục tử của mình gán cho một giáo sư…
     Vậy thì có học thức hay không, có danh vọng địa vị hay không, đều không cần thiết khi phục vụ, cái cần thiết là tâm hồn có nhiệt tình phục vụ hay không mà thôi.
     Đừng mặc cảm thua thiệt, bởi vì trước mặt Thiên Chúa mình cũng có một giá trị mà không ai có thể thay thế được.
60. CON SÂU RÓM QUÁ XẤU
     Có một con sâu róm đi qua trước mặt con trâu, con trâu la lớn: “Trời ạ, nó xấu quá”.
-    “Không, nó rất đẹp”- Đấng tạo hóa nói.
-    “Ngài thật cảm thấy nó rất đẹp ư?”- Con trâu nghi ngờ và chán ngán, nói tiếp: “Ngài coi, toàn thân nó toàn lông là lông, béo phệ ụt ịt, muốn tởm lợm bao nhiêu thì tởm lợm bấy nhiêu ”.
-    “Bé con, con nhìn vẻ bên ngoài của nó, còn Ta nhìn vẻ bên trong của nó”.
Suy tư 60:
     Tôi ghê nhất là con sâu, mà sâu róm lại càng rùng mình ghê hơn nữa, nếu có ai đem nó doạ tôi, thì tôi phải chạy xa mười mét, vậy mà nó sẽ trở thành “nàng bướm” đẹp không chê vào đâu được.
     Có người khi nghe nhắc tới “chị em ta” thì khinh bỉ chịu không nỗi, nhất là các ông bà được gọi là đạo đức thánh thiện, trong đó cũng có các linh mục, bà xơ cũng “nhìn không nổi” các cô gái ấy. Nếu các linh mục có nghiên cứu qua môn xã hội học thì chắc là hiểu rõ tâm lý và hoàn cảnh của các cô gái ấy hơn, để giúp cho họ tìm một lối thoát trở về hội nhập với mọi người; nếu các bà xơ cũng bỏ đi ánh mắt nghiêm khắc mà đến với họ, thì dễ dàng giúp họ tìm lại phẩm giá của mình.
Đưc Chúa Giê-su không kết án ném đá người phụ nữ ngoại tình như các kinh sư và biệt phái, Ngài cũng chẳng tránh né khi cô Ma-ri-a Mag-da-la xức dầu thơm nơi chân Ngài. Và rồi Magdala đã trở lại với con đường thánh thiện, người phụ nữ ngoại tình cũng an lòng ra đi.
     Đức Chúa Giê-su cũng đã không ngần ngại đồng bàn dự tiệc với những người thu thuế, mà đối với những kinh sư, biệt phái, họ là những phường tội lỗi. Và hiệu quả thì như thế nào ? Gia-kêu lùn đã bồi thường thiệt hại gấp đôi cho những người bị ông làm khó dễ, Gia-kêu đã trở thành một con người hoàn lương.
     Chúng ta thường nhìn vẻ bên ngoài để đánh giá cái giá trị bên trong tâm hồn của một con người.
     Bên ngoài con sâu róm quả là tởm lợm, nhưng khi lột đi cái ghê cái tởm lợm ấy đi, thì nó biến thành con bướm đẹp tuyệt vời.
     Ma-ri-a Mag-da-la đã lột bỏ cái vỏ đĩ điếm xấu xí, cô đã trở  thành trợ tá đắc lực cho công việc tông đồ của Chúa
     Một anh Gia-kêu lùn, một người trộm lành, một Mag-da-la… đã trở thành những người hữu ích cho đời. Và một cô gái bán thân hôm nay, một em bé bụi đời hôm kia, cũng sẽ trở thành những người hữu ích cho xã hội, cho Giáo hội mai sau, nếu chúng ta –những người Ki-tô hữu được gọi là đạo đức hoặc may mắn- quên đi dáng xấu xí bên ngoài của họ, mà nhìn cái đẹp bên trong của những tâm hồn ấy.
     Hãy tập nhìn mọi sự bằng cái nhìn yêu thương và tích cực của Thiên Chúa.
61. RÙA THỎ CHẠY THI
     Con rùa chạy thi với con thỏ, (rùa) say mê trong chiến thắng.
     Ngày hôm ấy, nó lại hẹn với thỏ thi đua, từ điểm xuất phát cùng bò về phía trước, rùa bò đến nửa đường nhưng nó không thấy thỏ ngủ gục ở đây, trong lòng nó có chút buồn bực: “Cái ông anh này không phải xưa nay thích ngủ gục giữa đường sao ? Tại sao hôm nay không thấy bóng dáng đâu cả chứ?”
     Con rùa bò ố bò ô, thật không dễ dàng, khi bò tới điểm cuối thì đã thấy thỏ sớm ở đó rồi, đang ngồi nghỉ ngơi vừa ăn uống vừa để đợi nó.
     Rùa buồn thiu nói:
-    “Thường ngày không phải anh ngủ gục giữa đường hay sao ? Làm thế nào mà khi nhảy về lại mau như thế chứ, báo hại tôi bị thua rồi”
     Thỏ cười to ha ha:
-    “Ông anh này, thiên hạ làm gì có chuyện nhất thành bất biến chứ…”
Suy tư 61:
     Chuyện thỏ và rùa chạy thi thì ai cũng biết là thỏ bị thua và rùa thắng. Thỏ thua là vì ham chơi, rùa thắng là vì ăn gian.
     Thời Đông Chu liệt quốc, quân nước Tấn đánh thắng quân nước Tề, đuổi tới tận đất Viên. Vua nước Tề sợ quá mới sai thuộc hạ là Quốc Tá đi cầu hoà. Nguyên soái nước Tấn là Khước Quắc đã từ chối giảng hòa, Quốc Tá nói:
_ “Nguyên soái chớ có khinh nước Tề tôi quá ! Nước tôi dẫu bị thua một trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm, nguyên soái không cho hoà thì chúng tôi xin thu thập quân mã, cùng với nguyên soái quyết chiến một trận. Một trận không được thì hai trận, hai trận không được thì ba trận, nếu ba trận cũng không được, thì bấy giờ cả nước Tề tôi là của nước Tấn…”
     Quốc Tá nói xong liền lui ra, Quí Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu ở màn sau nghe nói, chạy ra bảo Khước Quắc rằng:
_ “Làm như thế thì nước Tề giận ta quá lắm, tất cố sức mà đánh, không lẽ ta thắng mãi, chi bằng ta theo lời cho giảng hoà thì hơn”.
     Trong cái chết có cái sống.
     Quân đội nước Tề quyết chiến vì biết trước đánh cũng thua, không đánh cũng thua, thà thua trong vinh quang.
     Nước Tấn có hai người hiểu thời cơ nên đã ngăn cản kịp thời cuộc chiến đổ máu.
     Hôm nay anh thắng, ngày mai tôi thắng, thắng bại là chuyện thường tình, nhưng cái “đạo lý” của nó là ở chổ: “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”.
     Rùa đã thua cách đau đớn, vì đã quên mất hai yếu tố trên:
     Nó quên rằng nó bò rất chậm, nó không biết mình.
     Nó cũng quên rằng thỏ chạy rất nhanh, nó không biết người.
     Lại còn yếu tố phụ nữa là nó tự mãn, say men chiến thắng trước đó…
     Con người ta thường chết trong chiến thắng.
62. MÔN ĐỒ KHÔNG MUỐN RỬA CHÂN
     Chim nhạn rừng mát lòng hả dạ nói với Đấng tạo hóa:
-    “Con đến làm môn đồ của Ngài có được không?”
_ “Tốt thôi”- Đấng tạo hóa chỉ con hạc đằng xa nói tiếp: “Con đi rửa chân cho nó, nó vừa mới đi qua một vũng bùn lầy lội”.
-    “Cái gì?”- Nhạn rừng kinh ngạc kêu lên một tiếng, không thèm để ý nói tiếp: “Con là môn đồ của Đấng tạo hóa, không được phép phục vụ người khác”.
     Đấng tạo vật cười nói:
-    “Bé con, con không phục vụ người khác, thì người ta làm thế nào mà nhận ra được con là môn đồ của Ta chứ ?”.
Suy tư 62:
      Nghi thức rửa chân chiều thứ Năm Tuần Thánh, thật vô cùng có ý nghĩa: Phục vụ.
     Đối với người Do thái, tập quán chủ nhà rửa chân cho khách trước khi dự tiệc là biểu lộ sự kính trọng, yêu mến.
     Đức Chúa Giê-su đã dùng tập quán này để dạy cho các tông đồ bài học: Phục vụ và yêu thương.
     Sau khi rửa chân cho các tông đồ xong, Đức Chúa Giê-su đã nói: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cùng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 15).
     Phục vụ là yêu thương, phục vụ là quên mình.
     Nhưng các mục tử của Chúa đã để cho con chiên phục vụ mình nhiều hơn. Tôi đã nghe một linh mục nói: “Chúng nó (giáo dân) phải lo cho mình chứ ?…”. Giáo Hội không để cho các linh mục của mình chết đói, giáo hữu cũng không để cho cha sở của mình chết đói. Có bao giờ nghe nói linh mục đói ăn chưa, chắc chắn là chưa.
     Phục vụ là yêu thương, là bao dung những thói xấu, những khuyết điểm và những cái chưa được tốt của anh em chị em, để làm cho nó tốt hơn bằng yêu thương và phục vụ của mình.
     Phục vụ trong khiêm tốn, trong vui vẻ, trong lịch sự, trong sự tôn trọng nhân cách của tha nhân.
     Phục vụ là dấu hiệu của người môn đệ Đức Ki-tô.
63. BUỒN RẦU CỦA HẢI CẨU
     Hải cẩu nhìn thấy hoàn cảnh chung quanh càng ngày càng dơ bẩn bừa bãi, sinh thái bị phá hoại, sông ngòi bị ô nhiễm, chịu không nổi, âu sầu rầu rỉ nói:
-    “Thiên Chúa ạ, ban đầu Ngài sáng tạo trời đất đâu phải như thế này! Ngài coi, thế giới này càng ngày càng xấu xí.”
-    “Đó là vì tâm hồn của chúng con càng ngày càng không đẹp đấy chứ.”
     Hải cẩu nói:
-    “Như vậy, nếu chúng con muốn phục hồi tình trạng cũ, thì sự sạch sẽ phải bắt đầu từ đâu?”
-    “Phải bắt đầu từ tâm hồn của chúng con trước”.
Suy tư 63:
     Các nhà xã hội học nghiên cứu tận căn những tệ đoan của xã hội và đưa cách trị cho các nhà giáo dục; các nhà giáo dục thì chạy đến nhờ các tâm lý gia cố vấn; các nhà cố vấn tâm lý lại hợp đồng nghiên cứu với các nhà xã hội học. Và xã hội rối loạn vẫn cứ rối loạn, tệ nan vẫn cứ tệ nạn.
     Các nhà chuyên môn này quên mời một chuyên gia cố vấn về tâm hồn, đó là các linh mục, vâng, tôi nói lại, đó là các linh mục công giáo.
- Có ai nghe đựơc những lời sâu kín nhất của tội nhân bằng các linh mục.
- Có ai vừa là quan toà kết án và giải án cho tội nhân, vừa là luật sư biện hộ cho tội nhân, lại vừa là bác sĩ trị liệu cho tội nhân như các linh mục công giáo.
     Xã hội có quá nhiều tệ nạn, phong hoá xã hội có quá nhiều ô nhiễm. Bắt đầu làm lại không phải chỉ là giải quyết nhà ổ chuột, xây chung cư, lập nhiều đội cảnh sát hình sự, lập thêm nhiều trại cải huấn, những điều này, chỉ cần vốn tri thức tự có của nhà nước cũng có thể làm được.
     Nhưng xây dựng lại, mà bắt đầu lại từ tâm hồn thì cần phải có tôn giáo tham gia, bởi vì, tôn giáo là cơ sở tạo nên nhân cách của con người, bởi vì bản chất con người là “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, và vì hoàn cảnh môi trường đã làm con người mất đi tính bản thiện, do đó, cần phải có những nhà tôn giáo cộng tác, để đem lại cho mọi thành phần trong xã hội một niềm tin, một sức sống mới, sức sống của tình thương đại đồng.
     Đúng là phải bắt đầu lại từ tâm hồn với những bác sĩ của linh hồn, tức là các linh mục công giáo.
64. TÌM KHÔNG ĐƯỢC THIÊN ĐÀNG
     Chuột túi hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Xét cho cùng thì thiên đàng ở đâu?”
-    “Ở đây”.
-    “Ở đâu?”- Chuột túi nhìn chung quanh bốn phía, không hiểu nên hỏi lại: “Sao con nhìn không thấy?”
     Đấng tạo hóa dịu giọng trả lời:
-    “Bé con, nếu như trong lòng con có thiên đàng, thì không có chỗ nào là không thiên đàng. Nếu như trong lòng con không có thiên đàng, thì dù cho con có đặt mình trong thiên đàng thật, thì nhìn mà như không thấy vậy!”
Suy tư 64:
     Có một vị tướng quân, ông ta không tin có thiên đàng và hoả ngục, một ngày nọ, ông mang cây kiếm bén nhọn bên mình vào nhà xứ hỏi cha sở:
- Thưa ngài, thiên đàng ở đâu và hoả ngục ở đâu?”
     Vị linh mục không nói gì cả, đưa tay tát mạnh vào mặt ông tướng, ông ta tức giận nói: “Tại sao ngài đánh tôi?”, và rút gươm ra khỏi vỏ. Linh mục nói: “Hoả ngục ở trong ông đấy”. Ngài nói tiếp: “Khi ông tức giận thì đó chính là hoả ngục, và khi ông hiền hoà vui vẻ, thì đó là thiên đàng”.
     Có một số nhà thần học nói rằng: “Trời mới và đất mới” không phải là Thiên Chúa sẽ dựng thêm một thế giới khác sau khi tận thế, mà chính là Ngài làm cho thế giới này mới hơn.
     Mới hơn, tức là thế giới này không có hận thù, không có ghen ghét, không có oán giận, tóm lại là không có hoả ngục.
     Mới hơn, tức là thế giới này trở thành thiên đàng, là nơi mà mọi người biết yêu thương nhau và tha thứ cho nhau. Muốn được như vậy, thì ngay bây giờ, mỗi người chúng ta lo kiến tạo thiên đàng ở trong tâm hồn của mình, tức là sống bác ái, yêu thương, tha thứ cho nhau, sống khiêm tốn với hết mọi người...
     Tập cho mình có cái nhìn yêu thương và hành động bác ái, là chúng ta đã đem thiên đàng dâng tặng cho người khác rồi vậy.
65. THẾ GIỚI CỦA GIUN ĐẤT.
     Chúng nhân đều chế giễu giun đất:
-    “Mày không có mắt, không thể nhìn”.
-    “Mày không có tai, không thể nghe”.-  
-    “Mày không có chân, không thể đi”.
-    “Mày không có cánh, không thể bay”.
     Giun đất khóc lớn nói với Đấng tạo hóa:
-    Tại sao Ngài đem cái hèn mọn thấp kém mà tạo nên con như thế này, không có một tí gì là tốt đẹp cả…”
-    “Bé con, bản thân của sinh mệnh là không có phân biệt cao thấp, quý tiện.”- Đấng tạo hóa buồn sầu nói tiếp: “Ta không coi nhẹ con, tại sao con lại coi nhẹ mình !”
-    “Nhưng con vừa mù vừa điếc, vừa không biết bay, lại vừa không biết chạy, Ngài tạo nên con có gì là hay, có gì là lợi chứ ?”
-    “Con tiêu hóa rác rưởi để bùn đất tơi xốp, đầy tràn sức sống, vạn vật cứ thế mà sinh dưỡng không ngơi, tại sao con nói là không tốt tí gì chứ?”
-    “Nhưng… nhưng…”- Giun đất sụt sùi nói: “Chúng nó đều chế nhạo con…”
-    “Có mắt chỉ nhìn thấy mình, có tai chỉ nghe được mình, có chân chỉ vì mình mà chạy vội chạy vàng, có cánh chỉ lượn nơi thế giới của mình…”- Đấng tạo hóa thở dài nói tiếp: “Không thì cũng giống như là vừa đui vừa điếc, vừa què vừa thọt; có và không có, thì có gì là khác biệt chứ?”
Suy tư 65:
     Anh sinh viên bạn của tôi thời đại học, từ quê hương Bạc Liêu lên thành phố Sài Gòn học ở trường Đại học Mở - Bán công. Đã viết thư cho người yêu: “Anh sinh ra nhằm ngôi sao xấu, cho nên yêu em mà không dám nói, anh chỉ sợ rằng nói ra rồi em lại cho anh là người đèo cao…” (cám ơn anh bạn của tôi đã cho phép tôi mượn đoạn thư này).
     Tôi đã nói với anh bạn: “Cái gì mà ngôi sao xấu với ngôi sao đẹp, nếu mày thật tình yêu cô ta, thì mày chính là ngôi sao đẹp nhất, nhưng nếu mày giả vờ yêu cho “qua ngày đoạn tháng” ở thành phố này, thì mày là một ngôi sao xấu xí nhất trần gian”. Cuối cùng anh ta trở thành ngôi sao tốt, anh học giỏi, hiền, và hay mặc cảm, tình yêu của anh ta đã được đáp trả, tôi nói đùa với họ: “Tụi bây hai đứa thật hết ý”.
     Nhưng không biết khi tôi ra nước ngoài tu nghiệp, chúng nó còn yêu nhau không ?
     Mặc cảm thường thấy mình thua thiệt mọi thứ rồi dẫn đến trạng thái thiếu tự tin vào mình, và rồi oán trách mọi người. Các bạn trẻ ở ngôi trường mù Nguyễn Đình Chiểu, khi sinh hoạt hát hò, đi lại, nếu không để ý, đố ai mà nhận ra được họ là những người khiếm thị, các bạn này vui chơi, đàn hát cứ như là những người sáng mắt vậy.
     Tại Đài Loan, người ta vận động mọi người đến sinh hoạt với các trẻ em tật nguyền, dạy các em hát, dạy các em làm thủ công, dạy các em học vi tính. Nhìn những người tật nguyền thi lái xe lăn, thi khiêu vũ trên xe lăn, thì không ai nói họ là những con người rầu rỉ, chán đời. Họ rất nhộn nhịp thi đua…
     Ở đời có những người sáng mắt nhưng lại cứ muốn mình đui, đi trên đường phố, thấy cụ già qua đường giữa dòng xe cộ đông đúc: làm ngơ như không thấy; thấy một phụ nữ tay ẵm con, tay xách nặng nề đi cho kịp chuyến xe nơi bến xe Bình Triệu thì  phớt lờ như không thấy...
     Cũng có những người lành lặn tay chân, nhưng hình như họ muốn làm người tàn phế. Đôi chân của họ thích đi đến nơi nhà chứa, chỗ hút xì ke , có phải là họ muốn cụt tay cụt chân không?
     Có những người nhà của họ chỉ cách nhà thờ khoảng một trăm thước tây, nhưng cả năm đi không đến nơi, mà những chỗ vui chơi nổi tiếng bất kỳ ở chỗ nào cũng không vắng mặt họ, thì có chân cũng như cụt rồi vậy!
     Vậy thì, mặc cảm, tự ti, buồn vì mình thua kém mọi người đều không quan trọng, quan trọng là tâm hồn của chúng ta có đui mù, có tật nguyền hay không mà thôi?
66. CUỘC THI CỦA NÚI VÀ NƯỚC
     Núi nói:
-    “Tôi nhìn cao hơn anh”.
     Nước nói:
-    “Tôi đi xa hơn anh”.
Thế là, núi trơ trọi lâu dài, nước cả ngày bôn ba.
Suy tư 66:
     Những tư tưởng lớn gặp nhau, hợp nhau, thì đúng là họ nói chuyện quên cả ngày giờ, thật tương đắc.
     Nhưng những con người kiêu ngạo mà gặp nhau thì đúng là chiến tranh bùng nổ, vì không ai biết nghe ai, ai cũng nói tài tôi cao hơn anh, trí tôi xa hơn anh.
     Tài cao như núi, trí rộng như biển mà cứ kênh kênh kiệu kiệu trong mớ kiến thức của mình, thì chỉ làm người cô độc không ai muốn đến gần.
     Có vấn đề cần tranh luận, thì cứ tranh luận, nhưng tranh luận trong hoà bình, nghĩa là khiêm tốn nhận ra cái lý của anh em chị em.
     Trong một chương trình giải trí vui chơi trên truyền hình của các nghệ sĩ thủ đô Đài Loan, người dẫn chương trình giới thiệu một đôi vợ chồng trẻ, chị bán tạp hoá, anh đang đi nghĩa vụ quân sự, hai vợ chồng đã có một em bé, người dẫn chương trình hỏi cô vợ:
- “Anh chị còn trẻ, vậy thì có lúc nào anh chị to tiếng đến nỗi động thủ với nhau không ?”
     Cô vợ trả lời:
- “Hồi trước anh ấy còn ở nhà, em biết anh ấy đi làm về mệt, nên mọi việc đều tự tay làm và không để cho anh ấy mệt thêm, nên ít khi có chuyện to tiếng với nhau”.
     Người chồng nói tiếp:
-  “Cứ mỗi lần tôi lớn tiếng thì vợ tôi im lặng, và khi vợ tôi lớn tiếng thì tôi im lặng và bỏ đi chỗ khác”.
     Cả hội trường vỗ tay ầm ầm.
     Đúng là đôi vợ chồng trẻ dễ thương, bởi vì chồng không nói tôi là chồng của cô nên tôi có quyền, và vợ không nói tôi đi làm tiền lương nhiều hơn ông nên tôi có quyền...
67. MẶT TRĂNG TRÒN HAY KHÔNG TRÒN
     Hoa dạ lý hương trông nhìn ánh trăng lưỡi liềm, than thở nói:       
-    “Trăng có âm quang tròn khuyết, giống như người thế gian họa phúc vô thường vậy”.
     Đấng tạo hóa nhè nhẹ cười:
-    “Bé con, con sai rồi, mặt trăng từ trước đến nay không bị khuyết, nó chỉ bị bóng đêm che khuất. Bản chất của sinh mệnh cũng thế, lúc nào con có thể để xuống gánh nặng, thoát khỏi bóng đêm, sinh mệnh tự nhiên đầy đặn tròn trịa”.
Suy tư 67:
     Con người sống thì phải làm việc, làm việc thì có trách nhiệm, và trách nhiệm là gánh nặng.
     Bổn phận và trách nhiệm là cụm từ luôn đi đôi với nhau, làm bổn phận mà không chu toàn, thì gọi là vô trách nhiệm, người có lương tâm thì không muốn trở thành kẻ vô trách nhiệm, cho nên luôn luôn thấy gánh nặng trên vai của mình.
     Để gánh nặng xuống, nhưng không phải để cho người khác mà là để trong tay Chúa, xin Chúa cùng vác với mình, hay ít nữa, xin Chúa nhân từ bỏ qua những thiếu sót trong bổn phận của mình vì quá mệt mỏi. Chúa Giê-su đã nói: “Hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng…” đó sao?
     Làm hết sức lực của mình, và phó thác gánh nặng (công việc) cho Chúa, đó là người khôn ngoan vậy.
68. CON KHỈ BỊ VỨT BỎ
     Con khỉ, mỗi ngày đều có công việc, bận rộn vô cùng, giao tế thù tiếp để đến nỗi thân thể và tinh thần mệt mỏi. Nó vội vã muốn thoát khỏi gánh nặng và áp lực của cuộc sống, bắt đầu chạy trốn cõi hồng trần cuồn cuộn này, nó quyết định dời nhà đến một nơi không có ai làm phiền nó.
     Chẳng ngờ, ở không được mấy ngày, nó bèn trốn về lại, oán trách bạn bè, nó nói:
-    “Các anh đã quên tôi rồi ư, vứt bỏ tôi rồi sao?”
Suy tư 68:
     Người ích kỷ thì thích hưởng lợi một mình, nhưng trách nhiệm thì đổ cho người khác, khi thành công thì phấn khởi tuyên bố là do mình chịu trách nhiệm thi công công trình, nhưng khi thất bại thì la to lên: tụi nó làm ăn không ra cái giống gì, tôi không biết gì cả.
     Người ích kỷ thì đổ lỗi như… con nít.
     Nhưng con nít có giáo dục thì không như thế.
69. TỪ KHI CON NHÍM CÓ GAI
     Trước đây rất xưa, con nhím không có gai.
     Thân nó nhỏ, lương thiện ôn hoà, thích thân cận với mọi người, nhưng cũng chính vì nó yếu đuối nhát gan, mà trở thành đối tượng cho người khác bắt nạt, đây không phải là đùa giỡn với nó, mà chính là công kích nó, thậm chí, có lúc ngay cả mạng sống nó cũng bị uy hiếp.
     Nó kể khổ với Đấng tạo hóa :
-    “Ngài coi, con, ngoài da không có sừng như tê giác hùng hậu, lại không có răng nhọn như sư tử và hổ, đã không linh mẫn như tai thỏ lại càng không có tứ chi nhảy vọt như linh dương. Ở một nơi mà cường địch theo dõi như thế này mà một chút năng lực đề kháng cũng không có, Ngài bảo con sinh tồn thế nào được chứ?”
     Đấng tạo hóa nói:
-    “Được rồi, để Ta nghĩ cách xem sao?”
     Thế là Đấng tạo hóa làm cho con nhím toàn thân đầy gai nhọn.
     Sau đó, mỗi lần có kẻ địch đến gần, cơ thể nhím giương lên, gai của nhím dựng đứng lên. Gai của nó nhọn hoắc sắc như dao, không cần phải nói, các động vật, thậm chí ngay cả hổ và sư tử, hoặc là cá sấu, trăn, là những động vật dữ tợn như thế, cũng đều sợ nó ba phần. Nhím thật là vạn phần đắc ý, không ngờ nó nhỏ con như thế, mà cũng có một ngày người ta phải sợ nó…
     Dần dần kẻ địch không có, nhưng bạn bè cũng chẳng có luôn, rất nhiều con vật vừa thấy nó đều chết khiếp chạy trốn. Nhím cô đơn khó chịu, chịu không nỗi bèn kể lể với Đấng tạo hóa:
-    “Mọi việc đều do Ngài cả, vì Ngài đã tạo cho con những cái gai kỳ quái này, báo hại con, một thằng bạn cũng không có”.
     Đấng tạo hóa phì cười nói:
-    “Bé con, Ta tạo cho con cái gai nhọn là để cho con phòng ngự kẻ địch, chứ có nói con phải dựng đứng cái gai nhọn [của con] từ sáng đến tối đâu”.
Suy tư 69:
     Tài năng Thiên Chúa ban cho mỗi người không phải để huênh hoang khoác lác, kiêu ngạo với anh chị em.
     Mỗi người đều có một khả năng riêng, một cái hay riêng.
     Những người có võ công cao siêu, nhìn họ chẳng có chi là con nhà võ cả, họ rất hiền, rất điềm đạm, họ chẳng bao giờ đánh ai, vì họ biết rằng học võ là để có sức khoẻ, là tự vệ, chứ không phải là để đánh người ta và đem đi khoe khoang. Trái lại, những người mới học võ vẽ đôi cú đấm đá, thì đi đâu cũng vung tay múa chân, cũng vỗ ngực ta đây đã từng học võ này võ nọ, không coi ai ra gì cả. Thật tội nghiệp cho họ.
     Có người trời ban cho cái tài lợi khẩu, nhưng không dùng tài ấy để bênh vực người bị áp bức, chèn ép, mà lại dùng nó để nói móc họng anh em chị em, để chửi xéo anh chị em những lời bóng bẩy văn hoa, nghe mà muốn độn thổ.
     Con người là một động vật có trí khôn, nếu trí khôn mất đi thì trở thành con vật, mà nhìn còn tệ hơn cả con vật nữa. Trí khôn là một báu vật vô giá mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, để con người tiếp tục công trình sáng tạo của Ngài, tức là làm đẹp vũ trụ này.
     Có trí khôn, có tài năng mà lạm dụng chúng nó, làm những việc trái với lương tâm, gây đau khổ cho người khác, tự tư tự lợi cho mình, mưu mô làm hại người khác thì như con thú dữ.
     Nên dùng tài năng và trí khôn Thiên Chúa ban cho để thăng tiến mình, và mưu ích lợi cho tha nhân.
70. SƯ PHỤ MẮT LÁC
     Hươu sao muốn xây nhà, mời khỉ thợ nề đến.
     Sau khi xây nhà xong, chẳng ngờ các bức tường đều nghiêng lệch một bên, hươu sao chỉ ra cái sai lầm, nhưng khỉ lại lồng lộn lên, nói:
-    “Tôi xây nhà đã hơn mười năm, làm sao sai được chứ ?”
     Đến khi cửa sổ làm xong đem tới, nhưng ráp vào lại không ăn khớp với nhau, khỉ lớn tiếng chửi: “Thằng thợ mộc nào đây thật khốn nạn, làm cửa sổ mà để cho bị lệch”.
     Thật là kỳ quái, sau chuyện đó mỗi khi khỉ làm nhà đều bị nghiêng lệch, đến bác sĩ kiểm tra thì mới phát hiện ra bệnh của khỉ là nhìn lệch.
Suy tư 70:
     Con người ta hay bị cái nhìn thành kiến làm cho lệch đi. Thành kiến + ích kỷ +ghen ghét = sai sự thật.
     Sai sự thật tức là nhìn nghiêng lệch, nhìn trắng thành đen, nhìn tốt thành xấu.
     Cái nhìn thành kiến của người bình thường đôi lúc ít nguy hiểm hơn cái nhìn thành kiến của người có trách nhiệm, của bề trên, của linh mục v.v…
     Có một linh mục coi sóc một xứ đạo lớn, vì đã có thành kiến với một giáo dân của mình, nhưng vị giáo dân này rất tích cực với việc của giáo xứ, ông ta làm chuyện gì thì vị linh mục cũng không bằng lòng, cuối cùng ông ta bỏ luôn nhà thờ.
     Có một thầy đại chủng sinh, trong thời gian giúp xứ có một lỗi nhỏ không đáng kể (so với các linh mục mắc lỗi này), bề trên đã cho thầy ấy hoàn tục, thầy ấy chuyển qua tu hội khác và sống đời tu đức rất tốt đẹp, nhưng khi xin giấy chứng nhận của chủng viện mà thầy đã học thì vị bề trên này không cho, thế là thầy ấy tìm cách khác để đi nốt con đường tu trì của mình và thầy đã trở nên một linh mục thánh thiện, nhiệt thành...
     Nhưng cũng có những bề trên đã phá bỏ cái nhìn thành kiến cũ, để giúp đỡ và khuyến khích ơn gọi, khuyến khích cộng sự viên của mình.
     Thành kiến chính là cái nhìn nghiêng lệch vậy.
71. CHỒN HÔI ĐI CHÚC TẾT GÀ
     Nghe tin bà gà bị bệnh, nhân tiện nhằm ngày tết, chồn hôi chuẩn bị quà cáp đi thăm.
     Ông gà nhìn thấy nó, lông mũ dựng đứng, cắn răng nghiến lợi nói:
-    “Tao biết mầy trong lòng không yên, tao đã chuẩn bị tốt, các bạn, lên nào”.
     Ông gà lên tiếng la lối, lập tức từ cửa sau đột nhiên xuất hiện dê núi, chó săn, khỉ, gà tây mọi người tay cầm dao tay cầm gậy, nhắm vào chồn hôi mà đánh, đánh cho đến khi chồn hôi thương tích đầy mình, vắt chân lên cổ mà chạy.
     Thật không thể chạy trốn số mệnh, chưa hoàn hồn, chồn hôi mặt mày ủ rủ nói:
-       “Lần này, tôi muốn gột sạch tiếng xấu ngàn đời, mới đặc biệt có chủ ý đi chúc tết, tại sao không có ai tin thành ý của tôi ?
Suy tư 71:
     Một người có bề dày thành tích xấu, muốn làm lại cuộc đời thật khó lắm thay.
     Cái khó thứ nhất là chính bản thân họ.
     Trong thời gian giúp xứ tại một họ đạo nhỏ trung tâm thành phố Sài Gòn, chung quanh nhà thờ là những tụ điểm tệ nạn xã hội, tôi hầu như mỗi ngày đều tiếp xúc, chuyện trò với họ, hiểu rõ hoàn cảnh của mỗi thanh niên, thiếu nữ, họ là những con người mà xã hội bỏ rơi, chán ghét…
     Có những cô gái trẻ đẹp làm nghề mãi dâm, họ đã nói với tôi: “Thầy biết không, tụi con cũng muốn bỏ nghề này, nhưng ai cũng nhìn tụi con cách khinh bỉ, hơn nữa tụi con chẳng biết đi đâu cả”. Các thanh niên bụi đời thì nói: “Ngày hôm nay tụi con không đi làm nhưng bạn bè cứ tới rủ đi, không đi không được, thầy thông cảm cho tụi con”.
     Cái khó thứ hai chính là xã hội và chính chúng ta từ chối đón nhận họ hoà nhập với cộng đồng. Cũng tại giáo xứ tôi phục vụ, mỗi lần đi nhà thờ là các giáo dân phải đi qua những khu vực tệ nạn trên, thái độ của giáo hữu rất dễ dàng nhận thấy: người lắc đầu, kẻ đi như chạy cho qua khỏi chỗ đó, lại có người không thèm nói chuyện với những người ở đó.
     Với hai cái khó trên, quả là họ khó trở lại làm người lương thiện.
     Nhưng cũng có những giáo dân rất tình người, không những nói chuyện thân tình với họ, mà còn mời họ đến nhà chơi, mời họ đi nhà thờ. Vị linh mục ở nhà thờ ấy cũng làm rất nhiều cách để cho con em của họ hội nhập với xã hội, ngài mở nhà trẻ tình thương, mở lớp dạy nghề cho thiếu niên, các hoạt động vui chơi, thành lập hướng đạo sinh v.v… và hiệu quả thật khả quan, hoàn cảnh môi sinh cành ngày càng tốt hơn.
     Đức Chúa Ki-tô đến không phải để cứu những người công chính, nhưng là cứu vớt những tội nhân (Mt 9, 13).
     Người trộm lành, thu thuế Lê-vi, một Gia-kêu lùn, một Ma-ri-a Mag-da-la…
     Hãy nhìn thiện chí của họ để mừng vui.
     Đừng nhìn quá khứ của họ, vì quá khứ như xác chết đã chôn trong nấm mồ, họ không muốn chúng ta đào lên.
     “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10).
72. HẠNH PHÚC CỦA CÁ HEO
     Cá heo hỏi:
-    “Hạnh phúc và không hạnh phúc khác nhau ở chỗ nào?”
     Đấng tạo hóa trả lời:
-    “Chỉ lưu tâm có thoả mãn hay không, con có thể vừa ý ở tình huống hiện tại, thì không hạnh phúc cũng hạnh phúc. Bằng ngựơc lại, hạnh phúc cũng là không hạnh phúc”.
Suy tư 72:
     “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày…” (Mt 6, 11).
     Người sung sướng là người không thiếu gì cả, nhưng chưa chắc đã có hạnh phúc.
     Người hạnh phúc có thể thiếu thốn, nhưng không bon chen, mà vui vẻ chấp nhận những gì mình có.
     Người hạnh phúc nhất là người biết thánh hoá giây phút hiện tại.
     Người đau khổ nhất là người đem giây phút hiện tại hoá thành tương lai.
73. MÓN QUÀ CỦA VỢ CHỒNG SÓC
     Một năm chấm dứt, mưa thuận gió hòa, các động vật cùng nhau thương lượng, mỗi người phải tặng cho Đấng tạo hóa một món quà mà Ngài ưa thích.
     Sư tử nói: “Tôi sẽ dùng vàng ròng làm tặng Ngài một cái vương miện, nhất định Ngài sẽ ưa thích”.
     Báo gấm nói: “Tôi sẽ dâng cho Ngài một cây quyền trượng khảm đầy đá quý, giá trị rất to lớn”.
     Lễ vật của các người khác: có cái thì trân châu rưc rỡ, có cái thì gấm đoạn hoa lệ, còn có cái là hương liệu ngàn năm…
     Cuối cùng vợ chồng nhà sóc vừa già lại tàn tạ, đi đến trước mặt Đấng tạo hóa, móc từ trong túi ra một quả vỏ cứng nhỏ (hạt dẻ) , ấp úng nói:
-    “Thật con không có lễ vật chi để tặng Ngài, chỉ có quả vỏ cứng nhỏ này ra…”
     Đấng tạo hóa từ trước đến nay luôn nhìn những thứ quý giá trong đống lễ vật đầy ắp, nay cầm lấy món quà ấy thì sung sướng nói:
-    “Đây mới đúng là quà tặng trân châu quý giá”
-    “Cái gì?”- Chúng nhân nhao nhao lên tiếng kháng nghị: “Chúng con kính tặng Ngài rất nhiều kỳ trân dị bảo, nhưng Ngài chỉ nhìn đến quả vỏ cứng nhỏ chẳng có chút gì là giá trị, hoàn toàn không hợp mắt…”
-    “Này các con, các con biết không?” –Đấng tạo hóa nhẹ nhàng nói: “Các con tặng cho Ta rất nhiều quà, nhưng đó là một phần trong sở hữu của các con, chỉ có quà vợ chồng nhà chồng sóc tặng Ta, lại chính là toàn bộ cuộc sống của nó vậy.”
Suy tư 73:
     Những người nghèo khó, thật thà, chất phác, thường là những người hảo tâm nhất, có tấm lòng thơm thảo nhất. Họ dâng biếu mà không buồn nghĩ đến mình sẽ thiếu thốn, có khi nhịn đói, quà biếu của họ tuy nhỏ không đáng giá, nhưng tâm hồn họ thì vô giá, không vàng bạc nào mua được cả.
     Trái lại, có những người giàu có khi dâng biếu thì tính đến cái lợi cho mình, ngày lễ ngày tết luôn tìm cách quà cáp cho giám đốc, cho cấp trên, chẳng phải họ yêu mến gì cấp trên của họ, mà là vì công việc làm ăn của họ mà thôi.
     Tôi để ý thấy, mỗi lần bỏ tiền “xin thau” trong thánh lễ ngày chủ nhật, có một bà luôn bỏ mười ngàn hoặc năm mươi ngàn đồng, mỗi lần người cầm thau đến trước mặt bà, thì bà đưa tay lên cao, tờ bạc căng ra và bỏ vào cái thau. Chẳng biết bà khoe tờ giấy bạc hay là khoe cổ tay mang đầy vòng vàng ?
     “Thiên Chúa cần tấm lòng hơn là của lễ”.
74. CHIM ƯNG CÔ ĐỘC
     Chim ưng kể lể nó không có bạn bè.
-    “Hừm, chúng nó ghét tôi mới đánh tôi, xa lánh tôi…”
     Đấng tạo hóa nhắc nhở nó:
-    “Bé con, con có nghĩ tới chăng, nếu con cảm thấy bạn bè không tốt, có lẽ bản thân con cũng chưa đủ tốt. Nếu con đủ tốt thì bạn bè của con đã không tỏ ra quá xấu”.
Suy tư 74:
     Có người sống chết với bạn bè, bởi vậy họ có rất nhiều bạn tốt.
     Có người lợi dụng tình bạn để làm lợi cho mình, cho nên bạn bè dần dần xa lánh họ.
     Người quen biết thì nhiều, nhưng kiếm cho được bạn tri kỷ thì thật rất khó. Có được người bạn tốt, thì như kiếm được viên ngọc quý giá, nó làm tăng lên giá trị của con người mình.
     “Giàu nhờ bạn, sang nhờ vợ”
-    Lấy lòng tự trọng mà đối đãi với bạn bè, thì bạn bè sẽ tôn trọng mình.
-    Lấy sự tin tưởng mà trò chuyện với bạn bè, thì bạn bè sẽ tin phục mình.
-    Lấy yêu thương để giao kết với bạn bè, thì bạn bè sẽ chết sống vì ta.
     Đừng lấy bụng dạ hẹp hòi mà đối đãi với bạn bè, thì lo gì mà không có bạn tốt chứ?
75. CHUỘT TÚI VÀ NGƯỜI HÀNH KHẤT
     Trong rừng sâu xuất hiện một người hành khất.
     Hình dung tiều tụy, áo quần rách bươm, toàn thân còn toả ra một mùi khác lạ, mọi người thấy nó mà phát ghét, chỉ sợ tránh không kịp, nhưng nếu thực sự tránh không kịp thì buộc lòng phải cho nó vài đồng để nó cút cho mau.
     Lúc người hành khất đến trước mặt chuột túi, chuột túi lục… túi khắp cả người, sau đó áy náy nói:
-    “Này bạn, xin lỗi ạ, tôi cũng nghèo như bạn vậy”.
     Chẳng ngờ, người hành khất xiết chặt tay của nó, liên tục nói tiếng cám ơn.
     Chuột túi không hiểu, bèn hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Quái lạ, con không cho anh ta cái gì cả, mà anh ta lại còn cảm ơn con!”
-    “Không phải đâu bé con”- Đấng tạo hóa nói tiếp: “Con đã cho ông ta cái tốt nhất: tình bạn và sự cao quý”.
Suy tư 75:
     Con người ta, cao quý nhất là tấm lòng, đem tấm lòng biếu tặng người khác đó là món quà vô giá.
     Thánh Martinô Giám mục đã cắt tấm áo choàng của mình để đắp cho người hành khất đang lạnh cóng, Thiên Chúa đã hiện ra và cám ơn ngài.
     Có nhiều người nói: tôi muốn giúp đỡ người khác lắm, nhưng tôi cũng nghèo như họ. Bạn không thể nghèo túng đến nỗi một nụ cười cũng không có ? Bạn có thể không có một đồng xu dính túi, nhưng cái bắt tay, một lời hỏi han mà cũng không có nữa hay sao?
     Có một giáo dân trong xứ tôi bị bệnh, các đoàn thể rủ nhau đi thăm, có một ca viên vì bận học hành không cùng đi đựơc, tối lại, anh ta rủ thêm vài cô cậu học trò đến thăm, anh ta xin lỗi vì không cùng đi với đoàn thể được, bệnh nhân nói: “Khỏi lỗi với phải, nghe tiếng mày cười là vui lắm rồi”.
     Tiếng cười hơn mười thang thuốc bổ, thế thì tại sao ta không đem “mười thang thuốc bổ” ấy tặng cho tha nhân? Suy xa hơn một chút, thang thuốc bổ thì chỉ có bệnh nhân là có lợi, còn tiếng cười thì cả bệnh nhân, người coi bệnh nhân, và những ngừơi chung quanh đều có lợi: họ vui vẻ thoải mái.
     Vậy thì, đừng nói là tôi không có gì để tặng cho tha nhân, chúng ta không có tiền bạc vật chất, nhưng nụ cười, cái bắt tay, lời thăm hỏi.v.v… thì chúng ta không thiếu, phải không các bạn?
     Đó là những món quà của tình người rất cao quý.
76. CHIM CÁNH CỤT KHÔNG BIẾT LẠNH
     Chim cánh cụt đi bên bờ biển xích đạo, tứ cố vô thân, nó cảm thấy gió biển lặng lẽ, khí lạnh kinh người, một cảm giác thê lương tận đáy lòng của nó tự nhiên bùng lên.
     Đến nam cực, nó cùng các bạn cùng lớp vui đùa đánh đáo, tương thân tương trợ “liền một khối”, mà không cảm thấy mình đang đứng trên tảng băng nguyên vẹn lạnh như cắt, nó hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Lạ thật, khi con ở nam cực không cảm thấy lạnh, vậy mà tại sao lúc ở xích đạo toàn thân cứ run lên cầm cập?”
     Đấng tạo hóa không nín được, cười nói:
-    “Bé con, có những lúc lạnh, không nhất thiết là phải liên quan tới thời tiết, nhưng có quan hệ với sự cô đơn”.
Suy tư 76:
     Xích đạo thì nóng vô cùng, nhưng cảm thấy lạnh lẽo, vì sự cô đơn.
     Nam cực thì lạnh vô cùng, nhưng cảm thấy ấm áp dễ chịu, bởi vì không cô đơn, bởi vì có bạn bè vui đùa.
     Con người ta khi vắng người tình thì không phải cảm thấy cô đơn lạnh lẽo đó sao ? Mùa xuân trời đẹp, chim ca bướm lượn, ai ai cũng vui vẻ đón xuân, mà mình thì lại rĩ rã ca bài; “mùa xuân cô đơn”, có phải là thời tiết không ? Chắc chắn là không.
     Tâm hồn của chúng ta cũng có lúc cảm thấy cô đơn, không phải vì thất tình, vì vắng xa người yêu, mà là vắng bóng Thiên Chúa ở trong tâm hồn mình. Ở đâu vắng bóng Thiên Chúa, ở đó sẽ có hận thù ghen ghét, mà hận thù ghét ghen không phải là bóng đêm của tội lỗi sao?
     Vắng bóng Thiên Chúa là vì chúng ta chọn vật chất, danh vọng, quyền uy, và đem Thiên Chúa quăng ra ngoài đường, rước ma quỷ vào làm chủ trong tâm hồn của mình.
     Khi trong lòng chúng ta có Thiên Chúa, tràn ngập ân sủng của Ngài, thì chúng ta sẽ không còn cô đơn, không còn cảm thấy lạnh lẽo dù thời tiết nóng như thiêu, lạnh như cắt.
     Khi tâm hồn chúng ta vắng bóng Thiên Chúa, thì dù sống trên đống của cải, trên mọi danh vọng, thì cũng cảm thấy cô đơn và bất an.
     Và khi chúng ta có Chúa ở trong lòng, thì dù bị đày ra ngoài nam cực hay xích đạo, thời tiết nóng hay lạnh, hoặc nghèo rớt mồng tơi thì cũng chẳng nhằm nhò gì với chúng ta, bởi vì Thiên Chúa là ánh quang huy chiếu rọi tâm hồn mọi người.
-      Tâm hồn vắng bóng Thiên Chúa thì tâm hồn lạnh lẽo, bất an, cô đơn và sợ hãi.
-      Thế giới vắng bóng Thiên Chúa thì thế giới chiến tranh, loạn lạc, bất công và hận thù.
77. NGUYỆN VỌNG CỦA CÂY CỎ NHỎ
     Đấng tạo hóa cho phép mọi người, mỗi cá nhân đều có thể đề xuất ra một nguyện vọng.
     Hổ nói: “Con vẫn khát vọng trở thành vua của các thú rừng, con cần quyền lực.”
     Hươu cao cổ nói: “Trí tuệ là của cải lớn nhất, con thích có một đầu óc thông minh.”
     Con cáo nói: “Tiền bạc có thể đem lại cho người ta cảm giác an toàn, con chỉ cần có tiền, thì cái gì cũng không sợ.”
     Con công đối với những nhu cầu của chúng bạn thì nó thật coi khinh: “Các anh dung tục, tôi chỉ cần thanh xuân và dung mạo đẹp đẽ là có thể được rồi”.
     Mỗi cá nhân đều nói xong nguyện vọng của mình, chỉ có cây cỏ nhỏ trầm mặc không lời. Đấng tạo hóa dịu dàng hỏi:
-    “Bé con, con cần gì?”
     Cây cỏ nhỏ ngẩng đầu lên, nhỏ nhẹ trả lời:
-    “Nguyện vọng của con là vĩnh viễn không nhụt chí đối với cuộc sống, không khuất phục trước hoàn cảnh xấu xa”.
     Cho đến hôm nay vật đổi sao dời, tất cả quyền thế địa vị, của cải, thông minh đều như “hoa trong gương, trăng dưới nước”, trong nháy mắt trở thành không không, chỉ có cây cỏ nhỏ vẫn cứ đời đời không chấm dứt, nơi nào có đất là ở đó có nó.
Suy tư 77:
     Thiên Chúa cho vua Sa-lô-mon một lời cầu xin, ông chỉ xin có một điều nhưng rất đẹp lòng Ngài: ông xin cho được khôn ngoan để cai trị dân Chúa, và Chúa đã ban cho ông được như thế.
     Trong cuộc đời của chúng ta, chỉ một người thôi cũng đã có hàng chục triệu lần cầu xin, thử làm một thống kê xem sao:
- Cầu xin cho bản thân, gia đình: 90%.
- Cầu xin cho tha nhân (bạn bè, ân nhân…): 5%.
- Cầu xin cho kẻ thù: 2%.
- Cầu xin cho sáng danh Chúa: 3%
     Thường thì chúng ta cầu xin cho mình nhiều hơn cho tha nhân, cho tha nhân nhiều hơn cho kẻ thù, và thỉnh thoảng cũng nhớ cầu cho sáng danh Chúa.
     Vậy thì bây giờ chúng ta làm ngược lại:
     1. Xin cho sáng danh Chúa: 90%                       
     2. Cầu xin cho kẻ thù: 5%
     3. Cầu xin cho tha nhân: 3%
     4. Cầu xin cho bản thân, gia đình: 2%
     Theo thứ tự ưu tiên là như thế, còn % thì tùy mỗi người vậy.
     Lời cầu xin đẹp lòng Thiên Chúa nhất, chính là xin cho được làm sáng danh Chúa trong mọi việc.
78. VƯỜN Ê-ĐEN Ở TRÊN ĐẤT
     Tiếng chim bay vọng lại:
-    “Nếu không khí không ô nhiễm, nếu rừng rú không bị đốn, nếu sinh thái không bị phá hoại, thì đây thật là đào hoa tiên cảnh”.
     Cá chép say sưa nói:
-    “Nếu hồ nước một vùng trong biếc, ánh quan chiếu trên núi, khoan thai yên lặng, chúng ta sống nhàn nhã trong nó, không lo không buồn, không sợ hãi, đây quả thật là thiên đàng”.
     Chúng nó truy hỏi Đấng tạo hóa Nước Trời lúc nào thì tới. Đấng tạo hóa trả lời gọn gàng:
-    “Nước Trời, chính là ở ngay trong lòng các ngươi đó”.
Suy tư 78:
     “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần” (Mt 3, 2).
     Có người biện luận: Nước Trời đến gần chứ chưa tới bên, vậy thì cứ thoải mái vui chơi.
     Có người dỏng dạc hô to: Nước Trời đến rồi, nhưng chưa tận thế đâu mà sợ, ta cứ phè phởn ăn chơi.
     Lại có người hùng dũng lý luận: trái đất này là Chúa dựng nên, cho nên Chúa đến từ lâu rồi, nhưng Chúa dựng cho chúng ta hưởng thụ vui chơi, vậy tội gì mà không vui chơi chứ ?
     Ai cũng có lý cả, Nước Trời hay thiên đàng cũng là một, đều là nơi vui sướng hạnh phúc nhất cho chúng ta hưởng thụ, nhưng họ quên mất một điều: lương tâm. Nếu lương tâm của họ ngay thẳng, nếu tâm hồn của họ bình an thì thiên đàng chính là tự trong lòng họ,  và lây lan cho người chung quanh.
     Thiên đàng hiện tại và thiên đàng mai sau, cũng chỉ giống nhau ở một điểm là hoan lạc và bình an.
     Vậy có bình an, có hoan lạc hay không, đều là do chính nơi bản thân tâm hồn của chúng ta có Thiên Chúa hay không mà thôi !
79. LẠC ĐÀ BỊ BỆNH
     Lạc đà bị bệnh té ở bên đường, đợi cứu viện.
-    “Thật là áy náy, tôi phải đi nhanh để xây thánh điện, không có giờ rãnh để giúp anh”, con voi đi qua đường, nhưng đi tất tất bật bật.
-    “Tôi bận đi đầu tư gấp, đợi kiếm chút lời thì có thể dâng hiến Thiên Chúa một món tiền lớn”- hà mã áy náy nói với lạc đà xong, đi mà không ngoảnh đầu lại.
     Đấng tạo hóa buồn nói:
-    “Này các con, thánh điện càng đẹp hơn, tiền bạc có nhiều thêm nữa, thì cũng không quan trọng bằng một sinh mệnh”.
Suy tư 79:
     “Một miếng khi đói, bằng một gói khi no”, thật là một câu nói đầy tính triết lý sống.
     Đức Chúa Giê-su đã kể ra dụ ngôn người Samari nhân hậu, để chê những người thích coi trọng hình thức bên ngoài mà bỏ ngơ công việc bác ái: tới nhà thờ trễ một chút có chết thằng tây nào đâu, mà người anh em đang nằm đó sắp chết lại không cứu giúp! Đụng đến người ngoại đạo là ô uế, sợ lỗi luật, mà không cúi xuống đỡ người hoạn nạn lên, thì chẳng khác chi cầm gáo nước lạnh tạt vào mặt Chúa, bởi vì khi đã hành động như thế thì ô uế hơn là đụng vào xác chết.
     Bác ái là không kể tốt xấu, ô uế, da đen da trắng, không kể quốc gia dân tộc, không kể có bà con thân thuộc hay không. Bác ái cũng không phân biệt nhà giàu hay nhà nghèo, thông minh hay đần độn v.v…
     Người công giáo cần sống bác ái.
     Các tu sĩ lại cần sống bác ái gấp đôi.
     Các linh mục càng sống bác ái cách tuyệt vời hơn.
     Bác ái chính là diễn tả lại cuộc sống của Chúa Ki-tô, là rao giảng Tin Mừng hữu hiệu nhất vậy.
80. CHIM SƠN CA THÍCH HÁT
     Mọi người đều công nhận chim sơn ca là con chim biết hát nhất trong rừng rậm, giọng ca của nó thánh thót du dương trầm bỗng, nghe rất vui tai.
     Được mọi người ca ngợi, chim sơn ca rất phấn khởi, càng hát mạnh lên, hát mà không nghỉ.
     Chẳng ngờ, chúng nhân bắt đầu dần dần chán ghét giọng ca của nó, nó không hiểu tại sao, bèn hỏi:
-    “Thật là kỳ cục, trước đây không phải các người thích nghe tôi hát sao?”
     Chúng nhân bất đắc dĩ nói:
-    “Cô hát tất nhiên nghe hay rồi, nhưng hát từ sáng đến tối, chúng tôi còn phải ngủ chứ?”
-    “Nhà tôi vừa mới xảy ra chuyện bất ngờ, chị còn được vui vẻ như thế, là cố tình không đến với tôi”.
     Nhưng chim sơn ca, trái lại không nghĩ như thế, nó tức sôi lên nói:
-    “Cái chính là lòng người dễ dàng thay đổi, yêu mới nới cũ đó mà”.
Suy tư 80:
     Đúng là lòng người cũng có khi đổi trắng thay đen.
     Biết bao nhiêu cô gái đã thất tình, chán đời vì người yêu đổi trắng thay đen, có bao nhiêu bạn bè lừa gạt nhau cũng chỉ vì lòng dạ đổi trắng thay đen?
     Nhưng đó là chuyện của họ.
     Chuyện của chúng ta, chính là lòng mình có đổi trắng thay đen hay không?
     Chúng ta cậy vào tài năng, đối xử với bạn bè như cỏ như rơm, chúng ta có đổi trắng thay đen hay không?
     Trước đây chúng ta rất hoà nhã với mọi người, như từ khi làm ông cha, làm bà phước, làm ông thầy, thì coi mọi người như là thuộc hạ không bằng, có phải chúng ta đổi trắng thay đen không?
     Thay trắng đổi đen hay thay đen đổi trắng, không phải tự tâm chúng ta mà ra đó hay sao ? Có người trước kia chỉ là một người chân lấm tay bùn, nhưng khi có chút chức quyền thì hống hách với mọi người, trạng thái tâm lý biến đổi, tính tình cũng biến đổi theo, có phải là thay trắng đổi đen hay không?
     Người ta bỏ mình, không thích đến với mình, thậm chí thấy mình ở đâu là họ tránh né, cũng có thể là lỗi của họ, mà cũng có thể là tại chúng ta quá thay trắng đổi đen ỷ vào tài năng của mình, để rồi bất cần mọi người hay chăng?
     Hãy hỏi lòng mình khi mọi người tìm cách tránh mặt mình...
81. LÀM KHÓ ĐẤNG TẠO HÓA
     Chim sẻ hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Con thích sự an định và ấm áp trong gia đình, nhưng con cũng vọng hưởng sự thoải mái và không gò bó, lang thang ở chân trời; con muốn tìm một công việc được đãi ngộ chu đáo, nhưng lại sợ trách nhiệm quá nặng nề, chống không nổi, có cách gì để đẹp cả đôi đường không?”
     Đấng tạo hóa than thở, nhè nhẹ nói:
-    “Ai dà, Ta cũng muốn tìm một chỗ vừa tôn quý uy nghiêm, vừa không cần phải nhọc lòng lo nghĩ đến trời đất chúng sinh”.
Suy tư 81:
     Không ai được làm tôi hai chủ: vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền bạc.
     Nhưng lòng người thì luôn muốn “trọn vẹn cả đôi đường”.
     Tôi có người bạn làm việc ở hai công ty lớn, buổi tối còn học thêm Anh văn, hơn một năm sau anh ta xuống mất bốn, năm ki-lô-gam, và xin nghỉ việc một công ty, lý do đơn giản là: làm không nổi.
     Đó là công việc làm ăn, còn về tinh thần, phần hồn thì sao ? Tôi cũng có một học trò đã có vợ và hai con rất dễ thương, vợ là đạo theo, bản thân anh ta rất tốt, hiền lành, ngoan đạo, nhưng trước cửa nhà có đặt một...ông địa, gọi là thần tài. Ngày ngày vợ anh ta thắp nhang vái vái lạy lạy ông địa trước khi đến nhà thờ, tôi hỏi tại sao làm vậy, chị trả lời rất vô tư: “Nếu Chúa Mẹ không cho phát tài, thì ông thần cũng cho”. Hết ý.
     Chúng ta từ bỏ tất cả để theo làm môn đệ của Chúa, nhưng cũng có những lúc chúng ta cũng vơ vét lại những gì mà chúng ta đã bỏ, vơ lại chút tình yêu, vơ lại chút danh vọng, vơ lại chút của cải v.v…
     Những cái vơ lại ấy không làm cho chúng ta hạnh phúc, cũng chẳng làm cho chúng ta bình an, nó chỉ làm cho chúng ta bối rối và bất an mà thôi.
     Đừng làm tôi Thiên Chúa rồi lại làm đệ tử của ma quỷ.
82. KHẢNG KHÁI CỦA CON VOI
     Con của gấu bị bệnh phải mỗ lập tức, nên cần một món tiền bảo đảm, gấu vội vàng đi khắp nơi hỏi để vay mượn.
     Nó cầu cứu sự giúp đỡ của con voi, voi khảng khái nói:
-    “Không thành vấn đề, hai ngày sau, thì vừa đúng lúc tôi có tấm ngân phiếu đến kỳ, tôi nhất định giúp đỡ”.
    Qua hai ngày sau, con voi đem tiền đến biếu cho nhà gấu, nhưng gấu nói nó không cần nữa, bởi vì con nó đã chết, con voi lấy làm tiếc nói với tê giác:
-    “Tôi đã nói rồi, tôi nhất định phải giúp họ”.
     Tê giác cảm khái thở dài nói:
-    “Một đồng hôm nay, hơn hẳn trăm đồng ngày mai vậy”.
Suy tư 82:
     Đem tiền gởi vào ngân hàng thì không mất mà lại còn được lời, một lời hai, hai lời ba…
     Còn ân phúc thì làm sao cho có lời, mà lời gấp hai gấp ba ?
     Thưa, đem ân phúc của chúng ta mà gởi cả cho người nghèo, người cần chúng ta giúp đỡ, bởi vì chính họ là những ngân hàng của chúng ta. Khi chúng ta giúp đỡ cho ai một ly nước lã mà thôi, thì cũng được Thiên Chúa trả lại gấp đôi, đạo lý này thì rất rõ ràng, nhưng mấy ai thích đem tiền của của mình gởi vào những ngân hàng ấy!
     Tôi còn nhớ một câu chuyện ngụ ngôn đại khái như sau: có một con cọp bị thương, đang nằm rên la đau đớn, bác tiều phu nghèo khổ thấy vậy bèn cứu chữa cho nó, sau khi nó lành thì chạy vào rừng… … bác tiều phu ngày ngày đi lấy củi trong rừng trở về, và ngày nào cũng đều thấy một miếng thịt rừng to tổ bố giữa nhà, đó chính là sự trả ơn của con cọp...
     Thú dữ mà cũng biết trả ơn như thế, huống gì là Thiên Chúa lại không biết sao?
     Xét cho cùng, người nghèo khó và người bất hạnh đều là những người làm ơn cho chúng ta, họ là những ngân hàng để chúng ta gởi công phúc vậy.
83. DẶN DÒ VÀ BA HOA
     Lúc vịt con ra khỏi cửa, vịt mẹ đứng ở sau lưng nói:
-    “Đem theo cái ô, cục khí tượng nói chiều nay trời sẽ đổ mưa; lúc qua đường nhớ cẩn thận, nhìn rõ ràng trước sau không có xe mới đi qua; tối nhớ về cho sớm, cẩn thận…”
     Vịt con không chịu nổi, cắt đứt lời của mẹ:
-    “Từ sáng đến tối mẹ cứ ba hoa, có thôi không nào?”
     Dần dần vịt con lớn lên, kết hôn, cũng làm vịt mẹ, mỗi ngày đàn con vây luẩn quẩn quanh mình.
-    “Mẹ bảo con mặc thêm quần áo có nghe không nào?… Đợi một chút không thì lại cảm mạo đấy. Nhớ ăn cho hết rau ở trong cơm hộp, gầy như thế mà còn kén ăn, còn…”
     Không đợi nó nói hết, lũ con la lên kháng nghị:
-    “Má, má nói lôi thôi không à, ngày nào cũng ba hoa không à.”
     Nó muốn mở miệng chửi mắng, đột nhiên im lặng không nói, câu nói ấy thật quen thuộc, từa tựa như đã nghe qua ở đâu rồi thì phải ! Đúng rồi, chính là bản sao lại của nó hồi năm xưa.
     Thật kỳ lạ, lời ba hoa của mẹ, hôm nay chợt nhớ lại từng câu từng câu, đều tràn đầy sự dặn dò quan tâm yêu mến.
     Nó hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Rốt cuộc thì dặn dò và ba hoa có gì là khác biệt?”
     Đấng tạo hóa nhẹ tiếng trả lời:
-    “Khác biệt ở chỗ thân phận làm mẹ và làm con không giống nhau”.
Suy tư 83:
     Hồi còn nhỏ tôi thường hay bị mẹ la mắng vì không chịu cẩn thận khi ra nắng, tôi lại thích đi lang thang giữa trời mưa, mà lại kiếm những chỗ có vũng nước mà lội, nên cứ bị nhắc nhở. Bây giờ già đầu rồi mà mỗi khi đi học ghé thăm mẹ, thì cũng “bị” nhắc nhở cẩn thận khi chạy xe, đừng để đầu trần mà ra nắng v.v…
     Chắc các bạn cũng như tôi, không ít thì nhiều cũng bực mình khi nghe nhắc hoài những điều quá thường ấy!
     Vậy mà bây giờ nhớ lại, thì quả thực lời mẹ nhắc nhở rất đúng, mẹ nhiều lời cũng vì tình thương của mẹ dành cho con cái thật tràn trề, sự tràn trề này được biểu hiện ra nơi sự nhắc nhở thường xuyên ấy.
     Điều mà con cái coi thường, thì mẹ lại thường xuyên nhắc nhở, việc mà con cái không để ý, thì mẹ lại luôn quan tâm để ý.
     Không ai tế nhị cho bằng mẹ.
     Tình thương của mẹ dành cho con cái to lớn hơn con cái nghĩ đến.
     Rồi chúng ta sẽ kết hôn, sẽ làm bố mẹ, rồi chúng ta cũng sẽ thường xuyên nhắc nhở con cái những lời mà mẹ mình đã nói lúc trước: đừng ra nắng nghe con, đừng chơi bời với bạn bè xấu nghe con, nhớ mặc áo mưa khi ra mưa nghe con… nhớ… và nhớ… nghe con.
     Đức Mẹ Maria cũng nhắc nhở chúng ta mỗi ngày:
     -  Hãy cầu nguyện.
     -  Hãy siêng năng lần hạt mân côi.
     -  Hãy cải thiện đời sống.
     Có phải Mẹ ba hoa, hay là Mẹ yêu thương chúng ta?
84. SÔNG SUỐI VÀ ĐÁ NGẦM
     Sông suối kể lể với đá ngầm:
-    “Tại sao anh ngăn cản đường đi của tôi, để tôi phải vượt qua trên anh cho phí tổn sức khoẻ?”
     Đá ngầm trả lời:
-    “Lẽ nào anh không cảm thấy, chính là do tôi anh mới bắn lên những bọt nước đẹp đẽ của anh, để cuộc sống của anh trở nên tưng bừng phấn khởi và thật dịu dàng”.
Suy tư 84:
     Có những vật tự nguyện mất đi để đời sáng sủa hơn: ngọn nến.
     Có những hạt muối tan biến đi để thức ăn thêm vị ngon.
     Có những người vợ chấp nhận hy sinh để chồng và con cái đựơc sống.
     Có những người bạn chịu thiệt thòi để bạn mình đựơc vinh hoa, phú quý.
     Và không có ai chấp nhận hy sinh to lớn bằng bố mẹ mình, cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động mỗi khi nghe hát bài “Uống nước nhớ nguồn”: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu, công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra… vì đâu anh nên người tài ba… …”. Bài hát lột tả tất cả tình thương và sự hy sinh của cha mẹ đối với con cái.
     Nhưng gộp lại tất cả tình thương của cha mẹ, bạn bè, người yêu, thì cũng không thể so sánh bằng tình yêu của Đức Chúa Giê-su dành cho chúng ta. Ngài đã yêu thương chúng ta cho đến chết, và là cái chết trên thập giá (Pl 2,8) để chúng ta được giải hoà với Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là cha, và được sống đời đời với Ngài trong vinh quang…
     Nếu không có tảng đá cản đường, thì làm gì mà có những bọt sóng tung toé trắng xoá để ta thưởng thức!
     Nếu Đức Chúa Ki-tô không hy sinh, không chết trên thập giá và sống lại, thì chúng ta làm sao được gọi Thiên Chúa là cha, và hy vọng hưởng phúc với Ngài trên thiên đàng chứ ?
85. TÌNH YÊU CỦA TIÊU THƯ CÚ MÈO
     Tiểu thư cú mèo yêu chú ngôi sao.
     Mỗi buổi tối, nó ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn sao trên trời, kể lể nỗi lòng:
-    “Chàng có biết em ngưỡng mộ chàng nhiều lắm không? Phong độ chàng rất tao nhã, dáng bên ngoài cao vút khắp mọi nơi làm cho em mê say. Bất luận anh nghèo hay giàu, là quý hay tiện, em cũng tự nguyện làm con ở  vĩnh viễn ở cùng anh”.
     Chú ngôi sao bị nhiệt tình của tiểu thư cú mèo làm cảm động, bèn quyết định hạ xuống cùng nó tương hội, nó vứt bỏ hết ánh sáng và sức nóng của toàn thân, vạch một đường dài cực nhanh qua bầu trời đến trước mặt tiểu thư cú mèo.
     Tiểu thư cú mèo thật không tin vào mắt mình nữa, nó mang nỗi kinh ngạc không hiểu được, và không che giấu nỗi thất vọng của mình, nói:
-    “Trời ạ, người yêu của tôi phải thật phong độ, thanh thoát tuyệt vời, thế mà chỉ là một tảng đá ư ?”
     Nó đập đập đôi cánh bay đi, đầu cũng không thèm ngoảnh lại.
Suy tư 85:
     Những cô tiểu thư ngày nay thích sống thực tế hơn, ngay cả trong tình yêu họ cũng không che giấu được những ước mơ thực tế.
     Có những cô gái thích các chàng trai vẻ bên ngoài thật phong độ, chịu chơi pha chút hiền lành.
Tôi đã dạy giáo lý hôn nhân cho rất nhiều đôi bạn trẻ, những đôi bạn già, và những cặp hôn phối rất già, đôi nào cũng hạnh phúc, sung túc. Nhưng chỉ có một đôi vợ chồng rất trẻ, cô gái khá đẹp và gia đình là công giáo đạo đức, anh thanh niên thì đẹp trai, dáng hiền lành, ngoại đạo, quả thật là một đôi đẹp đôi.
     Học giáo lý chỉ hơn một tháng thì không học nữa, anh ta chẳng muốn đến nhà thờ, vì yêu anh ta mà cô gái cũng đã bỏ luôn cả nhà cha mẹ và ở với anh ta, không làm phép cưới, không đi lễ, mặc dù nhà anh ta cách nhà thờ đi bộ không đến nửa phút. Ván đã đóng thuyền, ở với nhau, cô ta mới thất vọng vì anh chồng đã không còn hiền lành như trước nữa, ngày ngày rượu chè, đánh bậy với hàng xóm, cô gái không dám nhìn bà con, không dám nhìn bạn bè, và cũng không dám nhìn luôn cả Thiên Chúa.
     Bề ngoài thì đẹp mã nhưng trong lòng thì rỗng tuếch, chẳng khác gì cái phèng la kêu to rỗng bụng.
     Các chàng trai lụy vì sắc đẹp.
     Các cô gái chết vì tài năng.
     Sắc và tài đều là của Thiên Chúa ban cho, nhưng con người thường dùng tài sắc để che giấu những thói xấu và khuyết điểm của mình.
     Sắc sẽ phai tàn, tài sẽ mất đi, chỉ còn lại cái tâm, có điều là tâm tốt hay tâm xấu mà thôi.
     Tâm tốt xấu ai mà biết đựơc, mà nếu biết thì biết chút xíu thôi, khôn ngoan nhất là nên cầu nguyện, bàn hỏi với những người khôn ngoan trước khi kết hôn!
86. NGUYÊN NHÂN THOÁNG NỞ THOÁNG TÀN
      Hoa quỳnh, bởi vì đời sống của nó rất ngắn ngủi, nên phàn nàn với Đấng tạo hóa:
-    “Ngài tạo dựng con rất là đẹp đẽ, chỉ có điều là: mỗi khi con đắm say trong sự tán thưởng và ngưỡng mộ của chúng nhân, thì Ngài lại lật đật kết thúc cuộc sống của con, phải nói là quá tàn nhẫn đi thôi”.
     Đấng tạo hóa bất đắc dĩ nói:
-    “Được, Ta để con sống lâu thêm một chút”.
     Sau đó không lâu, hoa quỳnh gấp gấp thỉnh cầu với Đấng tạo hóa: “Ngài nên để con hồi phục dáng vẻ trước kia nhé, nhìn mình mỗi lúc một già đi, hồng nhan không trở lại, thực là một chuyện đáng sợ”.
     Đấng tạo hóa bắt đầu giáo huấn, nói:
-    “Lạ thật, già thì cũng có cái đậm đà của già chứ?”
-    “Không, không”- Hoa quỳnh nói: “Thà rằng con nhận sự hoài niệm và tiếc nuối của mọi người”.
     Cho đến ngày nay, hoa quỳnh nháy mắt nở, nháy mắt tàn, chính là nguyên nhân “thoáng nở thoáng tàn” vậy.
Suy tư 86:
     Tôi đã thấy rất nhiều loại hoa, ở Sài gòn, mỗi năm tết đến, chợ hoa khai mạc thì dù có chết tôi cũng đi coi cho bằng được, mặc dù năm nào cũng chỉ những loại hoa ấy. Ở Đài Loan, tôi cũng được may mắn đi coi những nơi trồng hoa của các nghệ nhân, đẹp không thể tả, đủ màu đủ sắc, có những loại hoa mà tôi chưa bao giờ được thấy, nhưng thú thật, hoa quỳnh thì tôi chưa hề thấy bao giờ cả, chỉ nghe nói và nghe người ta khen nó đẹp, nó thơm mà thôi, nhưng nó quý và hiếm, quý và hiếm là nó vừa nở hoa thì tàn ngay sau đó, đời sống của nó quá ngắn ngủi, nên nó được người ta quý.
     Đời sống con người ta cũng như bóng câu qua cửa sổ, nghĩa là cũng vắn vỏi vô cùng.
     Hoa quỳnh chóng tàn nhưng để lại cho người thưởng thức sự nuối tiếc.
     Cuộc sống ngắn ngủi, nhưng chúng ta đã làm gì để cho đời tiếc thương ? Các thánh tử đạo là những người có cuộc sống đời này rất ngắn, nhưng danh thơm tiếng tốt của các ngài thì ngàn năm sau không phai nhạt.
     Thánh Đaminh Saviô, thánh Maria Gorretti, thánh Luy Gonzaga, thánh Tôma Thiện, thánh tiến sĩ Têrêxa Hài đồng Giê-su.v.v… là những vị thánh trẻ nhất, tức là chết sớm nhất, nhưng gương anh hùng trong đức tin, thanh khiết trong cuộc sống, bác ái trong hành động của các ngài, đã lôi kéo biết bao nhiêu tâm hồn sống như các ngài.
     Thời giờ qua nhanh như ngựa chạy tên bay, chúng ta còn bao nhiêu thời gian nữa để làm nên anh hùng, lưu lại tiếng thơm cho đời ?
     Phải bắt đầu từ hôm nay! Alleluia !
     Tạ ơn Chúa! Alleluia.
Dịch xong ngày lễ Thánh Cả Giuse – 1998.
Tại Đại chủng viện thánh Toma Aquino Taiwan
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.


[1] Tên của một loài hoa.