Thứ Tư, 27 tháng 3, 2013

Viên ngọc trai


Tác giả : Frank Mihalic

 

VIÊN

NGỌC TRAI

 



Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

 

 
Lời Giới Thiệu

     Tập truyện “Viên Ngọc Trai” là một quyển sách gồm có nhiều tác giả do Frank Mihalac, svd. sưu tầm, mỗi tác giả chỉ viết một câu chuyện ngắn có tính giáo dục về đạo đức và nhân bản. Do đó rất tiện dụng cho các giáo lý viên, các tu sĩ và linh mục tham khảo để làm tài liệu cho bài giảng của mình thêm phong phú hương vị, để khi nghe bài giảng của mình thì ai nghe cũng muốn nghe nữa.
“Viên Ngọc Trai” được dịch từ tiếng Hoa với tựa đề cùng tên.
Sau mỗi câu chuyện thì có một suy tư nho nhỏ của người dịch, xin được chia sẻ với anh chị em.
 
Người dịch
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
 
 
--------------------------------------------------------
 
TẬP MỘT
 
CÁI TÔI
 

1.   TẤM GƯƠNG
John W. Rilling
Có một câu chuyện về người Do Thái thời cổ, nói về một vị Rabbi làm thế nào để dạy dỗ một anh bạn thanh niên thành người vừa khôn khéo lại vừa hiện thực. Thầy Rabbi mời anh bạn đến trong phòng đọc sách, dẫn anh ta đứng bên cửa sổ, sau đó hỏi anh ta: “Anh nhìn thấy gì ?” – Bên ngoài nhà là một cái sân, anh ta nói : “Tôi nhìn thấy bọn trẻ trong sân”.
Thầy Rabbi lấy từ trong túi ra một tấm gương nhỏ, đặt trước mặt anh thanh niên, rồi hỏi anh ta: “Bây giờ anh nhìn thấy gì ?” – “Thấy tôi”. Anh thanh niên không biết thầy Rabbi có dụng ý gì.
     “Điều này không phải là không có ý nghĩa sao ?” – Thầy Rabbi nói tiếp : “Giữa anh và người khác có rất nhiều lờp thủy ngân, anh sẽ nhìn thấy anh”.
Suy tư 1:
     Nếu mình nhìn vào trong gương thì dĩ nhiên là thấy mình. Đó là điều không ai có thể chối cải được, tấm gương càng to thì khuôn mặt mình càng lớn, nhìn thấy được mình trong gương là nhờ có lớp thủy ngân, không có nó thì y như là nhìn vào tấm ván ép mà thôi, vô ích.
     Người khác chính là tấm gương để mình soi mặt, cũng có nghĩa là: nhìn thấy cái hay, cái tốt của người khác mà bắt chước học hỏi; nhìn thấy cái không hay, cái dở của người để răn đe mình, để sửa mình. Bởi vì khi chúng ta nhìn thấy những cái xấu, cái chưa hay của người khác mà tự nhủ trong lòng rằng: tôi phải tránh những cái xấu ấy, tôi sẽ làm tốt hơn nếu ở cương vị của họ. Tuy nhiên, không thể tự mình làm tốt hơn được, nếu chúng ta không có ơn Chúa giúp, nếu chúng ta không tự mình cố gắng, nổ lực quyết tâm thì chẳng khác chi chúng ta nhìn người khác như nhìn…tấm ván ép vậy, cũng vô ích mà thôi.
2. TỰ MÌNH LÀM NGƯỜI CHÂN CHÍNH
Quote
Nếu anh trở thành một người khác thì anh sẽ như thế nào? Mở một xí nghiệp có thuận lợi lớn? Một minh tinh điện ảnh? Người đứng đầu các bộ trưởng hay kiện tướng vận động viên?
     Có một ký giả đã hỏi ông Xiao Bo-na một vấn đề trước khi ông sắp chết, vấn đề ấy là: “Nếu tôi là…”.
     “Ông Xiao”, ký giả nói: “Ông đã đi thăm qua nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới, cũng quen biết rất nhiều hoàng thất quý tộc, tác giả nổi tiếng, các giáo sư và các nghệ thuật gia. Nếu có thể sống lại thêm một lần nữa, biến thành một người nào đó mà ông quen biết, hoặc là trở thành người nào đó trong lịch sử, ông hy vọng biến thành vị nào?”
“Tôi sẽ chọn…” ông Xiao Bo-na trả lời: “Làm Xiao bo-na mà thôi, nhưng từ trước đến nay tôi không hề nghĩ rằng mình sẽ làm một người nào khác”.
Suy tư 2:
     Cái nghịch lý ở đời là như thế nầy: người giàu có tiền bạc xài như xé giấy, của nổi của chìm chẳng biết bao nhiêu mà kể, rồi lo lắng sợ mất trộm, sợ tù tội (vì tham nhũng), sợ con cháu nó xài hết, sợ…v.v… rồi mong ước được như người nghèo, ăn no ngủ kỹ, ngày hai bữa thảnh thơi, không sợ mất trộm, không sợ tù tội…v.v…Và ngược lại, người nghèo thì mong ước được như người giàu: sung sướng, có nhà to cửa lớn, có quyền có thế, có tiền…
     Mỗi một người Thiên Chúa đã chọn cho họ một con đường, một cuộc sống để họ sống xứng đáng là một con người, và hơn thế nữa, để họ hưởng hạnh phúc thiên đàng mai sau.
     Cái quan trọng là chúng ta có góp phần vào với sự an bài đó của Thiên Chúa hay không? Mong muốn ước gì mình được ở địa vị của ông tổng thống, mong muốn mình trở thành ca sĩ nổi tiếng được nhiều người mến mộ. Mong ước cũng là ước mơ, tự nó rất tốt và rất có ích, nhưng muốn trở thành một ca sĩ mà giọng nói không ra hơi, the thé như gà mắc… dây thun thì không thể được; mong ước trở thành tổng thống mà chữ “nhứt một” cũng không biết thì quả là chúng ta đã đi ra ngoài ý định của Thiên Chúa.
     Tác giả quyển “Đường Hy Vọng” đã nói lên điều ước của mình nếu được Thiên Chúa cho chọn lại thì Ngài vẫn cứ chọn điều mà Ngài đã chọn và đã đi: làm linh mục. Ngài đã nhìn thấy giá trị của đời linh mục, dù đời Ngài có quá nhiều đau khổ…
     Cứ  thảnh thơi trong thân phận của mình, vì mỗi một người có giá trị riêng biệt mà người khác không có được, tôi là tôi, anh là anh. Tôi có giá trị của tôi, anh có giá trị của anh. Bởi vì Thiên Chúa không thiên vị một ai, không yêu người này mà ghét bỏ người kia. Tự mình làm người chân chính trong chức phận của mình, đó là điều mà Thiên Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta. Làm Giám Mục, làm Linh mục hay làm bà xơ dì phước thì không có gì phân biệt cả. Có phân biệt chăng là chúng ta có nhiệt tình cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình cứu chuộc của Ngài mà chúng ta được gọi trong thân phận ấy hay không mà thôi?.
     Có người hỏi chị thánh Têrêxa nhỏ:
-    “Nếu có thể bắt đầu lại đời tu, chị sẽ ăn ở như thế nào?
-    “Em nghĩ rằng em sẽ ăn ở y như em ăn ở xưa nay”.

3. TÂM CHUYỂN THEO HOÀN CẢNH
Willi Hoffsuemmer
     Có một người đối với thế giới thứ ba tràn ngập sự phấn chấn và nhiệt tình, cho nên đi đến Ấn Độ. Nhưng lập tức cảm nhận được sự xung đột về văn hóa, mỗi một sự việc đều làm cho anh cảm thấy khó thích ứng. Chẳng hạn như khí hậu, ăn uống, hoàn cảnh sinh hoạt với những bộ mặt thần bí ngỡ ngàng bên cạnh, và rất nhiều chuyện vặt vãnh khác đều làm cho anh cảm thấy nổi giận và bất mãn.
     Có người phân phối cho anh một gian phòng, anh cũng dọn vào. Mỗi một góc xó, mỗi một khe hở anh đều kiểm tra qua, nhưng chỉ tìm thấy một con thạch sùng vừa to béo lại vừa xấu xí tệ. Anh chán ghét nghĩ rằng: “Ta mới không cần ở chung với loài động vật”. Cho nên anh tìm rất nhiều cách để bắt cho được con vật xâm nhập đó, nhưng đều không thể như ý muốn. Sau khi thấy con thạch sùng núp sau cái chạn, thì lúc này anh bổng nhiên được một linh cảm: “Sao ta không làm bạn với con thạch sùng nhỉ ?”.
     Lúc mới bắt đầu hoàn toàn không dể dàng, nhưng bây giờ việc thứ nhất khi anh bước vào gian phòng thì tìm ngay con thạch sùng của anh, lại còn đặt cho nó một cái tên. Thậm chí con thạch sùng trở thành đối tượng trò chuyện của anh. Hơn nữa anh lại còn chú ý đến một vài tập quán rất tốt của con thạch sùng. Chẳng hạn như nó làm cho ruồi muỗi trong phòng bớt đi.
Suy tư 3:
     Người biệt phái thường hay nhìn bên ngoài để đoán xét người ta, cho nên họ thường bị Chúa Giêsu lên án là những người giả hình. Họ nói mà không làm, cho nên họ trở thành người mù dắt người mù và cả hai cùng rơi xuống hố (Mt 6,39).
     Có nhiều người nói: tôi rất bức xúc trước những đau khổ của anh em… nhưng chưa một lần họ nhìn đến những đau khổ của anh em. Có người nói: tôi rất yêu mến những người nghèo khổ, bệnh tật…nhưng khi đi ngang qua những người ăn xin bên vệ đường thì bịt mũi lại, thậm chí chạy cho mau kẻo ngửi mùi hôi thối nơi họ.
     Chữ yêu được tượng trưng bằng cánh hoa hồng. Và người ta cũng dùng quả tim để làm ký hiệu cho chữ Yêu. Nhưng để tình yêu rực sáng thì chưa thấy ai cho nó ký hiệu gì cả.
     Thế nhưng tình yêu của Chúa Kitô không tượng trưng bằng cánh hoa hồng, mà là cây thập giá chơ vơ trên đồi Can-vê trơ trọi. Trên thập giá một con người đã chết vì Yêu để cho nhân loại được sống trong tình yêu của Ngài. Nơi thập giá chúng ta đón nhận tình yêu của sự sống trường sinh, bởi vì chính nó là công cụ của Thiên Chúa dùng để đem ơn cứu độ cho nhân loại.
     Sau khi qua năm tập thứ nhất, các chị em dòng Tiểu muội thánh Têrêxa nhỏ được bề trên trao cho cây thập giá và mang trên ngực, để nói lên tình yêu của Chúa Kitô đã dùng cây thập giá mà cứu độ thế giới, cũng là nói lên sự hy sinh suốt đời cho lý tưởng tận hiến của các chị.
     Không ai thích người khác dạy đời mình cả, chẳng ai muốn ở chung với người mà mình không thích, và cũng chẳng có ai yêu người làm hại mình cả…v.v… Vì vậy, cây thập giá đủ sức để làm cho chúng ta gần lại với nhau hơn, làm cho chúng ta nhìn thấy người bên cạnh dễ thương hơn, và chính cây thập giá đã hoà giải chúng ta với Thiên Chúa, thì hôm nay, chính nó đã hoà giải chúng ta với người ghen ghét mình, không thích mình, kẻ thù của mình.
      Mang cây thập giá trên ngực thì ai cũng thấy đó là điều tốt, nhưng hãy có một thập giá trong tim, dù không ai thấy, nhưng Thiên Chúa thấy, và mọi người sẽ thấy nếu chúng ta thực hành chữ Yêu và hy sinh trong cuộc sống của chúng ta.
4. BẢNG CHỈ ĐƯỜNG
Lovasik
     Một linh mục dẫn một thiếu niên có tính hay phản kháng cách bộc trực đi coi thi đấu bóng tròn, trên đường đi nó vừa đi vừa nói với vị linh mục: “Con rất không thích nghe lệnh bất cứ việc gì, con rất ghét làm việc, tức là loại việc cần phải làm mà không làm thì không được, cũng rất ghét người khác chỉ huy con phải làm như thế nầy, như thế nọ. Bởi vì nói như thế, con không có tự do”.
     Vị linh mục nghe xong, không nói một lời nào, một lát sau, họ đi đến bên một tấm bảng chỉ đường, tấm bảng chỉ hướng đi tới sân bóng đá, nhưng vị linh mục vẫn cứ mặc kệ tấm bảng chỉ đường, chỉ chú ý đến đường mình đi. Cậu bé phát hiện không đúng, bèn lớn tiếng la lên: “Chúng ta đi sai đường rồi, thưa cha! Cha làm thế nào mà không nhìn thấy tấm bảng chỉ đường chứ?”
     Vị linh mục khí định thần nhãn nói: “Cha nhìn thấy bảng chỉ đường rồi, nhưng cha cho rằng tốt nhất là đi theo đường của mình. Hơn nữa cha rất ghét đi theo đường mà người khác chỉ huy cha, cho nên cha mới không cần đến tấm bảng chỉ đường cũ rích ấy chứ, nó hoàn toàn không để cho cha tự do hành động”.
     Cậu bé nghe xong liền hiểu rõ ràng, sau đó thành thực cảm phục quay về hướng chính xác, đi về phía cầu trường coi thi đấu bóng đá.
Suy tư 4:
     Đường sá trong thành phố nếu không có bảng chỉ đường thì chẳng biết lối nào mà đi, nếu không có đèn xanh đèn đỏ thì sẽ xảy ra không biết bao nhiêu là tai nạn. Mỗi bảng chỉ đường hay đèn xanh đèn đỏ là đại biểu cho anh cảnh sát giao thông, hay nói cách khác, oai hơn, nó đại biểu cho bộ giao thông, cho chính phủ.
     Bảng chỉ đường của các dòng tu là luật dòng và tinh thần của đấng sáng lập, không có luật dòng, không có tinh thần của đấng sáng lập thì cộng đoàn ấy sẽ loạn, mạnh ai nấy sống. Bảng chỉ đường của Giáo hội chính là Thánh kinh (bao gồm cả 10 giới luật) và luật Giáo hội. Không có lời Chúa hướng dẫn, thì Giáo hội của Chúa cũng giống như các tập đoàn khác: kiêu căng, tranh giành chức quyền, sống cho mình…v.v…chẳng mấy chốc sẽ sụp đổ.
     Mỗi một giám mục đều chọn cho mình một câu châm ngôn sống, hay nói cách khác, một câu mà diễn tả được lý tưởng phục vụ của mình, và suốt đời dù sống dù chết cũng quyết tâm thực hiện câu châm ngôn ấy.
     Chúng ta ai cũng có một bảng chỉ đường trong cuộc hành trình ở thế gian, ai cũng có một câu châm ngôn sống cho mình, nhưng cũng có lúc chúng ta quên nó mất tiêu,vì cuộc sống quá nhiều áp lực.
Có người chọn cho mình một câu Kinh thánh để làm châm ngôn, có người chọn cho mình một câu của một triết gia nào đó để làm câu châm ngôn sống….v.v…Nhưng có một loại bảng chỉ đường nó không nằm trong sách vỡ, cũng chẳng nằm trên giấy trắng mực đen, đó chính là người anh em của chúng ta, là bạn bè của chúng ta, là bề trên, là cha mẹ của chúng ta. Họ là những công cụ mà Chúa gởi đến để chỉ cho chúng ta những khuyết điểm của mình, để mình đi đúng hướng hơn. Họ là những người rất nhạy bén với đời sống của những người tu trì, bởi vì, chính họ sáng suốt nhận được những khuyết điểm nơi người tu trì hơn cả những người tu trì.
5. YÊU THÌ SỐNG, GHÉT THÌ CHẾT
William Bausch
     Một cậu bé gần như điên cuồng chạy vào phòng ba má nó, khóc lóc nói rằng con rùa nhỏ mà nó yêu quý đã giơ bốn cẳng lên trời mà chết rồi. Nó rất thương tâm, ba má nó đều chạy ra phía trước an ủi đứa con đang chảy nước mắt nước mũi, ôm chặt lấy nó, và để cho nó khóc to ỏm tỏi cả lên.
     Sau đó ba nó nói: “Chúng ta đem con rùa đặt vào trong một cái hộp nhỏ đựng kẹo, cử hành lễ an táng cho nó”. Lúc nầy đứa bé chú ý nghe ba nó đang nói những gì.
     Má nó cũng tiếp lời nói: “Sau đó, chúng ta viết cho nó một câu đối, con coi như thế có được không nào?” Lúc nầy đứa bé bắt đầu cười.
     Ba nó còn tiếp tục nói: “Đúng vậy, chúng ta còn mua bong bóng, mua thật nhiều đồ tốt”. Đứa bé cười toe toét miệng không ngậm lại được.
     Nhưng bỗng nhiên cả ba người đều sửng người ra, bởi vì con rùa nhỏ đã lật thân qua lại được. Đứa bé nhìn thấy thì rất kích động, lớn tiếng la lên: “A! Ba…ba, giết nó đi!”
Suy tư 5:
     Có những bố mẹ chiều chuộng con quá mức không chịu được, đứa con muốn cái gì đều được cái đó, thậm chí nó muốn làm…bố mẹ của bố mẹ nó cũng được.
     Ca dao tục ngữ của người Việt chúng ta có câu: “Yêu con thì cho roi cho vọt, ghét con thì cho ngọt cho ngào”. Ngồi suy tư ngẫm nghĩ mà thấy nó hay tuyệt cú mèo cái phương pháp giáo dục con cái của cha ông chúng ta. Yêu và ghét tự nó đã tương phản nhau, mà cách dạy cũng là đối chọi nhau quá chừng: yêu thì đánh, ghét thì nói ngon ngọt. Đúng là cha ông ta có cách nhìn thực tế và chứa chan tình cảm.
     Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, nhưng Ngài không “đánh” chúng ta, mà đau hơn, cao thượng và tràn đầy tình yêu hơn, đó chính là “đánh” Con của mình-Đức Giêsu Kitô- không những đánh, mà Ngài còn muốn Con duy nhất của mình phải chết để bày tỏ tình yêu của Ngài cho nhân loại tội lỗi.
     Trong một công đoàn tình yêu được thể hiện ra nơi hành động phục vụ anh em, chị em của mình. Cũng có nghĩa là cá nhân mình phải chết đi, để tài năng và đức hạnh của người anh em, chị em được phát triển. Yêu thương cũng có nghĩa là vui vẻ nhận lời cám ơn mọi người mà không khách sáo, không kênh kiệu, bởi vì tình yêu được phản hồi ánh sáng và lại chiếu tỏa ra nhiều hành động yêu thương hơn, đẹp hơn và cao thượng hơn.
     Yêu thương không có nghĩa là cứ chiều theo ý muốn của người mình yêu, bởi vì như thế là mình hại người anh em chị em của mình, nhưng sự cự tuyệt đúng lúc, góp ý đúng nơi thì đem lại rất nhiều hiệu quả to lớn cho người anh em, chị em của mình.
6. ĐỀU CÓ NỂ NANG VÀ CỐ CHẤP
Nashua Cavalier
     Thói quen của chúng ta người bên cạnh nhìn -có lẽ- đôi khi không thuận mắt cho lắm, nhưng chúng ta vẫn cho đó là đạo lý muôn thuở của mình.
Trên một chuyến xe buýt đi tham quan, có một ông lão hút dọc tẩu hướng về người đối diện mà nuốt mây nhả khói, mà người nầy thì đang nhai thuốc lá, và nhổ bả thuốc lá ra bên ngoài cửa sổ.
     Lão hút dọc tẩu nhìn thấy, chịu không nổi bèn phê bình người ấy: “Nhai thuốc lá là một thói quen rất là không hợp vệ sinh”. Đối phương nghe được thì nói cách hửng hờ: “Đúng rồi, nhưng tuyệt đối nó không dẫn đến nạn cháy rừng”.

Suy tư 6:
     Tôi quen một anh bạn có cái tật hay chửi thề, chửi vô tội vạ theo thói quen, hay cũng chửi, dở cũng chửi, có lúc làm cho người khác khó chịu và đánh giá không tốt về anh ta, nhưng thật ra, anh bạn tôi là một người tốt.
     Có thói quen tốt và thói quen không tốt. Hay giúp đỡ người khác là thói quen tốt, luôn nói xấu người khác là một tập quán xấu. Ai cũng thích thói quen tốt, và ngược lại chẳng ai thích người hay nói xấu kẻ khác.
     Trong một lớp tu đức của một nhà dòng nọ, giáo sư là một linh mục già, đạo đức và nhiệt tình. Khi cho các tu sĩ làm trắc nghiệm về linh đạo tu đức, với đề tài: Trước khi lên giường ngủ, thì các anh (chị) làm gì? Đa số câu trả lời là đọc kinh tối (PVCGK)  và xét mình, rồi đi ngủ. Có một tu sĩ đã trả lời như sau: đọc kinh tối xong thì đọc thêm ba kinh Kính Mừng kính Đức Mẹ rồi đi ngủ. Vị linh mục giáo sư ấy đã phê bình bài tập đó trước mặt lớp học như sau: “Đã đọc kinh tối thì không cần đọc gì nữa cả, đủ rồi, tôi không hiểu cái anh nầy có hiểu tu đức là gì không ?”
     Đọc kinh tối là đủ rồi, không ai chối cãi, nhưng kinh tối cũng có phần kính Đức Mẹ mà Giáo hội khuyến khích các tu sĩ nam nữ, linh mục đọc sau khi kinh tối xong. Đọc ba kinh Kính Mừng là một thói quen từ nhỏ của vị tu sĩ ấy, dù đọc kinh tối xong mà chưa đi ngủ, hay còn bận học hành, đọc sách.v.v…thêm vài giờ nữa, thì trước khi ngủ, vị tu sĩ kia cũng đọc ba kinh Kính Mừng rồi mới đi ngủ. Đây là một thói quen tốt, đáng khích lệ, và cũng rất đáng cổ võ.
     Có người có thói quen thích soi gương,
     Có người có thói quen hay chỉ trích người khác,
     Có người có thói quen thích giận dỗi,
     Có người có thói quen hay ganh tị,
Tất cả những thói quen đó đều là của người đời,
     Nhưng thói quen của các linh mục, tu sĩ
là cầu nguyện,
là hy sinh,
là yêu thương,
là tha thứ và luôn vui vẻ.
7. TIÊU CHUẨN
Success Ideas
     Trong một thị trấn nhỏ, có một người sáng nào cũng “canh me” đồng hồ nơi cửa sổ của một tiệm đồng hồ.
     Có một ngày, ông chủ của cái tiệm đồng hồ đi ra khỏi cửa tiệm, hỏi người ấy: “Tại sao sáng nào anh cũng đứng nơi đây để canh đồng hồ vậy?”
     Người ấy trả lời: “Tôi làm việc nơi công xưởng lớn ở dưới phố nầy, phụ trách bơm dầu mỗi buổi trưa, cho nên sáng nào tôi cũng ở chổ ông đây để đối chiếu thời giờ, như thế tôi mới biết được thời gian chính xác”.
     Ông chủ nói: “Chuyện nầy thật là tức cười, bởi vì đồng hồ của tôi đều chỉnh giờ theo anh, khi mỗi buổi trưa anh bơm dầu”.
Suy tư 7:
     Các bạn trẻ thường có thần tượng riêng cho mình. Người thích ca nhạc thì có thần tượng ca nhạc; người thích đấm đá thì có thần tượng đấm đá; người thích tài tử xi-nê thì có thần tượng xi-nê.v.v... và khi những người nầy biểu diễn thì cung cách điệu bộ của họ cũng cố gắng bắt chước cho giống thần tượng của mình, họ cho đó là tiêu chuẩn của tài năng.
     Có người chết vì thần tượng, có người thất tình vì thần tượng của mình bỗng nhiên tuyên bố đi…lấy vợ.
     Trên chương trình truyền hình giải trí (Đài Loan), có tiết mục thi đua “mô phỏng” tức là những người tham dự cuộc chơi phải mô phỏng cho giống y chang thần tượng ca nhạc của mình. Quả thật tiết mục được giới trẻ hâm mộ, vì người mô phỏng giống như đúc thần tượng của mình, đáng khâm phục.
     Nhưng đáng khâm phục nhất chính là các thánh nam nữ, các ngài đã mô phỏng cuộc đời của Chúa Giêsu-nói cuộc đời thì to tát quá, e các ngài không bằng lòng- các ngài đã bắt chước một vài nhân đức của Chúa Giêsu như sống khó nghèo, khiêm tốn, vâng phục.v.v… bởi vì Đức Kitô chính là tiêu chuẩn của các ngài, là mẫu mực để cho các Ngài noi theo và hưởng phúc trường sinh trên trời.
Thần tượng tuyệt hảo nhất của chúng ta chính là Đức Kitô-truyền-giáo : chỉ có ba năm vỏn vẹn, mà vững bền đến hai ngàn năm sau và mãi mãi cho đến tận thế. Tiêu chuẩn của Đức Kitô-truyền-giáo là: Hy sinh, yêu thương và phục vụ trong vui vẻ.
     Con người thời nay cũng chỉ muốn thế thôi nơi các nhà truyền giáo, những linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân.
8. CÁI TÔI CHỦ NGHĨA
C. S. Lewis
     Có một lần, cư dân của thành phố bi thảm trong hoả ngục, được một cơ hội lên tham quan thiên đàng, họ ngồi đầy cả một chiếc xe buýt, đi đến cổng thiên đàng.
     Cư dân thiên đàng rất là thuần nhiên chân thật, sáng sủa phấn khởi, lại còn phát quang phát nhiệt, cho nên làm cho khách tham quan từ địa ngục tới càng thêm hiện rõ bóng dáng mềm yếu không thực của mình. Trong số khách từ địa ngục tới có một tên quỷ hồn, nó có màu trắng nhợt rất đặc biệt, nó gặp một cư dân thiên đàng là người quen biết cũ từ trước lúc còn ở trên thế gian, quỷ trắng nhợt là ông chủ của cư dân thiên đàng ấy, vả lại người đó bây giờ đang hưởng phúc thiên đàng mà trước đây đã có lần giết người, ngồi tù.
     Do đó tên quỷ trắng nhợt nầy lấy làm kinh ngạc, và cũng rất không phục, nó bắt đầu tỏ ra bất mãn: “Anh coi, suốt đời tôi đi thì chính, ngồi thì trực. Mặc dù tôi không dám nói mình là một người có tín ngưỡng, cũng không dám nói tôi không có phạm tội, nhưng trong suốt cuộc đời của tôi, vẫn làm việc tốt hết sức có thể được, ăn ở với người khác khá tốt. Tôi xác thực là tôi rất ít phạm sai lầm, hơn nữa từ trước đến nay tôi không yêu cầu công việc chưa được phân công, không nghĩ sẽ làm những việc không được sắp xếp. Nếu tôi uống một ly nước lạnh, tôi cũng trả tiền; nếu tôi lãnh một tháng lương, tôi cũng phải làm tốt công việc rồi mới nhận. Từ trước đến nay tôi không làm bất cứ yêu cầu nào, thậm chí cũng không cầu xin lòng từ bi của một cá nhân nào”.
     Cư dân thiên đàng nói: “Vậy thì, hôm nay anh bắt đầu cầu xin đi, cầu xin lòng từ bi ấy mà!
Suy tư 8:
     Thế giới hôm nay mọi cái hình như có thể nắm trong tay, nhìn được trước mắt, vì những phát minh vĩ đại, và mọi phát minh ấy đều có mục đích là phục vụ con người.
     Cá nhân chủ nghĩa phá hoại tinh thần phục vụ và yêu thương của cộng đoàn, bởi vì chính “cá nhân chủ nghĩa” đã làm cho phẩm thần Lucifer trở thành ma quỷ và muôn đời thù nghịch với Thiên Chúa; bởi vì “cá nhân chủ nghĩa” mà ông bà nguyên tổ chúng ta phạm tội, và con cháu mang lấy hậu quả nầy. Cộng đoàn là nơi để nhân cách cá nhân phát triển hoàn hảo và được bồi dưỡng chính đáng, nhưng cộng đoàn cũng là nơi cá nhân chủ nghĩa cần phải triệt để vắng mặt, vắng mặt vô thời hạn, bởi vì cá nhân chủ nghĩa là sản phẩm của kiêu ngạo, của tự ái và là đập chắn nguồn ân sủng của Thiên Chúa xuống trên chúng ta. Do đó, mỗi thành viên trong cộng đoàn cần phải thấm nhuần tinh thần và đời sống tu đức của cộng đoàn, nơi đây, cá nhân chủ nghĩa không có chổ đứng, mà chỉ có: “vì anh em mà hiến tế chính mình” (1 Cor 11,24).
     Cá nhân chủ nghĩa thường đi đôi với cá nhân anh hùng, người có cá nhân chủ nghĩa thường bị kích động bởi đám đông quần chúng, và vì thế mà phát sinh ra anh hùng cá nhân, ưa làm những gì mình cho là đúng mà không cần sự dạy bảo, góp ý của bề trên, của người khôn ngoan và thiện chí. Tại hại do cá nhân chủ nghĩa mang lại chính là ở đó, bất chấp quy định của dòng tu, bất chấp nề nếp gia phong của cộng đoàn, để rồi do cá nhân chủ nghĩa thúc đẩy và anh hùng cá nhân kích động, họ đã “vượt rào” trong nỗi cô đơn và ân hận.
9. ĐIỀU KHIỂN CÁI TÔI
Bruno Hagspiel
Sức mạnh của tự nhiên mặc dù rất mạnh mẽ, nhưng cần phải thông qua sự điều khiển, mới có thể sinh ra động lực hữu hiệu, chúng ta điều khiển lửa để nấu nướng thức ăn, chúng ta điều khiển điện để chiếu sáng và làm những việc trong nhà, dùng đập ngăn nước để có thể lợi dụng sức gió.
     Sự trưởng thành và học tập của cá nhân chúng ta, cũng là từ sự điều khiền bản tính chưa thuần của mình, ví dụ như tự cao tự đại, tự phụ.v.v…Những việc nhỏ khác trong sinh hoạt, chẳng hạn như đi bộ, trò chuyện, viết chữ, ăn cơm, lái xe, chơi đùa và vận động, cũng không phải là không cần khống chế. Một cá nhân không có khả năng điều khiển bản tính của họ, thì sẽ không thành công.
Suy tư 9:
     Bản năng của chúng ta giống như con ngựa bất kham, cần phải chế ngự nó, biết bao nhiêu tội phạm ghê gớm đã xảy ra trong cuộc sống, biết bao nhiêu vụ giết người, gây thương tích, trộm cắp xảy ra trong xã hội, tất cả cũng là vì họ chưa chế ngự được “bản năng động vật” trong con người của mình.
     Con người là động vật có trí khôn, không có trí khôn thì như một con vật không hơn không kém.
     Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người và ban cho họ có trí khôn, để họ cai quản, chế ngự và làm chủ vũ trụ. Con người đã chế ngự được thiên nhiên, đã bay lên các tinh tú xa vời vợi trong không gian, đã xuống tận vực sâu đáy biển để thăm dò thám hiểm, nhưng độ sâu của tâm hồn và bản năng của con người, thì khoa học chưa thực nghiệm rốt ráo.
     Người ta dùng dây cương để chế ngự và điều khiển con ngựa; người ta cũng dùng những phát minh khoa học tiên tiến để chế ngự thiên nhiên, nhưng để chế nhự bản tính của mình thì con người không thể dùng dây cương hay phát minh khoa học, mà phải dùng sự cầu nguyện và sự cố gắng liên tục để chế ngự bản năng của mình. Các thánh tử đạo là những người đã chế ngự bản năng của mình cách anh dũng: giữa sự sống tạm bợ và sự sống đời đời, giữa vinh hoa phú quý phù vân và gia tài bất diệt, giữa tình cảm con người và tình yêu Thiên Chúa, các ngài đã cầu nguyện, đã cố gắng liên tục để chọn cho mình phần nhất mà không ai có thể cướp mất được (Lc 10,42). Các ngài đã chế ngự được bản năng ham sống sợ chết của mình, đã chế ngự được bản năng hưởng thụ của mình để trở thành bạn thân của Thiên Chúa.
     Trong cộng đoàn hay trong một tập thể, chế ngự mình cần phải được phát huy và đề cao, bởi vì khi chúng ta chế ngự được bản tính của mình, thì người anh em, chị em “dễ thở” hơn một chút, nụ cười tươi tắn hơn một chút, và như thế, tình yêu của Thiên Chúa mới có thể phát triển nơi mỗi một thành viên của cộng đoàn mình.
     Chế ngự bản năng của mình là hành vi Bác ái và Yêu thương của người môn đệ Chúa Kitô.
10. VIÊN NGỌC TRAI
Willi Hoffsuemmer
     Một buổi sáng sớm, một hạt sương rất lớn từ trên lá cây lăn xuống, rơi vào trong biển cả. Sóng biển mang nó cuồn cuộn chập chùng, nó muốn thoát khỏi biển cả, nhưng uổng công vô ích, nó sợ hãi không biết lúc nào mình sẽ bị tan vỡ.
     Đúng lúc ấy, nó nghe một âm thanh gọi mình: “Nhanh lên, vào trong nhà của tôi, ở đây rất an toàn”.
     Nó không cần biết tiếng cứu viện ấy ở đâu, đồng thời trước khi nó hiểu ra được chuyện gì, thì cửa của con trai đã cấp bách đóng lại. Trước tiên hạt sương còn được ngơi nghỉ và thở ra một hơi nhẹ nhàng, nhưng về sau nó bắt đầu từ từ hiểu rõ, nó ở trong căn nhà mới, mặc dù rất an toàn, nhưng vĩnh viễn không được tự do, nó cũng không có thể phản ảnh lại bảy sắc cầu vòng của ánh mặt trời.
     Hạt sương đem phiền não của mình giao cho nữ chủ nhân tốt lành của căn nhà, con trai nhiều tuổi ấy nói với nó: “Nếu cô cố chấp, ngoan cố chống trả với vận mệnh, rốt cuộc cô chỉ phát hiện ra việc mình bị khổ là tuyệt vọng và không được giúp đỡ. Nhưng nếu côn nhẫn nại đón nhận tất cả vận mệnh, thì cô có thể trải qua những ngày thảnh thơi thoải mái”. Sau đó nó còn bí ẩn nói thêm một câu: “Hơn nữa cô sẽ biết bắt đầu từ nơi bản thân cô, từ từ biến thành rất cường tráng, có một ngày, cô sẽ được quý trọng gấp ngàn lần so với lúc từ trên lá cây rơi xuống”.
     Hạt sương nghe xong thì buồn buồn không vui, mặc dù nó không hiểu tất cả lời nói của con trai, nhưng cuối cùng nó vẫn quyết định nghe lời khuyến cáo ấy, nó an tịnh trú ở trong đó, không phàn nàn mà cũng không nóng lòng sốt ruột, để cho mình hoàn toàn yên ổn, giống như từ nhỏ đến giờ nó ở trong nhà của con trai này vậy.
     Dần dần, nó hơi cảm thấy trong mình có chút thay đổi cho nó sức mạnh. Về điểm nầy nó rất là phấn khởi, trong lòng nghĩ rằng: “Hôm qua là ngày hạnh phúc đã qua đi rồi, hôm nay không biết có tiếp tục dài lâu không, và ngày mai sẽ xảy ra chuyện gì, nào có ai biết được chứ?”
     Có một ngày, con trai mở cái vỏ của nó ra, hạt sương nhìn thấy ở trong biển có rất nhiều bụi bông bay, thực ra đó không phải là bụi bông, mà là những bàn tay của những cô gái mò ngọc trai, người mò ngọc trai đang mò ngọc trai ở trong con trai.
     Người mò ngọc trai đem con trai tập trung ở trên bãi cát, thận trọng từng tí mở vỏ con trai. Có một cô gái đột nhiên nhảy lên phấn khởi nói: “A ! Các chị coi, tôi đã nhặt được hạt ngọc trai đây nè, thật là quá đẹp ! Hình dáng nó giống như một hạt sương, lại còn có thể phát ra bảy sắc cầu vồng lấp lánh, giá trị của nó nhất định sẽ rất cao”.
     Các cô gái mò ngọc trai đều đến coi viên ngọc quý trên tay cô gái, giống như hạt sương nằm trên ngọn lá vậy.
     Viên ngọc trai nầy giống như nhiều hạt sương xung quanh nó từ trước, đã trải qua thời gian làm hạt sương rất ngắn ngủi, nhưng trải qua một khoảng ẩn kín hàm dưỡng, nó đã thoát thai thay cốt.
Suy tư 10:
     Trong thinh lặng người ta mới có thể nghe được tiếng đập của con tim; trong thinh lặng hai người yêu nhau nghe được tiếng lòng của nhau, và trong thinh lặng mình thấy được mình rõ hơn.
     Hạt sương sẽ không tồn tại nếu nó cố chấp và chống trả vận mệnh, nó cũng chẳng trở nên hạt ngọc quý giá nếu nó không chấp nhận trú ngụ trong con trai.
     Có những người coi cộng đoàn như là nhà tù của mình: họ đi sai đường và sống nô lệ thoả mãn cho nhu cầu.
     Có những người lợi dụng cộng đoàn để đạt mục đích cá nhân: họ đã biến cộng đoàn thành công cụ mưu cầu ích lợi riêng cho cá nhân, họ sống trong lo âu, khắc khoải.
     Có những người coi cộng đoàn như là nhà của mình, dù cộng đoàn có nhiều cái chưa tốt hoặc có những thành viên chưa sống cho lý tưởng: họ sẽ trở thành những viên ngọc trai.
     Suốt năm tháng dài hạt sương đã ở trong lòng con trai, không thấy mặt trời chói lọi, không thấy hoa lá khoe sắc, không thấy gió thổi mây bay.…Nhưng nó đã được thay da đổi cốt trở thành viên ngọc vô giá, ai nhìn cũng thích, ai thấy cũng mê. Cộng đoàn là “con trai” để làm cho chúng ta thay da đổi cốt, phải trải qua bao khổ đau, bao hy sinh mới lột đi được con người cũ của mình, nơi cộng đoàn chúng ta múc lấy nguồn ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta được ơn Chúa bồi đắp để trở thành viên ngọc quý giá cho đời, cho Giáo hội và cho chúng ta.
     Thinh lặng cũng là “vỏ con trai” để chúng ta thay da thoát cốt, trong thinh lặng chúng ta nghe được tiếng của Thiên Chúa thì thầm bên trong tâm hồn của chúng ta.
     Thinh lặng-> lắng nghe -> suy tư -> xét mình -> quyết tâm -> thực hành = viên ngọc quý.
 
----------------------------------------
TẬP HAI
 
TRÍ TUỆ
 
11. KHA-LUÂN-BỐ VÀ CHÍNH PHỦ
Arthur Tonne
     “Ông ta đã thông minh lại còn cơ trí”, một người đồng hội đồng thuyền với Kha-Luân-Bố, đã ca ngợi họ là những người sáng lập phi thường: “Thật chúng ta có thể gọi Kha-Luân-Bố là người dẫn đường chỉ lối cho rất nhiều chính phủ hiện tại, lúc ông ta xuất phát, không biết mình sẽ đến đâu; và sau khi ông ta đến địa phương ấy, cũng không biết mình đang ở đâu. Hơn nữa tất cả sự nghiệp của ông ta đều là do tiền vay mượn mà làm nên”.

Suy tư 11:
     Trước khi có ông Kha-Luân-Bố thì đã có chính phủ, cũng như trước khi chưa có con cái thì đã có bố mẹ. Bố mẹ cho chúng ta hình hài, nuôi chúng ta khôn lớn, cho chúng ta học hành. Vậy thì bố mẹ chính là mẫu mực của chúng ta mới phải.
     Cộng đoàn cũng là bố mẹ của chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta được trưởng thành, được tiến thân và được trở nên một con người mới trong Chúa Kitô. Như một em bé qua từng giai đoạn: biết bò, biết đứng, biết đi, biết chạy.…
Cũng vậy, trong cộng đoàn các tu sĩ phải qua giai đoạn: ứng sinh, thỉnh sinh, nhà tập, các lần khấn tạm và khấn trọn đời, mỗi giai đoạn đều có thử thách, hy sinh và trưởng thành, quan trọng nhất chính là các thành viên biết đón nhận ơn thánh mà Thiên Chúa ban cho qua từng giai đoạn trong đời sống tu trì. Đến lúc trưởng thành, nói nôm na bình dân là “đủ lông đủ cánh” thì được sai đi đến cánh đồng truyền giáo, với vốn liếng căn bản đã được hấp thụ trong cộng đoàn, người tu sĩ cũng biết kết hợp với hoàn cảnh của địa phương mà “biên chế” thành đời sống hiến thân truyền giáo của mình cho phù hợp với thực tại.
     Như vậy, không phải bố mẹ học nơi con cái, mà chính con cái phải muôn đời ghi ơn bố mẹ vì nhừng thành quả mà mình đã gặt được, cũng là nói, cộng đoàn chính là nơi mà các thành viên yên tâm trao phó cuộc sống của mình, nếu mỗi thành viên thât sự yêu mến cộng đoàn.
12. BIẾT TRƯỚC THỜI CƠ
Christopher News Service
Thời kỳ chiến tranh Hàn quốc, một quân nhân Mỹ bị bắt làm tù binh, và năm mươi người khác bị nhốt ở trong một nhà tù.
Có một ngày, trong cuộc tập họp tẩy não, một nhân viên chỉ đạo cộng sản đã công khai chỉ trích người Mỹ là một dân tộc tàn nhẫn, hành vi tàn bạo mới nhất của người Mỹ là chiến tranh vi khuẩn. Ông ta lấy ra một con côn trùng nhỏ, nói với mọi người: “Con vi khuẩn nầy rất là đáng sợ, có thể làm cho người ta đi đến tử vong, nó từ trên máy bay của Mỹ ném xuống, nhưng đây chỉ là một con trong trăm vạn con khác!”
Sau khi nói xong, ông ta đem con côn trùng nhỏ bỏ trên một tấm giấy, chuẩn bị đưa cho mọi người xem. Phạm nhân người Mỹ ấy đang đứng hàng trước, nhặt con côn trùng lên, xem xét tỉ mỉ một hồi, sau đó trước sự kinh ngạc của mọi người, đột nhiên anh ta bỏ con côn trùng vào trong miệng, nuốt xuống. Mọi người đều căng thẳng coi có chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng chẳng có động tịnh gì xảy ra cả.
Những lần hội họp và học tập về sau cũng chẳng còn nói đến vi khuẩn nữa.
Suy tư 12:
Đúng là nói láo không có sách, vi khuẩn làm gì mà thấy được nếu không có kính hiển vi? Lại còn cầm lên đưa cho người khác coi, mà có người đứng xa hàng chục mét, đúng là lếu láo !
Cũng như các người biệt phái trong thời Chúa Giêsu, họ mang áo thụng có tua dài, họ thích được mọi người ca tụng, chào hỏi ở những nơi công cộng, họ giảng dạy nhiều lời (Mc 12, 38-40), nhưng chẳng có mấy ai tin vào họ, vì họ nói mà không làm. Con người thời nay nghe quá nhiều lời hứa hẹn mà không được đáp ứng, thấy quá nhiều điều bất công mà lòng sục sôi, nhưng họ thấp cổ bé miệng.
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn loài” (Mt 20, 28). Và cuộc đời của Ngài đã chứng minh cho lời Ngài nói, Ngài đã yêu thương và phục vụ cho đến chết, và chết trên thập giá (Pl 12,8). Các môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay cũng như thế, không phải ai cũng thích chúng ta giảng dạy cả đâu, mà họ mong muốn chúng ta thực hành điều chúng ta nói, bởi vì không một giáo dân nào sẵn lòng giúp đỡ người khác, nếu ông cha sở của mình sống phè phởn hưởng thụ, cũng như chẳng một ai cảm phục một nữ tu khi họ “nhe nanh vuốt móng” lớn tiếng đôi co với người khác…
Giáo dân thời nay rất nhạy cảm trước vấn đề của Giáo hội, cũng như của xã hội, bởi vì chính họ là những người đã “lăn lộn chiến đấu vinh nhục” ngay trong môi trường mà họ đang sống. Họ cần chúng ta nở nụ cười tươi với họ hơn là cần chúng ta khuyến khích họ mỉm cười, họ muốn chúng ta cùng chia sẻ với họ cái bánh “mãn thẩu”  đượm tình anh em, hơn là muốn chúng ta mời họ đi ăn nhà hàng sang trọng, thịnh soạn.
Trong cuộc đời truyền giáo của Chúa Giêsu, chưa bao giờ Ngài mời đám đông dân chúng một bữa thịnh soạn ở nhà hàng máy lạnh, nhưng với năm cái bánh và hai con cá của một em bé, Ngài đã chia sẻ với họ những vui buồn lao khổ của kiếp người, và chúc phúc cho họ, làm cho năm cái bánh và hai con cá ấy nhiều gấp trăm ngàn lần để mọi người no thỏa trong cuộc sống hằng ngày.
13. KIẾN GIẢI SAI LẦM
Christopher Notes
Có một nhà phát minh vĩ đại đã nói: “Máy hát chẳng có một chút gì là giá trị về thương nghiệp, máy thu thanh cũng chỉ là thời thượng nhất thời, không bao lâu nữa sẽ tiêu vong”. Người nói những lời nầy là Edison.
Năm 1946 có một người nổi tiếng nói: “Truyền hình sẽ không có thị trường. Tôi nghĩ, không tới nửa năm nữa, mỗi buổi tối mọi người sẽ rất chán ngán nhìn chằm chằm cái tráp vuông  cho mà coi”. Đây là câu nói của ông Chainake, giám đốc công ty Fusi của thế kỷ hai mươi.
Tổng thống Mỹ Theodore Roosevert  hình dung điện thoại như thế nầy: “Rất nhiều phát minh làm cho người ta ngạc nhiên, nhưng thử hỏi, có mấy ai có nhu cầu sử dụng nó chứ?”
Cuối cùng, vẫn còn có câu nói như thế nầy làm cho người ta khen ngợi hết lời: “Mỗi một thứ nên phát minh, đều đã phát minh ra cả rồi”. Vị thiên tài nầy là một vị cục trưởng cục phát minh quyền sáng chế của nước Mỹ, đã nói vào năm 1899.
Suy tư 13:
Khi làm công tác truyền giáo, nếu phương pháp chúng ta thành công, thì đừng kiêu ngạo, bởi vì những phương pháp mà chúng ta đã và đang thực hiện thì các nhà truyền giáo đi trước chúng ta đã làm, có điều là chưa hợp hoàn cảnh nên có lúc thất bại đó thôi.
Cũng như mọi phát minh của khoa học, từ thô sơ cho đến tiên tiến, tất cả đều đã được phát minh cả rồi, hay nói cách khác, Thiên Chúa đã “làm mẫu sẵn” và đặt để trong vũ trụ cả rồi, con người chỉ việc dùng trí óc của mình để khám phá ra mà thôi.
Khám phá mới nhất của chúng ta -những nhà truyền giáo của thế kỷ 21 là: phát hiện ra nơi mỗi con người đều có một ưu điểm tối ưu mà chưa có ai biết để sử dụng nó cho đúng mức, ưu điểm ấy chính là một lương tâm ngay lành, luôn mong muốn tìm điều thiện hảo. Chúng ta phát hiện ra nó dưới một khuôn mặt bừng nóng lên vì bức xúc trước bất công; chúng ta phát hiện ra được nó dưới cái vung tay bất mãn ông cha sở vì ngài quá hẹp hòi, khắc khe; chúng ta cũng phát hiện ra nó dưới ánh mắt khó chịu khi nhìn thấy các bà Sơ dì phước kênh kiệu, điệu đàng, xa cách quần chúng.v.v...Dưới những “phát minh phát hiện” ấy, chúng ta tìm hiểu, thí nghiệm nguyên nhân và “đưa vào sử dụng đại trà” cho cánh đồng truyền giáo, mà cụ thể là trong họ đạo chúng ta, trong môi trường mà chúng ta đang sống, làm việc, học hành.
14. NƯỚC HOA
Sunshi
Trong rất nhiều tình huống, chỉ mới gợi ý cho đối phương liền có thể làm cho họ tiếp nhận mà không một chút gì nghi hoặc. Anh có tin là có một loại sức mạnh hình như khó mà tin được ấy không?
Có một giáo sư hoá học đã làm qua một thực nghiệm, ông ta bày ra trước lớp học một cái chai thuỷ tinh, trên cái chai có dán nhãn hiệu “nứơc hoa cây quế trúc”. Ông ta nói với học sinh ai ngửi được một chút mùi nước hoa thì đưa tay lên, mười lăm giây sau, ông ta mở cái nút chai ra, mỗi một học sinh ngồi ở hàng trước đều lập tức đưa tay lên. Thời gian không tới một phút đồng hồ, toàn lớp có ớ học sinh đều nói là có ngửi được mùi nước hoa.
Thực ra ở trong chai chỉ đựng toàn là nước.
Suy tư 14:
Có một thứ bệnh rất hay lây qua người khác, đó là bệnh “bắt chước”.
Hay bắt chước người khác nhất có lẽ là các cô gái, thấy người ta ra “mốt gì” thì mình cũng theo mốt đó, mà không cần biết có hợp với mình không? Có những người mặt mày xem ra không đẹp cho lắm, nhưng vẫn cứ đánh phấn tô son, áo quần rất là “à la mode”, kiểu nầy dáng nọ rất là không hợp với mình, chứ đừng nói là hợp với nhãn giới của người khác; có những bạn thanh niên học theo “mốt đua xe”, thấy bạn bè lạng lách hết tốc lực, mình cũng bắt chước làm ra vẻ ta đây cũng sành đời, uống hết ly nầy qua chai nọ, rồi chẳng biết đường mà về nhà.…
Cái hay của người khác thì có rất nhiều, nhưng ít ai “bắt chước”, cái dở thì càng nhiều hơn và ai cũng học rất mau cái dở của người khác.
Chúa Giêsu đã nói: “…Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường…” (Mt 11, 29). Nhưng xem ra ít người thích học với Chúa Giêsu bài học vỡ lòng để nên thánh ấy, dù cho người ta không thích học với Chúa Giêsu, nhưng những người được gọi là môn đệ, là bạn thiết nghĩa với Chúa thì phải học mang lấy ách của Ngài, vì không học hai bài học căn bản: hiền hậu và khiêm nhường, thì không thể trở nên một người truyền giáo chân chính được.
Hiền hậu và khiêm nhường luôn được biểu hiện ra nơi khuôn mặt và hành vi của người truyền giáo, đó là hình ảnh sống động nhất của Chúa Cứu Thế, khi Ngài giảng dạy đạo lý Nước Trời cho dân chúng.
Con gái thì hay bắt chước người khác để làm đẹp cho mình, nhưng có khi không phù hợp với vóc dáng và “con mắt” của người khác. Nhưng các nữ tì của Thiên Chúa thì sẽ không sợ lỗi thời, sẽ không sợ không hợp với con mắt của người khác khi học sự hiền hậu và khiêm nhường của Chúa Giêsu, bắt chước như Chúa Giêsu, vị Thầy vĩ đại của mình thì có gì là mắc cỡ với thẹn thùng chứ ?
Hãy bắt chước Chúa Giêsu, như Đức Maria đã bắt chước: hiền hậu và khiêm nhường.
15. BIẾT, LÀM HỢP NHẤT
Tonne
Lãnh đạo giáo dục một quốc gia nọ quyết định tiến dẫn vận động viên bóng đá, cho nên ông ta mua một quyển sách nói về quy tắc cầu trường, nhờ mấy quyển sách nầy mà huấn luyện ra một tốp thầy giáo, sau đó thì do những thầy giáo nầy mà giảng dạy lại cho học sinh.
Học sinh đều nhớ tất cả các chương mục quy tắc, thầy giáo cũng lên lớp giảng giải, lại vẽ đồ hình trên bảng đen để phân tích, về sau lúc tổ chức thi viết thì các học sinh hình như đều như nhau: không đạt yêu cầu, mọi người đều ỉu xìu.
Lúc ấy có một người thanh niên từ Âu châu đến, nhìn thấy cách học tập uổng công vô ích nầy, thì kinh ngạc nói: “Trời ạ! Các anh không thể từ nơi quyển sách nầy mà học biết đá bóng, các anh nhất định phải học biết đá bóng từ trong cầu trường”.
Vì vậy mà anh ta mua một cái sân bóng đá, đem học sinh đến thao trường  lên lớp, không đầy một tiếng đồng hồ sau, học sinh học tới đông tới tây, so với sáu ngày học trong sách trước đây vẫn nhiều hơn.
Suy tư 15:
Học và hành luôn đi đôi với nhau, đó là chìa khoá cho sự thành công, có một số người trời phú cho sự thông minh học đâu thuộc đó, nhưng để sử dụng cái máy tính nhân chia số thập phân, thì chẳng biết bấm nút nào cho nó đúng! Cũng có người lái xe môtô, chạy xe hơi ào ào, đến khi xe không khởi động máy, thì chẳng biết đường nào mà rờ, đem tới thợ coi ra sao, té ra là đã khoá…xăng ! Anh ta chưa hiểu lý thuyết vận hành của xe cộ !
Có các giáo dân thuộc làu làu mười điều răn Đức Chúa Trời sáu điều luật Hội thánh, và khi dự thánh lễ, cha chưa giảng đã hiểu nội dung của bài Phúc âm. Nhưng trong cuộc sống đời thường thì sống y như là người chưa biết chút gì về Lời Chúa: chửi thề, phóng túng, rượu chè, cờ bạc.v.v…họ chưa thực hành Lời Chúa, và họ bị người ta cho là “đồ vô đạo”.
Không có môi trường nào học và thực hành đức ái tốt cho bằng trong cộng đoàn, bởi vì cộng đoàn là nơi để chúng ta: học tập yêu thương, thực hành yêu thương và nuôi dưỡng yêu thương.
1.   Học tập yêu thương:
Cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn dòng tu hay một cộng đoàn tu hội đời, là một gia đình “không liên hệ huyết thống” như gia đình của mỗi người, cho nên, khi gia nhập cộng đoàn là chúng ta tách mình khỏi tình cảm huyết nhục cha mẹ, anh em, chị em…để chúng ta sát nhập vào một gia đình mới, không phải cùng huyết thống, mà là liên hệ trong đức tin, con cái của Abraaham.
Ở trong cộng đoàn mới nầy, chúng ta phải học tập yêu thương những người mà trước đây mình không quen biết, thương yêu để nhẫn nhục vì tính kiêu ngạo, khó chịu của chị em, anh em; học tập yêu thương những khuôn mặt cay cú quạu vọ của người anh em, chị em…
Bởi vì không ai tin chúng ta khi chúng ta dạy người khác phải yêu thương, mà chính chúng ta chưa biết yêu thương người anh em, chị em trong cộng đoàn của mình.
2/ Thực hành yêu thương:
Linh mục Vincent Lebbe, người sáng lập bốn tu hội, cộng đoàn  đã nói: “Thật yêu người tức là luôn luôn làm cho người ta trước, sau đó đến mình, khiến cho người ta tự mình được an ủi thật sự và ích lợi thật sự” .
Để trở thành một Kitô hữu chân chính, thì không những phải học yêu thương mà còn là phải thực hành yêu thương. Học tức là suy tư, biện luận, phản bác có nghĩa là dùng lý trí để suy xét, nhưng học yêu thương thì không phản bác, không biện luận, không xét nét gì cả, mà chỉ có dùng trí khôn ngoan để tìm cách thi hành đức ái sao cho hoàn hảo nhất mà thôi.
Chúa Kitô chết trên thập giá vì yêu nhân loại tội lỗi, Ngài đã không phản bác, không biện luận, không xét nét, nhưng đã chọn cái chết khốc liệt nhất để yêu và cứu chuộc nhân loại. Cũng có nghĩa là Ngài đã làm cho nhân loại trước: được cứu chuộc; sau đó đến mình: hoàn tất công trình cứu chuộc bằng sự phục sinh vinh hiển. Ngài đã thực hành yêu thương.
Nơi lý tưởng nhất để thực hành yêu thương cũng chính là trong cộng đoàn của chúng ta.
3/ Nuôi dưỡng yêu thương:
Đi truyền giáo tức là đi đến nơi mà chúng ta chưa biết chưa quen. Ở với một dân tộc mà phải mất nhiều năm chúng ta mới thích nghi…với đời sống của họ. Tóm lại là vô cùng khó khăn, nhưng khó khăn và cảm thấy bị bỏ rơi nhất chính là khi chúng ta bị nỗi đơn dày vò, chính vì vậy mà có rất nhiều anh em, chị em đã ra đi không trở lại.
Cộng đoàn chính là nơi nuôi dưỡng yêu thương, để khi chúng ta ra đi gặt hái trên cánh đồng truyền giáo, gặp những khó khăn, đau khổ, chúng ta lại được bồi dưỡng tinh thần, giải toả những khó khăn, tìm lại được giây phút yêu thương đầm ấm ngay trong chính cộng đoàn của mình. Vì hiểu được điều ấy, mà có một số dòng tu có một nội quy rất…dễ thương: các thành viên sau ba năm phục vụ ở ngoài xã hội, thì trở về nhà dòng mẹ từ ba đến bốn tháng để nghỉ ngơi, bồi dưỡng tinh thần cũng như sức khoẻ…
Tổng thống Mỹ John F.kennedy nói: “Đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho anh, nhưng hãy hỏi tôi đã làm gì cho tổ quốc”. Nếu chúng ta chưa tìm được nơi cộng đoàn sự yêu thương, thì nên tự hỏi mình: tôi đã làm gì cho cộng đoàn của tôi để đức Ái được phát triển?
Học tập yêu thương và thực hành yêu thương, chính là dấu hiệu của người môn đệ Chúa Kitô trong thế kỷ 21 nầy vậy !
16. KHỔ TÂM HOÀI CÔNG
The Canteen
Có một giám đốc muốn tuyển một thư ký, ông ta bèn mời một nhà tâm lý học đến xét tuyển người xin việc. Có ba cô gái cùng tham gia nói chuyện trực tiếp .
-“Hai cộng hai là bao nhiêu ?”. Tâm lý gia hỏi cô gái thứ nhất.
-“Bốn”. Cô ta trả lời rất gọn gàng dứt khoát.
Vấn đề cũng như thế, cô gái thứ hai trả lời: “Có thể là hai mươi hai”.
Đáp án của cô gái thứ ba là: “Có thể là hai mươi hai, nhưng cũng có thể là bốn”.
Sau khi đợi cho ba cô gái đi khỏi, nhà tâm lý học dương dương đắc ý nói với giám đốc: “Đây là công năng của tâm lý học, cô gái thứ nhất nói là việc hiển nhiên, cô gái thứ hai cảm thấy khả nghi, cô gái thứ ba thì tổng hợp cả hai người. Bây giờ, ngài cần chọn cô nào ?”
Ông giám đốc trả lời mà không thắc mắc: “Tôi chọn cô gái mắt xanh tóc vàng”.
Suy tư 16:
Chức năng của nhà tâm lý học không phải chấm dứt việc trắc nghiệm bài toán cộng vỡ lòng rồi thôi, mà quan trọng chính là phần thứ hai: kết quả tâm lý, tính tình của mỗi ứng viên như thế nào, nhà tâm lý phải nói cho ông giám đốc biết để ông cân nhắc chọn lựa !
Đáng lẽ, sau khi trắc nghiệm xong, ông phải nói như thế nầy với chủ của mình: “Cô gái thứ nhất tính tình thật thà, cô gái thứ hai tính tình không ngay thẳng còn cô gái thứ ba thì lập lờ nước đôi, ba phải…”- Để thân chủ của mình chọn lấy một cô thư ký, hoặc ít nữa, nên góp ý cho thân chủ của mình nên chọn người nào chứ !
Trách nhiệm của người mục tử cũng như nhà tâm lý học, khi phân tích thế nào là tội cho con chiên bổn đạo mình nghe, không chỉ nói rằng: “tội là do ma quỷ đem đến, ta phải tránh xa nó; tội là xấu xa trước mặt Thiên Chúa…anh chị em hãy tránh tội lỗi…” thì đó chỉ là phần một, người nào nói cũng được, và có khi còn nói hay hơn các linh mục nữa là đàng khác. Nhưng phần thứ hai mới là quan trọng: nói đến tình yêu của Chúa Giêsu đã vì tội lỗi của chúng ta mà chết trên thấp giá, chúng ta giảng dạy các tín hữu như thánh Phaolô tông đồ đã dạy cho giáo đoàn Rôma: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13, 14-14).
17. LẼ NÀO NGU HẾT CHỔ NÓI
Quote
Một công ty nhỏ có một viên chức, mỗi ngày đúng ba giờ chiều đều đi ra ngoài, nửa giờ sau thì trở lại, do mỗi ngày đều như thế, cho nên khó tránh khỏi sự đoán mò của các đồng nhiệp hiếu kỳ, qua mấy tháng sau, cuối cùng giám đốc chịu không nổi bèn hỏi anh ta ngọn nguồn như thế nào.
Anh ta nói: “Mỗi buổi chiều tôi lái xe đến chổ giao lộ của đường sắt, đợi chuyến xe chở hàng ba giờ hai phút lái về tuyến đông chạy qua. Sau khi đợi xe lửa xhạy khỏi, tôi liền thở phào một hơi nói với mình: tạ ơn trời đất, xe lửa đã chạy rồi, tôi sẽ không tông vào nó nữa”.
Suy tư 17:
Cũng có những người bỏ ra rất nhiều thời gian để đi tìm vận may mà không làm gì cả, họ không biết rằng, vận may ở ngay chính khi mình bắt tay làm việc.
Cũng có những người hối tiếc việc sai lầm của mình đã làm, nhưng khi có dịp thuận tiện thì lại phạm sai lầm nhiều hơn !
Tìm vận may, hối tiếc những việc sai lầm đều là những việc làm tiêu cực của người…tiêu cực, nhưng người tích cực thì không như thế, họ xông xáo trong bổn phận hiện tại, họ lao động bằng trí óc, lao động bằng chân tay để chu toàn bổn phận trong hiện tại, và họ đã gặp được vận may trong bổn phận, và nếu có sai lầm trong công tác, họ tích cực sửa chữa, lắng nghe ý kiến và sự góp ý của người khác.
Họ đã thành công.
18. HIỂU SAI Ý
Quote
Có một người hỏi bạn của mình: “Tình yêu của anh và cô gái con của giám đốc, gần đây tiến triển như thế nào?”
Người thanh niên ấy tươi cười rạng rỡ nói: “Còn tốt chán, gần đây tôi được rất nhiều lời khích lệ”
-“Thật sao?” Bạn của anh ta hỏi tiếp : “Có phải cô ta bắt đầu mĩm cười ngon ngọt với anh không ?”
-“Vậy thì không phải rồi”, người thanh niên thoải mái nói: “Tối hôm qua, cô ấy nói với tôi, lời cuối cùng của cô ta là “không”.
Suy tư 18:
Con người ta thường hay nhìn bên ngoài để xầm xì bàn tán, mà không nhìn thấy rõ thực chất bên trong của sự việc, biết bao nhiêu người phải đau khổ bởi những tiếng “xì xầm” của chúng ta, biết bao nhiêu người chịu tủi hổ vì những lời bàn tán của chúng ta…
Người “đời” mà xì xầm bàn tán với nhau thì người ta còn thông cảm được, chứ các bà xơ dì phước hay ông cha ông thầy mà bàn tán xì xầm nầy nọ, thì quả là gây gương mù gương xấu, và hậu quả thì khó mà lường được. Bởi vì người ta thường “tin” bà xơ dì phước hơn các con cháu khác của bà E-va, cũng vậy người ta “tin” ông cha ông thầy hơn những con cháu khác của ông A-đam.
Những tiếng xì xầm bàn tán thường là không đúng và có ý không hay, là lời của “đứa cám dỗ”, tại sao vậy ? Vì Chúa Giêsu đã nói: “Anh em phải coi chừng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả. Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. Vì thế tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà” (Lc 12,1b-3).
19. CON LỪA NGU
Willi Hoffsuemmer
Có một ngày, con lừa, con rùa và con ruồi gặp nhau rất là đúng lúc, bèn cùng nhau nói chuyện phiếm.
Con ruồi phàn nàn nói: “Nếu tôi có thể sống lâu hơn một chút, như thế thì việc gì cũng đều có thể trở thành dễ dàng, các anh có thể tưởng tượng ra, chỉ có hai mươi bốn tiếng đồng hồ, lại còn phải làm cho hoàn tất các “mùi vị” của công việc sao? Sinh ra, lớn lên, học chút kinh nghiệm, sau khi nếm được chút ít hoan lạc và thống khổ, thì chết chỉ trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ.”
“Anh nói không sai chút nào cả”, con lừa nhấn mạnh, nói: “Nhưng tôi hy vọng tôi chỉ sống hai mươi bốn giờ là có thể được rồi, bởi vì tất cả cuộc sống của tôi thì như thế, mặc dù ngắn ngủi, nhưng lại là rất êm đẹp.”
Con rùa nhìn nhìn hai người rồi nói: “Tôi không hiểu nổi hai vị, năm nay tôi đã ba trăm tuổi rồi, thời gian không đủ để nói cho các anh biết những sự việc từng trãi của tôi, sự thật đã qua thì quá nhiều. Tôi còn nhớ lúc tôi hai trăm tuổi, thì tôi hy vọng cuộc sống đến đây thì chấm dứt”. Sau đó nó quay qua nói với con lừa: “Tôi hâm mộ anh”. Rồi lại quay người nói với con ruồi: “Tôi đồng tình với anh”.
Con lừa liền nói: “Sau khi nghe anh nói xong, tôi cũng không có để ý mình muốn sống đến ba trăm tuổi. Thử nghĩ mà coi, như vậy trong mỗi một sự việc của cuộc sống thì anh đã có cơ hội trải qua rồi, hơn nữa lại có thể nếm qua đã lâu dài mà lại còn thấu đáo nữa chứ”.
Sau khi cả ba người đều đã phát biểu xong thắc mắc của mình, thì cùng nhau thinh lặng, chìm đắm một khoảng thời gian rất lâu trong thương cảm. Bởi vì chúng nó đều lấy thời gian để so sánh đời sống của mình, hơn nữa chúng nó đều cho rằng nhu cầu cũng chẳng có gì cả, trông chờ trường thọ nơi đoản mệnh, tìm đoản mệnh nơi trường thọ, lại còn có người yêu cầu vừa đoản mệnh lại vừa trường thọ, cho nên cả ba người cùng nhau đi tìm hỏi một vị tôn sư nổi tiếng, ông ta là một con nhền nhện.
Nhền nhện nói: “Rùa, nhà ngươi đừng có trách cứ, ai có sự hiểu biết phong phú như ngươi chứ?”
“Còn ngươi, con ruồi”, nhền nhện nói: “Nhà ngươi cũng “stop” ngay sự phàn nàn lại, cuộc sống của ai lại được có nhiều thú vị như ngươi chứ?”
Con lừa liền hỏi con nhền nhện có chỉ thị gì cho mình chăng, nhền nhện nói: “Ta cũng chẳng biết nên kiến nghị cho nhà ngươi điều gì, bởi vì nhà ngươi đã muốn đoản mệnh mà lại còn muốn trường thọ, việc nầy thì không thể được. Cho nên nhà ngươi không những bây giờ mà sau nầy cũng vẫn là một con lừa ngu xuẩn”.
Suy tư 19:
Người giàu có thì thích sống lâu để hưởng thụ!
Người nghèo khổ thì mong cho mau chết vì quá khổ ?
Quan niệm của hai loại người trên đều không đúng với tinh thần Kitô giáo, giàu có và nghèo khổ không phải là lý do để được sống lâu hay chết mau, mà chính là họ có vui vẻ chấp nhận giàu có và nghèo khổ như là ơn huệ của Thiên Chúa ban cho hay không mà thôi.
Giàu có mà sống trong ích kỷ, bo bo giữ của, coi người nghèo như là…cỏ rác, thì chẵng khác chi đã chết trong tâm hồn rồi vậy. Nghèo khổ mà chấp nhận hoàn cảnh cố gắng vươn lên, vui với hoàn cảnh hiện tại, không oán trời trách người thì chẳng khác gì trường thọ sao?
Đừng làm tôi Thiên Chúa rồi lại nô lệ cho tiền bạc, cũng như đừng đi “nước đôi” với tội lỗi và đánh lừa Thiên Chúa.
20. CON CÁ KHÔNG BIẾT
Kurt Mobel
Một hôm, có một đàn cá vừa buồn bực vừa nổi khùng ngược giòng đi lên, cùng nhau họp lại. Bởi vì có người nói với chúng nó: “Sinh mệnh của các anh là phải hoàan toàn trông cậy vào nước, nếu không có nước, thì sẽ không có cá”.
Chúng nó cùng nhau tranh biện, thảo luận: “Chúng ta đây có ai thấy nước chưa? Có ai biết nước không? Sao lại có người nói loài cá chúng ta hoàn toàn phải trông cậy vào nước? - Có một con cá khá thông minh đề xuất ra một kiến nghị, nó nói: “Tôi nghe nói ở trong biển lớn, có một con cá tuổi đã cao, tràn đầy trí tuệ, nó thông hiểu tất cả sự việc, đối với những bí hiểm của tự nhiên nó hiểu rất nhiều, chúng ta có thể đi đến cầu cứu nó, xin nó nói cho chúng ta biết nước là gì?”
Mọi người cho rằng đây là một chủ ý tốt, cho nên cùng nhau bơi xuống, đi đến biển lớn, lại bơi mấy ngày mấy đêm, cuối cùng thì cũng đã đến nơi con có lớn nọ, đem vấn đề lần lượt thuất lại, con cá ấy nhìn nhìn chúng nó rồi nói:”Nhất định các anh là những người từ trong rừng sâu mà đến, hiểu biết không bao nhiêu. Lẽ nào các anh không biết, từ khi các anh còn là cái trứng cá thì đã ở trong nước rồi sao? Nước vẫn ở chung quanh các anh, các anh cả ngày sống ở trong nước, nếu không có nước thì không một con cá nào sống được cả”.
Đáp án nầy làm cho đàn cá thập phần mãn ý, sau khi chúng nó cám ơn vị giáo sư thì bơi trở về nhà, biết bên cạnh mình cả ngày đều là nước, thì cảm thấy rất là vui vẻ và thoả mãn.
Suy tư 20:
Có ở trong nước cả ngày, suốt đời, vậy mà không biết nước là gì thật là tội nghiệp làm sao!
Ơn của Thiên Chúa chính là nguồn nước để linh hồn chúng ta sống thoải mái, dồi dào và bình an.
Mỗi bí tích mà chúng ta lãnh nhận đều là những máng đề chuyển “nước hằng sống” xuống cho chúng ta, tuỳ theo nhu cầu của chúng ta khi lãnh nhận, vậy mà có những lúc chúng ta trách Chúa: sao Chúa để con phải như thế nầy, sao Chúa để con phải như thế nọ !
Ân sủng của Thiên Chúa rất dồi dào, dư dật và không thiếu cho những ai biết lợi dụng “các máng chuyền ơn” ấy.
Nếu sau khi chúng ta rước Mình Thánh Chúa vào lòng mà mật thiết trò chuyện với Chúa Giêsu như người bạn tình yêu dấu, thì thử hỏi làm sao mà không nếm được sự bình an và hạnh phúc chứ?
Nếu sau khi chúng ta hoà giải với Thiên Chúa trong bí tích Giải tội, mà chúng ta thật sự nhìn thấy tình yêu bao la vô hạn của Thiên Chúa đã dành cho ta: xóa bỏ tội ta phạm, tha thứ và đón nhận ta trở về…(Lc15, 11-24), thì sao lại không nhìn thấy ân sủng của Thiên Chúa chứ?
Chúng ta đang sống giữa ân sủng của Thiên Chúa, mỗi lời nói, mỗi bước đi, mỗi hành động của chúng ta chính là ân sủng của Thiên Chúa ban cho, thế nhưng ai đã hiểu điều nầy hơn mọi người khác? – Thưa, chính là các linh mục, tu sĩ nam nữ, là những bạn thân thiết của Chúa Kitô.
-------------------------------


TẬP BA


THÀNH BẠI

 
21. THU HOẠCH TRONG THẤT BẠI
Một người giúp việc cho Edison để ông ta làm một loại ắc-quy mới, làm thực nghiệm trước sau thất bại năm mươi ngàn lần thì rất là kinh ngạc.
Anh ta hỏi: “Ngài thu hoạch được gì chứ?”
Edison nói: “Thu hoạch à ? Anh bạn trẻ, thu hoạch của tôi có thể nói là rất nhiều, bây giờ tôi biết được có năm mươi ngàn loại không có hiệu quả ?”
Suy tư 21:
Có câu thành ngữ: thất bại là mẹ thành công.
Năm mươi ngàn lần thất bại cho một thí nghiệm, như nhà bác học Edison thì quả là hiếm thấy, và có thể nói là anh hùng, và còn rất nhiều nhà bác học khác đã bị thất bại chua cay đắng xót, để rồi ngày hôm nay chúng ta mới hưởng được thành quả của họ.
Thất bại là chuyện thường tình của người làm công tác khoa học, nghiên cứu; thất bại cũng là chuyện thường ngày của những người có óc tìm tòi sáng tạo, trong thất bại mới nhìn thấy được bản lĩnh của họ.
Và, thất bại cũng là chuyện bình thường của các nhà truyền giáo, nhưng chưa có một nơi nào các nhà truyền giáo đặt chân đến mà rồi trở về tay không. Cứ hỏi các nhà truyền giáo lão thành họ sẽ kể cho nghe những gian nan khốn khó trong thời kỳ đầu truyền giáo nơi một miền đất xa lạ, họ sẽ kể cho nghe những thất bại chua cay, mồ hôi trộn lẫn nước mắt, nhưng rồi các vị truyền giáo ấy đã thành công, nguyên nhân nào đã làm cho họ đứng vững giữa những thất bại ấy?
Thưa, đó chính là sự quyết tâm của họ, sự yêu thương miền đất mới của họ và quan trọng nhất, chính là ân sủng của Thiên Chúa ban cho họ, qua lời cầu xin trong thất bại cũng như trong thành công của họ.
Thất bại của một cha xứ, chính là tâm hồn bổn đạo khô khan, không thích đến nhà thờ, không màng đến các bí tích.v.v.. Thất bại của cộng đoàn chính là các thành viên nghi kỵ lẫn nhau, thiếu đức ái làm nền tảng.v.v... Thất bại của mỗi cá nhân chính là không có quyết tâm và không trông cậy vào ân sủng của Thiên Chúa.
23. MÀI ĐÁ THÀNH VÀNG
Bruno Hagspiel
Có một lần, có một phụ nữ đưa cho nhà danh họa Lu-si-jin một chiếc khăn tay rất đắt giá, nhưng trên chiếc khăn có một vết mực lớn.
Bà ta nói: “Thật đáng tiếc, nếu nó sạch sạch một chút thì đẹp biết mấy, như thế nầy thì hoàn toàn hư hoại rồi”.
Lu-si-jin không nói một lời nào, chỉ nói mượn chiếc khăn tay của bà ta một ngày. Qua ngày hôm sau, lúc ông ta đem chiếc khăn tay trả lại cho bà ta, cũng vẫn không nói gì cả, nhưng người phụ nữ ấy vừa nhìn thấy chiếc khăn thì thích thú vô cùng, bởi vì nhà danh họa không cười ấy đã lợi dụng vết bẩn ấy mà vẽ nơi góc của chiếc khăn một bức tranh cực kỳ khéo léo.
Bây giờ giá trị của chiếc khăn tay vuông vuông ấy càng đắt hơn.
Suy tư 22:
Nhà hoạ sĩ đại tài biết lợi dụng vết bẩn trên chiếc khăn tay, đề hoạ thành một bức tranh đẹp đẽ, đầy tính mỹ thuật.
Trước mặt Thiên Chúa không ai là không có tội. Thiên Chúa là nhà hoạ sĩ không những đại tài mà còn tuyệt vời khi vẽ tranh, tội lổi của chúng ta dù to lớn bao nhiêu chăng nữa, nếu chúng ta khiêm tốn phó mình trong tình yêu của Ngài, thì Ngài sẽ biến chúng ta thành một tác phẩm mới, hoàn hảo và đẹp hơn, có ích cho Giáo hội và cho xã hội hơn.
Có ai tội lỗi như thánh Augustinô, đã trở thành tuyệt tác qua bàn tay hoạ sĩ của Thiên Chúa!
Có ai bất hạnh như thánh Martin de Porres người da đen, dưới bàn tay của Thiên Chúa đã trở nên “trắng” hơn cả tuyết, và là mẫu gương bác ái yêu người cho mọi người!
Đừng mặc cảm mình là người tội lỗi mà không dám trông cậy vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, càng tội lỗi ta càng bám vào tình yêu của Thiên Chúa đề xin Ngài ban ơn, tha thứ và nâng đỡ, càng thấy mình yếu đuối thì càng trông cậy vào Thiên Chúa như cô Maria Madalena (Ga 12,3-8).
Thiên Chúa là nhà họa sĩ đa năng, Ngài sẵn sàng “phục chế” lại cho chúng ta tình trạng trong trắng như ngày chúng ta đón nhận bí tích rửa tội, nếu chúng ta biết đơn sơ tín thác tất cả cuộc sống của chúng ta cho Ngài.
23. QUYẾT TÂM
Bruno Hagspiel
Có một nghệ sĩ dương cầm hỏi một vị đại nghệ sĩ dương cầm khác: “Có phải lúc nào ngài cũng chuẩn bị sẳn sàng để lên sân khấu diễn tấu ?” - Đại nghệ sĩ dương cầm trả lời: “Tôi thì luôn luôn đợi lệnh, bốn mươi năm nay, mỗi ngày tôi đều luyện đàn 8 tiếng đồng hồ”.
-“Tôi hy vọng tôi cũng có quyết tâm như ngài vậy”.
-“Trời cho mỗi người đều có quyết tâm như thế”, đại nghệ sĩ dương cầm nói tiếp: “Tôi chỉ dùng quyết tâm đó mà thôi”.
Suy tư 23:
Chỉ diễn tấu có một buổi, mà nhà nghệ sĩ dương cầm phải bỏ ra mỗi ngày tám tiếng đồng hồ để luyện đàn dương cầm trong bốn mươi năm.
Để làm một linh mục phải học mất bảy năm trong Đại chủng viện (chưa kể sáu năm ở Tiểu chủng viện).
Để làm một bác sĩ phải qua bảy năm học, lại còn phải tham dự các lớp chuyên ngành.
Để trở thành một bà Sơ dì phước, thì cũng phải mất sáu, bảy năm khấn tạm thời.v.v…
Làm nghệ sĩ, làm linh mục hay bà Sơ, bác sĩ, thì xét cho cùng, chỉ là một đời mà thôi, rồi sau đó thì…chết.
Nhưng để làm một thánh nhân, hay nói cách khác, để được sống muôn đời với Thiên Chúa, thì chúng ta chuẩn bị mấy năm ? Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Mc 14, 38). Cầu nguyện luôn, cầu nguyện không ngừng, đó chính là chuẩn bị cho cuộc sống mai sau và là sức mạnh để chúng ta chống trả với chước cám dỗ.
Canh thức cũng đồng nghĩa với sẵn sàng, câu châm ngôn của các hướng đạo sinh là: sẵn sàng. Sẵn sàng phục  vụ bất cứ lúc nào, sẵn sàng hy sinh tất cả để phục vụ, sẵn sàng vượt qua những chuyện khó khăn.
Câu châm ngôn của người Công giáo phải là cầu nguyện, cầu nguyện để được bình an, để nhìn ra thánh ý của Thiên Chúa, và nhất là cầu nguyện để chuẩn bị đón nhận những thử thách mà Thiên Chúa gởi đến để thánh hoá chúng ta.
24. DỒN VÀO CHỔ CHẾT MỚI SỐNG
American Farm Youth
Có một người muốn đi đường tắt để trở về nhà, cho nên anh ta mới đi qua một nghĩa địa hoang vắng ở ngoại ô, nhưng không ngờ ở đó lúc ban ngày người ta đã đào một phần mộ mới, không may cho anh ta bị rơi xuống cái hố mới đào ấy. Hố sâu bảy thước, anh ta giãy giụa muốn trèo ra ngoài, nhưng cuối cùng đành phải bỏ ý định ấy, quyết định đợi đến trời sáng, lúc có người đi qua, thì lên tiếng kêu cứu.
Qua đi một lúc, một công nhân vừa xong việc cũng muốn đi đường tắt để về nhà cho gần, cũng bị rơi xuống hố như vậy, anh ta hoảng loạn nổ lực muốn trèo ra, hoàn toàn không biết ở trong hố đã có người. Anh ta giãy giụa một hồi, người rơi xuống trước đang trong cảnh tối mò, đưa cánh tay ra, đập đập trên vai của anh ta: “Anh ra không được đâu”.
Nhưng anh ta đã ra được.
Suy tư 24:
Hình như trong nguy cấp, con người được tăng thêm sức mạnh thần kỳ, bình thường căng sợi dây cao một mét, lấy hết sức nhảy cũng không qua, nhưng khi bị chó dữ đuổi thì hàng rào cao hơn một mét rưởi nhảy qua như chơi.
Trong đời sống tâm linh cũng như thế, ở đâu Giáo hội bị bắt hại, ở đó đức tin của các giáo hữu gia tăng, ở đâu thiếu vắng nhà thờ, ở đó tâm hồn người tín hữu càng tha thiết đến nhà thờ, và ngược lại, ở đâu Giáo hội được tự do hoạt động, thì ở đó lòng đạo của các tín hữu sa sút…
Hơn ba trăm năm đạo Chúa bị bách hại ở Rôma, đã sản sinh nhiều vị thánh tử đạo tuyệt vời, chứng tích anh hùng nầy còn mãi cho đến hôm nay và về sau. Cũng vậy, trong suốt thời gian đạo Chúa bị coi là “tả đạo” tại Việt Nam, đã có hơn một trăm ngàn chứng nhân chết vì đạo, và nổi bật nhất là 117 Đấng đã được tôn phong hiển thánh ngày 19.6.1088. Và gần đây nhất, ngày 5.3.2000 vị tử đạo tiên khởi của Việt Nam-thầy giảng An-rrê Phú Yên- đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị ghi vào sổ các chân phước tử đạo của Giáo hội hoàn cầu.
Trong đau khổ, đức tin nẩy mầm và lớn nhanh
Trong hoà bình, đức tin dễ bị lung lay, do đó, những thử thách rất cần thiết cho đời sống đức tin của người Kitô hữu, vì như lời thánh Giacôbê nói: “Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh nhận phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (Gc 1,12).
25. CỦ KHOAI TÂY
Tonne
Ở Kan-sa-si-zhou có một nông dân, một hôm, sau khi xong công việc đồng áng bèn trở về nhà, phát hiện ra trong túi áo có một củ khoai tây rất nhỏ, ông ta cầm củ khoai tây đưa cho đứa cháu ngoại mười hai tuổi đang chơi đùa ở nhà ông.
-“Cho cháu cái nầy”, ông ta nói: “Cháu đem nó trồng ở trong ruộng của ông, sau nầy phàm là của cháu trồng đều là của cháu”.
Đứa cháu ngoại nghe xong thì rất phấn khởi, liền đè lên củ khoai tây nơi có cái mầm cắt thành nhiều lát, mỗi lát đều đem trồng ở dưới đất.
Sau khi vào (mùa) thu, nó đào tất cả các củ khoai tây mà nó đã trồng lên, tích trử lại, đến mùa xuân sang năm, nó lại cắt mỗi củ khoai tây thành nhiều lát nhỏ, ròi lại trồng tất cả xuống đất. Cứ như thế, năm nào cũng thu cũng trồng, trồng rồi thu, khi đến năm thứ tư, thu hoạch của nó đã vượt qua hơn trăm giạ.
Người nông phu nhìn thấy khoai tây của cháu ngoại mình sắp sửa trồng đầy cả ruộng của ông ta, không thể không đề xuất bãi bỏ lời hứa sơ sài ban đầu ấy. Đương nhiên đứa cháu ngoại cũng đồng ý, bởi vì nó đã từ một củ khoai tây nhỏ xíu mà được lợi nhuận khá nhiều.
Việc lớn thường khởi đầu từ việc nhỏ.
Suy tư 25:
Không một người lính nào mà mới rời khỏi quân trường là thăng ngay cấp đại tướng, cũng chẳng có một em bé nào chưa biết đứng đã biết chạy!
Việc lớn thường bắt đầu từ việc nhỏ, một bề trên trong cộng đoàn thường là người đã trải qua nhiều chức vụ quan trọng khác, có bề dày kinh nghiệm, có đời sống gương mẫu…và được mọi người tín nhiệm.
Người khiêm tốn thường không làm những việc to tát mới gọi là khiêm tốn, nhưng họ thực hành những chuyện nhỏ bé có khi rất tầm thường trong đời sống thường ngày, với tất cả con tim và lòng yêu mến Chúa, chị thánh tiến sĩ Têrêxa nhỏ1 suốt cuộc đời chỉ làm những việc hy sinh nhỏ mà lòng yêu mến thì vượt quá trời cao, nên đã được phần thưởng xứng đáng: Bổn mạng các xứ truyền giáo.
Nên làm những việc đạo đức nho nhỏ, nhưng lòng mến Chúa và yêu người phải vượt qua hình thức đạo đức nho nhỏ ấy, hơn là làm những việc to lớn mà tâm hồn đầy những kiêu ngạo, trống vắng đức ái.
Việc lớn thường khởi đầu từ việc nhỏ, và đường vào thiên đàng cũng chỉ là đường hẹp mà thôi (Mt 7,13-14).
26. CHO TA MỘT CƠ HỘI
Donald T.Regan
Có một người công việc làm ăn bị lâm vào cảnh khốn khó, ông ta là một giáo hữu rất thành kính, nhiều năm nay đối với giáo hội vẫn khảng khái dâng cúng. Vì thế ông ta đi đến nhà thờ, cầu xin với Thiên Chúa cho ông ta trúng một giải thưởng lô-tô.
Ông ta chan chứa hy vọng đợi chờ trong khoảng thời gian ngắn, nhưng chẳng có gì xảy ra cả nên ông ta có chút băn khoăn, rồi lại đi nhà thờ khẩn cầu Thiên Chúa thêm một lần nữa, nhưng cũng như thế, vẫn chẳng có gì xảy ra cả.
Lần thứ ba, ông ta nổi giận, ông ta gầm thét với Đấng toàn năng: “Tại sao Ngài không cho con một cơ hội?”
Đột nhiên một trận gió thổi qua nhà thờ, một giọng nói trầm mạnh vang lên: “Cho ngươi một cơ hội ? Tại sao ngươi không cho Ta một cơ hội trước ? Ít nhất là ngươi phải đi mua một tấm vé số chứ !”
Suy tư 26:
Cũng như anh nông dân nọ trồng lúa, ngày ngày cầu nguyện với Chúa xin cho được mùa, nhưng suốt cả mùa lúa cứ nhậu nhẹt, đàn đúm với bạn bè, đến mùa gặt lúa, anh ta hí hửng đem liềm đem hái vào ruộng để gặt lúa, lòng phấn khởi vì hy vọng Chúa cho được mùa, nhưng vào đến nơi tìm đám ruộng của mình không thấy đâu cả, vì cỏ đã phủ lấp mất lúa cả rồi...
Chúa Giêsu không làm phép lạ không không, mặc dù Ngài dư sức làm được, Ngài muốn con người cộng tác với Ngài cũng như xưa kia với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê (Mt 14,15-21).
Cầu nguyện không có nghĩa là “khoán trắng” đám ruộng cho Chúa, rồi mình cả ngày ca hát vui chơi, nhưng là cầu xin cho được mưa thuận gió hoà, cầu xin cho công việc mình làm được tốt đẹp, cầu xin Chúa chúc lành cho ruộng đồng, cho mồ hôi nước mắt đổ ra, và nhất là cầu xin cho được ơn can đảm để đón nhận thử thách, thất bại.v.v…
Hãy cho Thiên Chúa một cơ hội trước, cũng có nghĩa là mình hãy bắt tay vào làm trước và Chúa sẽ chúc lành cho công việc của mình. Không làm thì làm sao mà xin Chúa chúc lành cho được chứ ? Cơ hội chính là ở đây: nơi chúng ta.
27. CẤP TIẾN VÀ BẢO THỦ
Paul Claudel
Một người cấp tiến nói với người bảo thủ: “Để đi bộ, nhất định anh phải giẫm một chân trên đất, chân kia thì giơ lên trời. Nếu cả hai chân của anh đặt cả trên mặt đất, thì một bước cũng không tiến nổi !”
Người bảo thủ phản bác: “Nếu anh giơ cả hai chân lên, thì nhất định anh sẽ ngã và cái đầu sẽ va vào đất !”
Suy tư 27:
Người cấp tiến chê người bảo thủ là ù lì, không tiến được ; người bảo thủ thì chê người cấp tiến là chạy nhanh quá, sẽ té đau.
Cấp tiến quá thì sẽ đảo lộn trật tự, nền nếp đã có.
Bảo thủ quá thì hạn chế tài năng phát triển, không đi kịp thời đại.
Nguyên tắc của Chúa Giêsu thì như thế nầy: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mo-sê và lời các ngôn xứ là thế đó” (Mt 7,12).
Không cấp tiến và cũng không bảo thủ, nhưng hãy cập nhật hoá cuộc sống của mình cho phù hợp với hoàn cảnh mà không đánh mất bản sắc của cộng đoàn mình.
28. TRỒNG VÀ SINH TRƯỞNG
Dr. Charles M. Crowe
Có một viện nghiên cứu nông nghiệp, đã làm một cuộc nghiên cứu sản lượng của giống ngô (bắp), trong một mẵu ruộng Anh, sản lượng là 100 giạ ngô, sức lao động là do con người cống hiến, ngoài ra, Thiên Chúa cũng cống hiến một chút: 400 vạn pao  nước mưa, 6800 pao khí o-xy, 5200 pao cac-bon, 1900 pao anhydrit cacbonic, 160 pao ni-tơ, 125 pao kalium, 40 pao phốt pho, 75 pao lưu huỳnh, 50 pao magiê, 50 pao calcium, 2 pao sắt, và còn có một ít i-ốt, kẽm, đồng.v.v…
Những thứ ấy đều chức chất trong 100 giạ (bắp) ngô, ai cống hiến vậy?
Suy tư 28:
Con người khi làm được chuyện gì đó to lớn một chút, nổi danh một chút, được người khen một chút, thì dương dương tự đắc coi người khác không ra gì, chúng ta thử phân tích công việc của họ làm giống như các nhà thí nghiệm phân tích thành phần trong trái bắp ngô :
Ví dụ một linh mục giảng hay được mọi người thích nghe: công soạn bài, tìm tài liệu và diễn giảng là của linh mục; bộ não nhiều chất xám, trí nhớ xuất chúng, phán đoán nhanh nhẹn chính xác.v.v…là của ai làm ra, ngoài ra các tài liệu để soạn bài giảng, phương pháp giảng.v.v…là ở đâu mà có? Giọng nói hùng hồm âm điệu truyền cảm là của ai ban cho vậy?
Suy cho cùng, công của vị linh mục chẳng có là bao, vậy thì hà cớ gì mà phải kiêu ngạo với anh em, phải điệu bộ làm ra vẻ ta đây chứ? Nếu một mai chẳng may lâm bệnh nặng, mất trí nhớ, nằm một chổ…
29. CHUYỂN BẠI THÀNH THẮNG
Christopher Notes
Na-po-le-on muốn trở thành một nhà viết văn xuôi nhưng không thành công, Suo-si-bia là nhà buôn lông cừu, Lin-ken là ông chủ tiệm tạp hoá, tổng thống Ge-lan làm nghề chế biến. Nhưng họ lại không vứt bỏ sự phấn đấu, họ chuyển vào một lãnh vực khác, thử làm các việc khác càng thích hợp với minh hơn, cho nên sau nầy họ đã thành công, chúng ta ai cũng đều thấy rõ.
Suy tư 29:
Công việc không thích hợp với mình cũng là một lý do của sự thất bại, nhưng thất bại lớn nhất chính là nhục cả chí khí, ý chí. Đọc gương của các danh nhân trên thế giới, chúng ta thường thấy họ rất bình thường, đa số xuất thân nghèo khó, nhưng ý chí và nghị lực cảu họ thì không ai bì kịp.
Thiên Chúa ban cho chúng ta một trí khôn là để chúng ta biết chọn lựa giữa cái hay và cái dở, cái thích hợp và cái không thích hợp với mình, trong cuộc sống đời thường có quá nhiều cái để chúng ta chọn lựa, nhưng chọn cái thích hợp cho mình thì chưa có.
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, sau khi nghiên cứu Thánh kinh đã chọn cho mình một con đường để nên thánh: con đường thơ ấu ; linh mục Vincent Lebbe đã chọn con đường truyền giáo cho người Trung quốc ; mẹ Têrêxa Calcuta đã chọn con đường phục vụ người nghèo ở Aán độ.v.v…và còn rất nhiều vị thánh đã chọn cho mình một con đường để đi.
Chúng ta đã chọn con đường truyền giáo cho một dân tộc xa lạ về ngôn ngư õ, phong thổ…nhưng lại khá gần gủi với chúng ta về tập quán và phong tục, đó là một lợi thế, nhưng để thành công, chúng ta cần phải hoạch định cho mình một phương pháp truyền giáo cho phù hợp với hoàn cảnh địa phương, giáo hội địa phương và phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa…
30. GIÁ TRỊ CỦA THẤT BẠI
Bruno Hagspiel
Sở dĩ cuộc sống luôn luôn có thể đi qua được thịnh vượng và khoẻ mạnh, là bởi vì nó được kiến lậo trên sự đối lập, cạnh tranh và khác biệt, đối sánh ; ví dụ như ánh sáng và bóng tối, hoan lạc và buồn thương.v.v… Cạnh tranh vẫn có thể mang lại cho chúng ta cái tốt nhất, chúng ta thích một cuộc chơi căng thẳng, mà không muốn tự ý bỏ cuộc, đã đi là phải thi đua.
Từ trong thất bại chúng ta học được nhiều thứ hơn, so với cái học được trong thắng lợi, bởi vì thất bại có thể làm cho chúng ta suy nghĩ lại, phân tích, và cải thiện kế hoạch hành động.
Suy tư 30:
Kinh tế thị trường, tự nó là một cuộc chơi, hay nói cách khác, nó là một cuộc cạnh tranh gay gắt để tìm kiếm thị trường trên thế giới, trong khu vực, đồng thời nó cũng là thần tài cho những công ty may mắn, nó cũng là thần chết cho những công ty thua lỗ.
Cuộc đời cũng là một cuộc chơi, một cuộc cạnh tranh sinh tử giữa sự thiện là Thiên Chúa và sự ác là ma quỷ và những đồng đảng của nó: kiêu ngạo, gian dâm, ghét ghen, nói hành hói xấu nhau.v.v… cuộc chiến nào cũng có thất bại và chiến thắng, chiến đấu với ma quỷ và đồng đảng của nó cũng thế, có khi chúng ta thua đau đớn nhục nhã, nhưng cũng có lúc chúng ta chiến thắng vẻ vang.
Thất bại không có nghĩa là ta đầu hàng, mà là khiêm tốn cầu xin “viện trợ” nơi Thiên Chúa, nơi Đức Maria, thánh cả Giuse và các thánh trên trời, để rồi chúng ta mãi mãi bình an, rồi không chiến đấu nữa, nhưng chiến thắng chính là dịp để chúng ta nhìn nhận sức mình có hạn, yếu đuối, cần khiêm tốn nhiều nữa, cần trông cậy vào Thiên Chúa nhiều hơn nữa.
Thất bại là mẹ thành công cho những ai biết kiên cường đứng dậy tiếp tục chiến đấu, nhưng thất bại cũng là cha thất bại của những người nản lòng bỏ cuộc, đầu hàng vô điều kiện.
Ma quỷ đã thua một trận xiểng niểng vì một linh hồn sạch tội, nhưng rồi nó mưu mô đi tìm thêm bảy tên quỷ dữ tợn hơn nó trở lại tiếp tục chiến đấu, và kết cục rất là thảm hại cho linh hồn người ấy (Mt 12, 43-45).
Chúng ta không biết kiếm tìm đồng minh trên trời khi bị bảy thất bại hay sao?

---------------------------------------
 
TẬP BỐN
 
THỎA MÃN
 
31. HÀNH TRÌNH LÊN NÚI
Dr. Adolfson
Trong một đêm, có ba người cưỡi ngựa vượt ngang qua một nòn núi.
Lúc họ đi đến giữa một lòng sông khô cạn, nghe trong đêm tối truyền lại một âm thanh: “Dừng lại !” Họ nghe lệnh và dừng lại, âm thanh ấy lại kêu họ xuống ngựa, nhặt một hòn sỏi, đựng vào trong túi, sau đó lên ngựa.
Lúc nầy âm thanh ấy lại nói: “Các ngươi hãy nghe theo lời ta nói mà làm, sáng sớm ngày mai sau khi mặt trời mọc, các ngươi sẽ vừa vui mừng vừa hối hận”. Các kị sĩ nghe những lời đầy nghi hoặc nầy, lên ngựa đi mà không cần giải thích.
Sáng hôm sau lúc ánh sáng ban mai xuất hiện, họ lấy đồ ở trong túi ra xem, chợt phát sinh chuyện kì lạ, các viên đá kia đã biến thành kim cương, hồng ngọc và các loại châu báu quý giá ! Lúc nầy họ bèn nhớ lại lời: các ngươi sẽ vừa vui mừng vừa hối hận- Vui mừng là vì họ cầm được một vài viên ngọc quý, hối hận là vì họ không lấy thật nhiều.
Suy tư 31:
Từ nhà đến trường học ta gặp nhiều hạng người trên đường đi, ta cũng gặp những cánh hoa dại ven đường, và có khi chân ta vấp vào một viên đá nhỏ nào đó, suýt té.
Cuộc đời truyền giáo cũng vậy, ta gặp nhiều hạng người nơi cánh đồng đầy lúa và cỏ lùng, cũng có những cánh hoa dại và những tảng đá to lớn chắn đường; nhưng theo kinh nghiệm của các nhà nông thì ở đâu cỏ mọc nhiều, thì đó là mảnh đất hứa hẹn màu mỡ tốt tươi.
Vâng phục và yêu thương là hai sức mạnh để Chúa Giêsu hoàn tất công trình cứu chuộc ở trần gian, nó chính là những viên kim cương vô giá, những viên hồng ngọc sáng ngời màu sắc chiếu rọi ánh sáng Phúc âm vào tâm hồn tối tăm của người ta. Để phát quang cỏ lùng, để nhặt những viên đá làm ta vấp ngã trên cánh đồng truyền giáo, ta phải bám chặt vào sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa qua bề trên, và tình yêu đối với mọi người, thì cho dù gặt hái thành công hay thất bại ta vẫn nở nụ cười tươi mà không hối hận, vì ta đã chu toàn bổn phận cách xuất sắc.
32. THAM VÀ GHÉT
Tonne
Có một thương nhân trên đường đi thì gặp hai người lữ khách, trong đó một người thì có lòng tham, người kia thì có lòng ghét ghen và dễ thay đổi. Họ cùng nhau kết bạn trên đường mà đi, sau nầy khi chia tay, người thương nhân nói trước khi tạm thời chia tay nhau đường ai nấy đi, thì muốn tặng cho họ một phần quà, bất luận là ai cầu nguyện trước, thì nguyện vọng của họ nhất định sẽ được thực hiện, nhưng người kia sẽ được gấp đôi phần quà.
Thế là hai người ấy đợi đối phương mở miệng trước, sau cùng người có lòng tham chịu không nổi, véo nơi cổ của người có lòng ghét ghen dễ thay đổi, đe doạ anh ta, nói: “Nếu không nói nhanh nguyện vọng, thì tức là anh không muốn sống nữa !” Người tràn đầy ghét ghen liền nói: “Được, được, hy vọng đui mất một con mắt!”
Lập tức một con mắt của anh ta bị mù, sau đó hai con mắt của người bạn cùng đi đường với anh ta quả nhiên cũng nhìn không thấy.
Suy tư 32:
Nguyên tổ chúng ta chỉ có phạm một tội: không vâng lời Thiên Chúa.
Nhưng bởi một tội nầy mà sản sinh ra nhiều tội khác làm hại đời sống tâm linh của con người. “Đứa em” kế tiếp của tội không vâng lời nầy là tội ghen ghét, Cain vì ghen ghét mà giết em mình là Aben, như vậy “đứa em” thứ ba của nó chính là giết người, và những tội phạm khác.
Tham lam nói nôm na bình dân là có rồi mà cứ muốn có thêm, đến khi không có thì sinh ra giết người cướp của, tham lam làm mờ con mắt của ta, làm cho ta không nhìn thấy bạn bè, người thân cận chung quanh ta.
Tham lam làm cho tâm hồn ta đầy những “tạp phẩm”, cho nên khó mà tiếp nhận được ơn sủng của Thiên Chúa.
Ghen ghét là một từ rất dễ…ghét, nó làm cho ta không nhìn thấy ưu điểm của người khác.
Ghen ghét làm cho ta xa cách mọi người và hay phê bình nói xấu cho người khác.
Ghét ghen cũng làm đức ái trong ta càng ngày càng nhỏ lại cho đến khi mất tiêu.
33. NGUYỆN VỌNG THỨ BA
De Mello
Có một người không ngừng cầu nguyện với Thiên Chúa, cuối cùng có một hôm, Thiên Chúa hiện ra với anh ta, lại còn nói với anh: “Ta quyết định hoàn thành cho ngươi ba nguyện vọng, sau đó sẽ không cho ngươi điều gì nữa”.
Người ấy vui sướng đến vang trời chuyển đất lập tức cầu xin nguyện vọng thứ nhất, ông yêu cầu vợ của ông ta chết ngay lập tức, để ông ta lấy một bà vợ khác trẻ hơn và đẹp hơn.
Nguyện vọng nầy của ông ta đã được thực hiện.
Nhưng trong lễ mai táng, bạn bè thân thiết cùng nhau truy điệu người vợ đã chết của ông ta, lúc nhớ lại những đức tính tốt đẹp quá nhiều của bà ta, thì ông ta bắt đầu hối hận, cảm thấy quyết định của mình quá vội vàng, quá bôi bác, ông ta phát giác ra trước đây mình không biết một chút gì về những cái tốt đẹp của vợ mình, tìm đâu cho ra được một bà vợ tốt đẹp như thế nầy chứ, cho nên ông ta cầu xin Thiên Chúa cho vợ ông ta sống lại.
Nguyện vọng nầy cũng được thực hiện.
Bây giờ ông ta chỉ còn lại một nguyện vọng, lần nầy ông ta không muốn quyết định sai lầm nữa, bởi vì sẽ không có cơ hội thay đổi nữa, ông ta suy nghĩ tỉ mỉ chu đáo, bạn bè cũng muốn giúp ông ta buôn bán, có người đề nghị ông ta yêu cầu trường sinh bất tử, vĩnh viễn không chết. Nhưng có người khác nói: “Nếu không có mạnh khoẻ, mà vẫn cứ không chết, chẳng lẽ không sợ sao?” ông ta cũng tự nghĩ rằng: “Nếu không có tiền mà chỉ có mạnh khoẻ, thì cũng chẳng có gì là ý nghĩa, nếu không có bạn bè, thì tiền bạc có tác dụng gì chứ?”
Cứ như thế mấy năm trôi qua, ông ta vẫn không có cách gì để hạ quyết tâm yêu cầu : mạnh khỏe, tiền tài, quyền thế, tình yêu ? Cuối cùng ông ta nói với Thiên Chúa: “Xin nói cho con biết phải yêu cầu đìêu gì ạ ?”
Sau khi Thiên Chúa hiểu rõ chổ khó khăn của ông ta, thì cười nói với ông : “Thì cầu xin cho ngươi cảm thấy thỏa mãn với cuộc sống hiện tại !”
Suy tư 33:
Chúng ta có một quyền, đó là quyền được cầu nguyện; Thiên Chúa có toàn quyền, nhưng quyền sử dụng nhiều nhất chính là ban ơn. Đọc trong toàn bộ Thánh kinh, chúng ta thấy Ngài chỉ có ban ơn và ban ơn mà thôi.
Có người nói: đôi lúc cảm thấy không biết nên cầu nguyện xin cái gì với Chúa đây ?! Bởi vì tiền bạc đã có, hạnh phúc đã có, cái gì cũng có cả, thì cầu xin cái gì chứ?
Cũng có người nói: đôi lúc cảm thấy nản lòng khi cầu nguyện, vì tâm hồn lo toan nhiều thứ quá, lo cơm ăn áo mặc, lo con cái bệnh hoạn, lo thất nghiệp.v.v…... Những lý do nầy rất là chính đáng, ai cũng có như thế cả, nhưng bởi vì như thế, cho nên Thiên Chúa muốn chúng ta phải luôn cầu nguyện, không những Ngài ban cho chúng ta tự do cầu xin ba nguyện vọng, mà từng giây phút Ngài luôn ban ơn cho mọi người, nếu lời cầu xin ấy có ích lợi cho linh hồn của họ.
Nhưng kiểu mẫu cầu xin lý tưởng và đẹp lòng Thiên Chúa nhất chính là kinh “Lạy Cha”. Đôi lúc chúng ta không biết cầu xin gì cả, thì cứ đơn sơ mà nói với Chúa: “Lạy Chúa, con chẳng biết cầu nguyện gì cả, chỉ nương theo lời dạy của Chúa đề cầu nguyện mà thôi: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,…xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha nợ những người có lỗi với chúng con…” (Mt 6, 9-13).
Cứ cầu xin như thế, thì thử hỏi có người cha nào mà không thích nghe chứ ? Nguyện vọng nào lại không được  đáp ứng chứ?
34. GIẤC MƠ CỦA NGƯỜI THỢ ĐÁ
William Bausch
Ngày xưa có một người thợ đá, một thân một mình ở trong căn nhà tranh nhỏ, mặc dù anh ta có tay nghề tinh vi, nhưng lại khá nghèo khổ, áo quần thì rách bươm, cơm ba bữa thì sơ sài.
Có một hôm, lúc anh ta đang chạm trổ một tảng đá lớn, thì nghe tiếng người hoan hô náo nhiệt ở bên ngoài đường đầu phố, nguyên nhân là quốc vương đang ngự du đến thôn làng nhỏ bé chân chất nầy của họ. Anh thợ đá cũng nhập vào trong đoàn người nghênh đón, anh ta nhìn quốc vương bằng ánh mắt kính nể, thấy quốc vương mặc áo tơ lụa đẹp đẽ, mang châu báu chói mắt, trong lòng anh ta thiết tha nghĩ rằng: “Tôi hy vọng biết mấy nếu tôi có quyền thế và vinh dự của quốc vương!”
Một tối nọ, anh ta nằm mơ, mơ thấy mình biến thành một quốc vương có quyền có thế thật, anh ta cưỡi trên con tuấn mã, đón nhận tiếng hoan hô của dân chúng ở hai bên đường. Nhưng lúc bấy giờ chính là mùa hạ mồ hôi chảy như mưa, anh ta chú ý, dù là người hay là động vật, cỏ hoa hay cây cối, đều không ngẩng đầu lên được dưới ánh mặt trời gay gắt, anh ta nhìn nhìn trời, trong lòng nghĩ rằng: “Tôi hy vọng làm mặt trời!” nguyện vọng nầy của anh ta quả nhiên được thực hiện !
Anh ta ở trên cao phóng ra ánh sáng và sức nóng mạnh mẽ xuống địa cầu, ngay cả quốc vương và công chúa cũng chỉ có thể núp dưới cái lọng, các vệ sĩ lộng quyền ở dưới đất, tất cả đều sa sút mệt nhọc, anh ta phát hiện ngay cỏ cây trồng ở trong ruộng cũng ở dưới quyền thế của anh ta, vì vậy mà anh ta đắc ý vô cùng.
Lúc ấy đột nhiên gió thổi đưa lại một đám mây che mất tia sáng của anh ta, anh ta cho rằng vậy mà còn có thứ mạnh hơn cả mặt trời, thế là trong lòng lại nghĩ: “Tôi hy vọng biến thành mây !” kết quả anh ta biến thành một đám mây thật!
Bây giờ anh ta có thể che mất tia sáng mặt trời, bèn cảm thấy mình thật là người có một không hai trên thế giới, anh ta để cho mình dãn nở trở thành một đám mây lớn, sau đó mưa lớn tầm tã làm ướt mọi thứ trên địa cầu, cỏ hoa cây cối, động vật, và cả con người, đều tìm cách tránh mưa. Nhưng chỉ có một tảng đá vững như thái sơn, không ảnh hưởng uy lực của anh, cho nên bây giờ anh ta lại muốn: “Tôi hy vọng biến thành một tảng đá !” quả nhiên anh ta biến thành một tảng đá khổng lồ !
Lúc bản thân anh ta không bị mặt trời, mây và mưa gió ảnh hưởng thì đắc ý thì có một người xách đến cái túi, người ấy đến bên cạnh anh ta, lấy từ trong túi ra cái đục và cái búa, bắt đầu đục đẽo trên thân anh ta, trong lòng anh ta nghĩ: “Té ra có người mạnh hơn cả tảng đá”, anh ta bèn cầu nguyện cho mình biến thành người ấy.
Lúc nầy anh ta từ trong giấc mơ tỉnh lại, phát hiện ra mình vẫn là người thợ đá, ở trong căn nhà tranh nhỏ, trong nhà có đục và búa, anh ta cảm thấy thoả mãn vô cùng.
Suy tư 34:
Đứng núi nầy trông núi nọ là bệnh của con người, nhưng đối với những người có lý tưởng, có ý chí và lòng kiên trì, thì chuyện đứng núi nầy trông núi nọ chẳng…nhằm nhò gì với họ cả, bởi vì họ đã có lý tưởng để đi theo và sống chết cũng quyết tâm đi theo lý tưởng ấy.
Như cô gái tuổi mười sáu nảy sinh mơ mộng, tuổi mười tám có nhiều chàng trai giàu, nghèo, có địa vị, có máu tài tử.v.v…theo tán tỉnh, tình nguyện làm tài xế không công, tình nguyện làm vệ sĩ chết không thèm…lãnh tiền tử tuất ?! Nhưng cô vẫn chọn lựa, cân nhắc hơn thua, và các chàng trai thì mất kiên nhẫn, từ từ rút đi có trật tự…cuối cùng cô gái đã qua tuổi “băm”, hoảng, vơ đại một ông, hoặc ở “giá” qua tuổi “tứ”…tuần.
Vui vẻ đi theo lý tưởng, dù lý tưởng có quá nhiều đau thương, quá nhiều cám dỗ cản trở chúng ta, mà lý tưởng của chúng ta là: đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, nói ngắn gọn là truyền giáo. Có người nói, ở đâu cũng là truyền giáo cả, dù là tu dòng hay tu triều, dù là dòng kín hay dòng…mở, đều là truyền giáo, cho nên nếu thấy dòng nầy luật lệ gắt gao, dòng nọ khắc khổ thì…bỏ dòng mà qua dòng khác, nói như thế cũng có nghĩa là chúng ta đi tu để đi tìm sự sung sướng thân xác hơn là tìm hạnh phúc trong đời tu trì, đất nào cũng là đất cả, nhưng đem giống bưởi Biên hoà hoặc bưởi Năm Roi ra mà trồng ngoài miền trung thử xem sao, nó sẽ mọc lên một cây bưởi èo ọp, cằn cỗi vì đất đai không hợp.
Cũng vậy, có người ở trong dòng nầy thì truyền giáo rất kết quả, nhưng qua dòng khác thì chỉ là một gánh nặng cho cộng đoàn và cho anh em chị em, có người ở trong một cộng đoàn làm việc rất tốt, nhưng bỏ ra khỏi cộng đoàn, thì lại “bết bát” vô cùng !
Chúa không cưỡng ép chúng ta đi tu, nhưng Ngài mời gọi chúng ta vào làm vườn nho của Ngài, hợp với trình độ, sức khoẻ và lòng mến của chúng ta. Cho nên kiên trì với lý tưởng ơn gọi của mình, chính là đã thành công rồi vậy.
35. LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY
Tonne
Nước Nga có một người tên là Yin-fan, thừa hưởng của phụ thân một miếng đất làm ruộng, nhưng anh ta muốn có nhiều miếng đất lớn hơn.
Có một ngày, một người ngoại quốc đến, nhìn là biết ngay ông ta là một người giàu có và quyền thế, ông ấy bằng lòng tặng cho Yin-fan một miếng đất mà đi trong một ngày mới giáp vòng, điều kiện duy nhất là khi mặt trời lặn, anh ta phải trở về nơi chổ anh ta xuất phát.
Sáng sớm ngày hôm sau, Yin-fan lập tức khởi hành mà không ăn uống gì cả, anh ta không nói chuyện với bất cứ người nào, chỉ nhìn phía trước mà đi. Kế hoạch bước đầu của anh ta là đi cho được sáu dặm vuông, nhưng sau khi hoàn thành mục tiêu ấy, anh ta quyết định đổi thành chín dặm vuông, về sau lại tăng thêm mười hai dặm vuông, đến cuối cùng thì quyết tâm của anh ta là mười lăm dặm vuông, cũng có nghĩa là, trước khi mặt trời xuống núi, anh ta phải đi cho được sáu mươi dặm đường.
Lúc mặt trời đứng giữa, anh ta đi được ba mươi dặm mà không ngừng lại để ăn một chút thức ăn, uống một chút nước, về sau hai chân của anh ta càng ngày càng trầm trọng…
Cách điểm cuối còn khoảng hai mươi mét, anh ta nhìn mặt trời đã tiếp cận đường chân trời, thời gian chỉ còn lại vài phút đồng hồ, anh ta đem hết sức lực cuối cùng, đúng giờ mặt trời lặn, nó cà rịch cà tang bước vào đường trung tuyến. Nhưng cũng đúng vào lúc đó anh ta thở ra một hơi thở cuối cùng, ngã xuống đất mà chết.
Cuối cùng Yin-fan cũng đã được đất, nhưng chỉ có sáu mét vuông.
Suy tư 35:
Khi còn nhỏ ở làng quê, cứ mỗi khi có lễ cầu hồn hoặc lễ tang, thì trong nhà thờ của họ đạo tôi thường treo mấy câu đối chữ trắng nền đen, tôi còn nhớ được một câu như sau: “Một mất một còn, giờ chung kết”.
Cuộc đời là một cuộc đua ma-ra-tông, ai cũng phải chạy cả, nhưng có mấy ai chạy tới đích mà tâm hồn được thảnh thơi ? Thưa, chỉ có những người công chính, bởi vì trong suốt cuộc đời họ đã chạy đúng đường, đúng quy luật, và đến phút cuối họ chỉ cần cố gắng thêm một chút là phần thắng trong tay…
Ai đã chứng kiến cảnh hấp hối của bệnh nhân, thì mới cảm nhận giờ chung kết quan trọng như thế nào !
Một mất một còn, giờ chung kết!
Suốt cuộc đời sống công chính, thì giờ chung kết là niềm vui của họ, nhưng người suốt đời đắm mình trong tội thì sao ? Thật khủng khiếp.
36. DU LỊCH HUYỀN ẢO
William Bausch
Ngày xưa có một người, đối với cuộc sống của mình trong nhiều năm nay không biến đổi chút nào cả thì cảm thấy chán nản vô cùng, cho nên một hôm, anh quyết định rời bỏ cố hương thôn làng mà nhiều đời đã cư ngụ, để đi đến thành phố huyền ảo tìm cuộc sống tốt đẹp hơn, anh tin tưởng ở đó nhất định sẽ có một cuộc sống rõ ràng khác bây giờ, hoàn toàn mới tinh và dạt dào hứng thú đang đợi anh, vì vậy mà anh ra đi.
Đi được mấy ngày anh tiến vào một khu rừng sâu, buổi tối trước khi chuẩn bị đi ngủ, nửa đêm xuất hiện một động vật đùa giỡn với chiếc giày của anh, đem mũi nhọn của giày bỏ ngược về hướng khác. Sáng sớm ngày hôm sau, sau khi anh thức dậy, vui vui vẻ vẻ mang giày vào, tiếp tục đi về phía thành phố huyền ảo.
Đi được mấy ngày, anh đã đến thành phố huyền ảo, thành phố nầy khá nhỏ so với sự tưởng tượng của anh, vả lại trên thực tế, nhìn nó rất là quen mắt. Thậm chí anh phát hiện có một dãy phố rất giống dãy phố mà anh đã ở, nó giống nhau như đúc. Anh gõ một tấm cánh cửa quen quen, ở đó gặp được một gia đình mà người thì rất quen, sau đó thì vui vẻ ở lại cho đến suốt đời.
Suy tư 36:
Sau năm 1975, người ta từ miền Bắc, miền Trung di dân vào miền Nam làm ăn sinh sống, có người thành đạt lớn, có người vùi thân nơi đất khách quê người mà kiếp nghèo cũng vẫn nghèo, nhưng cũng có người trở lại quê cũ để có chết thì chết nơi quê cha đất tổ.
Trần gian là đời tạm, mọi người đều biết như thế.
Thiên đàng là quê thật, mọi người đều hiểu như thế.
Quê thật được bắt đầu từ đời tạm, không có đời tạm thì cũng chẳng có quê thật, nhưng để được ở trong quê thật thì ngay từ trong đời tạm nầy ta phải cảm nghiệm được hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu thương đồng loại mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lc 10, 27b).
Đó là “giấy phép để vào cửa quê thật đời đời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
37. SỰ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI ĐÁNH CÁ
Edward de Mello
Có một khách tham quan giàu có, đeo kính râm, mang máy ảnh, đang dạo chơi trên bãi cát biển miền nhiệt đới, gặp một người đánh cá đang ngủ gật trên chiếc thuyền gỗ nhỏ.
-“Tại sao anh không đi bắt cá ?” Khách tham quan hỏi.
-“Tôi đã bắt xong rồi”. Người đánh cá nói.
-“Ông có thể đi ra biển lần nữa, bắt cá nhiều hơn, kiếm nhiều tiền thêm một chút, sau đó mua một tấm lưới thật tốt, bắt được nhiều cá hơn”.
-“Để làm gì?”
-“Thì anh có thể mua một chiếc thuyền máy, đổi quách cái thuyền gỗ nhỏ nầy đi, đi ra ngoài biển xa bắt được nhiều cá hơn”.
-“Bắt được nhiều cá như thế, vì sao chứ ?”
-“Thì anh có thể kiếm được nhiều tiền hơn, anh có thể có một đội thuyền.”
-“Như thế nghĩa là gì chứ ?”
-“Thì anh trở thành một người giàu có, có thể thoải mái sống qua ngày”.
-“Không phải bây giờ tôi đang sống cuộc đời thoải mái hay sao?”
Suy tư 37:
Một ông khách tham quan tu viện dòng kín đã nói với chị thánh Têrêxa Hài Đồng: “Nếu chị có ngôi nhà đẹp đẽ xinh xinh như cái nhà ngoài kia…” ông ta lấy tay chỉ một ngôi nhà bên kia đường, nói tiếp: “thì chắc là chị không làm một nữ tu đâu”. Chị thánh Têrêxa mĩm cười nói: “Thưa ông, đó là căn nhà của tôi”.
Quan niệm của người đời: những ông cha, bà phước đều là những người chán đời mới đi tu, mới xa lánh trần gian ! Chán đời cũng có nghĩa là không thoả mãn với những gì mình có.
Quan niệm nầy sẽ đúng nếu những bà xơ dì phước của chúng ta ngày ngày cay cú, nóng giận, hách dịch, kiêu căng ; nó cũng sẽ đúng khi các linh mục, tu sĩ của chúng ta sống tách biệt với mọi người, đối xử giai cấp với mọi người.
Nếu các linh mục, các dì phước của chúng ta thể hiện được cuộc sống thoả mãn trong đời tu: không bon chen, không tìm tư lợi, không kiêu căng vì mình là ông cha, dì phước, thì bộ mặt cộng đoàn, của giáo xứ sẽ tốt đẹp biết bao.
38. LỮ KHÁCH TRẦN THẾ
De Mello
Có một khách tham quan người Mỹ đi thăm một vị Rabbi tên là Po-lan. Anh nhìn sau nhà vị rabbi thì rất lấy làm kinh ngạc, bởi vì đó là một căn phòng, bên trong chỉ có sách và một cái bàn, một cái ghế.
-“Rabbi, đây là đồ dùng của gia đình ngài chứ ?” Khách tham quan hỏi.
-“Của anh đấy chứ ?” Rabbi lại hỏi anh ta.
-“Của tôi ? Nhưng tôi chỉ là một khách du lịch ở đây mà, tôi chỉ là khách qua đường ở đây”.
-“Tôi cũng vậy”. Rabbi trả lời.
Suy tư 38:
Lính tiền đồn khi đi hành quân họ chỉ mang lương thực và quân dụng đủ dùng cho mấy ngày, bởi vì qua một hai ngày, họ lại di chuyển qua địa điểm mới, có khi nguy hiểm hơn.
Mỗi vị truyền giáo là một chiến sĩ tiền đồn, đến nhận một cứ điểm hoạt động nào đó thì luôn tâm niệm rằng: ở đây không phải là chổ vĩnh viễn của tôi, nhưng tôi phải có bổn phận làm cho nơi nầy có hoà bình, yêu thương và làm cho mọi người đều trở nên anh chị em của nhau trong Chúa Kitô.
Và thế là các vị đó không tích trữ của cải dư thừa cho mình, không gây bè chia phái trong nơi mình hoạt động, không tìm thỏa mãn danh dự cá nhân, vì họ biết mình là lính “tiền đồn” của Chúa Kitô.
39. THOẢ MÃN CHÍNH LÀ VUI VẺ
Willi Hoffsuemmer
Có một cậu bé đến trước một tảng đá to, đứng đó hỏi tảng đá:
-“Tảng đá to, công việc của anh là gì ?”
-“Là đứng trên mặt đất”
-“Nhưng đến tối, lúc đó thì anh làm gì ?”
-“Tôi vẫn đứng trên mặt đất”.
-“Lúc trời lạnh, mưa xuống, thì anh làm sao ?”
-“Tôi vẫn cứ đứng trên đất”.
-“Thật tội nghiệp cho tảng đá quá”.
-“Tôi hoàn toàn không tội nghiệp”, tảng đá nói tiếp :“Thân là tảng đá, vui vẻ của tôi và vui vẻ của một cậu bé như anh thì giống nhau, lúc anh chạy nhảy xung quanh tôi, tôi đứng ở đây an vui tự tại cũng rất là vui vẻ, hơn nữa tôi cũng không cảm thấy lạnh, đồng thời tôi cũng không sợ bóng đêm và đêm tối. Cậu bé, tôi bảo đảm với cậu, tôi đối với mình khá thoả mãn và cũng rất là vui sướng”.
Suy tư 39:
Mỗi người đều có một bổn phận phải làm khác nhau, cái quan trọng là chúng ta có vui vẻ, lạc quan để chu toàn bổn phận không mà thôi, nhưng phải chu toàn bổn phận như thế nào ?
Có người chu toàn bổn phận rất xuất sắc, nhưng kiêu căng khinh người.
Có người cũng làm hết công việc của mình, nhưng la lối thoá mạ, miễn cưỡng và chê bai.
Có người không thích làm những công việc tầm thường, vì họ cho rằng không có tiếng tăm, không ai biết.
Nhưng cũng có người vui vẻ làm những công việc được giao phó, dù không xuất sắc, nhưng ai cũng dành cho họ cảm tình, vì họ đã làm hết cả con tim, sức lực và trí óc của mình.
40. MỘT THOÁNG CHUYỂN BIẾN
Quote
Ngày nọ, có một bà ở nơi một thị trấn nhỏ, từ cửa sổ trong nhà nhìn ra bên ngoài, thấy một chiếc xe hàng dừng lại sát bên, trên xe nhảy xuống năm người đàn ông giống như bọn lưu manh, sau đó họ bắt đầu đem đàn điện từ, trống, ghi-ta…xuống xe, rồi lại đem các nhạc khí ấy đi vào trong nhà kế bên.
Bà nầy thấy tình cảnh như thế, thì nổi giận đùng đùng, bà ta nghĩ: “Những tối sau nầy sẽ cảm thấy ngủ không yên rồi, lỗ tai sẽ bị những âm thanh kế bên ồn ào chết đi được, nguời cũng sẽ bị những tạp âm làm cho phát cuồng lên”.
Chồng của bà tan sở về nhà, bà bắt đầu lớn tiếng nói: “Nhất định chúng ta phải dọn nhà, rời khỏi chổ nầy, nếu không chúng ta sẽ bị tiếng ồn ào kế bên làm điếc tai và điên lên cho mà xem !”
Chồng bà ta khuyên bà yên lặng chút xíu rồi nói: “Mình ạ, tại sao mình bực tức như thế chứ ? Lẽ nào mình không biết những nhà âm nhạc đó là ai sao ? Họ là một ban hợp ca rất nổi tiếng, đã ra nước ngoài biểu diễn, có rất nhiều người mê họ hát, đặc biệt là các cô gái mê nhạc. Chúng ta nên phấn khởi vì họ đã chuyển đến nơi đây, bởi vì chúng ta có thể nghe miễn phí được rất nhiều âm nhạc và bài ca hay”.
Giữa hai hàng lông mày vợ ông ta mở ra, và lộ nét tươi cười, bà chạy vào phòng điện thoại, bắt đầu gọi điện thoại cho bạn bè, mời họ lúc nào rãnh đến nghe ban hợp ca hát ngay bên cạnh nhà họ.
Suy tư 40:
Tục ngữ Việt Nam có câu: lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói co vừa lòng nhau. Một lời nói nhẹ nhàng làm tiêu tan nóng giận, đem lại sự thoải mái cho người nghe.
Lời Chúa không những đem lại sự sống đời đời cho chúng ta, mà còn để chúng ta ca tụng, tạ ơn và cầu xin cùng Thiên Chúa, thánh Phaolô đã nói: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” (Lc 3, 16b), chúng ta ca tụng Thiên Chúa trước, sau đó dùng những lời tốt đẹp ấy mà cầu chúc cho nhau.
Ngày nay truyền thông đại chúng phát triển tột bậc, nhưng có mấy nhà truyền giáo lợi dụng nó để “gọi điện thoại nói Lời Chúa” cho bạn bè thân nhân ? Có một vị Linh mục trẻ, trong bài giảng ngày chủ nhật đã nói với giáo dân của mình: “Sau khi nghe điện thoại xong, câu kết thúc mà anh chị em thường nói là: tạm biệt, good bye hoặc là bye bye, tại sao chúng ta không nói: Thiên Chúa bảo trợ ông (bà); Chúa ban bình an cho ông (bà), đó cũng là cách chúng ta truyền giáo vậy”.
--------------------------------
TẬP 5
TIỀN BẠC
 
41. THUẬT ĐIỂM KIM
Christopher Notes
Ngày xửa ngày xưa, có một người tên là Mi-de-si, ông ta là người đầy tớ theo hầu của quốc vương, quá nửa cuộc đời một mực trung thành phục dịch hoàng thượng. Sau đó ông ta về hưu, quốc vương nói: “Ta muốn ban cho ngươi một phần thưởng trọng hậu, ngươi mong muốn điều gì, ta sẽ tặng cho ngươi điều ấy.” Mi-de-si vừa nghe xong, một ý nghĩ tham lam nảy sinh trong lòng, ông ta nói với quốc vương: “Bệ hạ, tôi cần trở về nhà bàn bạc với nhà tôi chút xíu, ngày mai tôi lại đến kính trình cùng bệ hạ”.
Ngày hôm sau, Mi-de-si lòng vui sướng đến vang trời chuyển đất lên gặp quốc vương, đưa ra thỉnh cầu của mình: “Tôi mong muốn…tôi…có được thuật điểm kim, hễ tôi chạm tới vật nào thì vật đó sẽ biến thành vàng”.
Quốc vương nói với ông: “Nhà ngươi thật muốn điều đó sao ? Đương nhiên ta có thể cho nhà ngươi, nhưng, nó không phải là vật thú vị như nhà ngươi tưởng tượng đâu”.
-“Bệ hạ”, Mi-de-si nói: “Vợ tôi cũng mong muốn điều ấy”.
Vì vậy mà quốc vương cho ông ta năng lực của thuật điểm kim, ông ta rất vui mừng, lập tức thử thử đồ vật bên mình xem sao, ông ta sờ đến cái mũ, cái mũ biến thành vàng, rờ qua cái bàn, cái bàn cũng biến thành vàng!
Ông ta rất phấn khởi, lập tức trở về nhà, nói với vợ: “Mọi nơi mọi lúc tôi có thể muốn kiếm bao nhiêu tiền, thì có bấy nhiêu tiền!”
Trước tiên ông mời vợ đi chợ, mua về tất cả các thứ ăn ngon, làm một bữa cơm thịnh soạn giống như quốc vương và hoàng hậu ăn vậy, chúc chúc mừng mừng, bà vợ lập tức bỏ công ra sắp xếp (nấu nướng), ông ta đợi bên ngoài chảy cả nước miếng, nói: “Chúng ta cũng có thể ăn giống như quốc vương hoàng hậu”.
Ông ta ngửi mùi thơm của thịt bò xào với sữa heo, càng làm cho bao tử của ông nở to, mùi vị của các thức ăn khác, cũng hấp dẫn làm cho miệng của ông ta động đậy mạnh.
Ông ta ngồi xuống, đưa tay ra cầm lấy một đùi gà rán, chính lúc ông ta đụng vào thức ăn ngon dụ khị người ta ấy, thì lập tức nó biến thành vàng, ông ta muốn cầm cái khác, nó cũng biến thành vàng như vậy.
Cuối cùng, ông ta chết vì đói.
Suy tư 41:
Đôi lúc, vì nuông chiều con cái quá mức, cha mẹ đã vô tình “tiếp tay” cho con phạm tội, hay nói cách khác, cha mẹ đã làm hại con mình, không những đời nầy mà đời sau nữa. Biết rõ điều con cái xin là nguy hiểm, là không tốt mà vẫn cứ chiều nó thì hậu quả không lường được, trách nhiệm nầy cha mẹ hoặc bề trên phải chịu hoàn toàn trước mặt công lý toà án đời và trước mặt Thiên Chúa toà án lương tâm.
Thánh Têrêxa nhỏ hồi còn nhỏ đã được mọi người trong nhà cưng chiều hết mức, cho nên cũng có lúc kiêu căng, mà ngài gọi là: lòng tự ái qúa lẽ. Nhưng ngài đã được cha mẹ nhân đức, nghiêm khắc, dịu dàng dạy dỗ và đã trở nên một vị đại thánh của Giáo hội, chị viết: “Với tính nết ấy, con trộm nghĩ, nếu phải tay cha mẹ không có nhân đức, không biết dạy con, có lẽ con đã là đứa xấu nết dữ tợn lắm, và mất linh hồn cũng chưa biết chừng…”
42. BẢNG GIÁ
Tonne
Lúc nước Mỹ nội chiến, mua bán xơ bông là hành vi phạm pháp, nhưng vẫn còn có không ít các thương gia mậu dịch tham lam, muốn tìm mọi cách đến miền nam để mua xơ bông, đi qua đường sắt liên bang bán qua miền bắc để kiếm lợi kếch sù.
Trong đó có một gian thương phát hiện ra tài chính của quốc gia đang gặp khó khăn, bèn bí mật bàn bạc với thuyền trưởng chiếc tàu hơi nước hiệu CCB, nếu thuyền trưởng bằng lòng mang lô hàng xơ bông ấy lên miền bắc, thì hắn ta có thể mua một trăm đồng bằng bạc lớn. Thuyền trưởng cự tuyệt, lại còn nhắc nhở người mua bán xơ bông, đó là một áp phe phạm pháp.
-“Tôi cho anh nămn trăm đồng”- thương nhân nói.
-“Không làm” – thuyền trưởng giận dữ.
-“Vậy thì một ngàn đồng” – thương nhân vẫn không thôi.
-“Không làm” – thuyền trưởng không thay đổi ý ban đầu.
-“Tôi cho anh ba ngàn đồng” – thương nhân vẫn kiên trì.
Lúc nầy thuyền trưởng rút súng cầm nơi tay, nhắm ngay tên dụ dỗ, lớn tiếng nói: “Lăn xuống thuyền ! Ngươi mau tiếp cận bảng giá của ta”.
Mỗi một người đều có “bảng giá” của họ.
 
Suy tư 42:
Trong các loài Thiên Chúa dựng nên, không có loài nào có giá trị cho bằng con người (trừ thiên thần). Giá trị của con người không tính bằng tiền hay bằng vật chất, mà được tính bằng giá máu của tình yêu, tình yêu hy sinh mạng sống của Con Thiên Chúa –Đức Giêsu Kitô- “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15, 13).
Nhưng có một nghịch lý không lý giải được, đó là Đấng đã đổ máu hy sinh cho người mình yêu, lại bị người yêu –Giuđa Ít-ca-ri-ốt- bán ba mươi đồng bạc, giá trị mạng sống và tình yêu chỉ bằng một thửa ruộng (Mt 27,3-10).
Khi chúng ta bị người khác công kích đụng chạm đến danh dự, thái độ của chúng ta là bằng mọi cách đòi trả lại “cái danh dự” của mình, nếu cần đổ máu sẽ đổ máu… Con người tội lỗi xấu xa như thế kia mà đòi trả lại “danh dự”, vậy thì khi chúng ta phạm tội, cũng có nghĩa là chúng ta chửi Thiên Chúa, xúc phạm đến tình yêu của Thiên Chúa, thì Ngài có đòi chúng ta trả lại danh dự cho Ngài không?
Ân trả ân, oán trả oán, đó là cái giá phải trả của con người; nhưng có một cái giá nên trả cao thượng nhất mà Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em…” (Lc 6, 27-28).
Bởi vì trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều có cái giá ngang nhau.
43. MỌI TÂM ĐỀU TỐT
Willi Hoffuemmer
Một hôm, có một người Mỹ Indian (da đỏ) rời bỏ khu bảo lưu nơi anh trú ngụ, đi đến thành phố thăm một người bạn da trắng của anh. Xe to xe nhỏ, người đi bộ tới tới lui lui, tiếng ồn ào tất tất tả tả, làm cho người Indian nầy cảm thấy trong lòng không an tâm.
Lúc hai người đi bộ trên một phố lớn, đột nhiên người Indian dừng bước, nhè nhẹ đập dập trên vai người bạn, nói nho nhỏ: “Khoan bước tới trước, đứng đây một chút, anh có nghe âm thanh mà tôi đã nghe được không?”
Người da trắng quay người lại, nhìn người bạn Indian của mình, cười nói: “Tôi chỉ nghe tiếng xe hơi, tiếng còi và rất nhiều tiếng bước chân của người đi bộ, anh nghe được tiếng gì vậy?”
-Tôi nghe tiếng gáy của một con dế ở gần đây”.
Người da trắng cũng dừng chân nghe ngóng tỉ mỉ, nhưng anh ta lắc lắc cái đầu nói: “Xem ra anh nói đùa tôi đấy, ở đây làm gì có dế mèn chứ, ừ, thì cho có đi, nhưng làm sao anh có thể nghe được giữa phố xá đông người ồn ào như thế này, anh lại còn cho rằng anh có thể nghe được tiếng gáy của con dế?”
-“Thật mà, tôi có nghe thật đấy”, người Indian nói, “Chắc chắn ở đây có một con dế, bên cạnh chúng ta đây”.
Người Indian đi về phía trước đến một bậc thềm, sau đó đứng bên cạnh bức tường của một căn nhà, căn nhà nầy có một giàn hoa Thường Xuân bò trên tường, người Indian vén bỏ cây Thường Xuân ra, bên trong quả nhiên có một con dế mèn, đang cất cao giọng gáy.
Bấy giờ người da trắng mới nhìn thấy, anh ta cũng nhận ra sự biến đổi nguồn gốc của âm thanh. Trên đuờng đi người da trắng nói với bạn của mình: “Đương nhiên anh có thể nghe được tiếng gáy của con dế, bởi vì thính lực của người Indian của các anh hơn hẳn chúng tôi”.
Người Indian phá lên cười nói: “Cách nói nầy của anh, tôi không đồng ý, thính lực của nguời Indian hoàn toàn không hơn người da trắng, bây giờ tôi có thể chứng minh cho anh thấy”.
Người Indian lấy trong tuúi ra năm hào, sau đó quăng nó xuống đường dành cho người đi bộ, tiếng kim thuộc của đồng tiền cứng rơi trên đường nhựa, khiến cho rất nhiều người quay lại nhìn về hướng đó, người Indian nhặt đồng tiền lên, và bỏ vào trong túi, hai người tiếp tục đi đường.
-“Anh nên biết”, người Indian nói với người da trắng, “Âm thanh của đồng năm hào có phải lớn hơn tiếng gáy của con dế không, nhưng có rất nhiều người nghe được, hơn nữa còn quay đầu lại nhìn. Trái lại, người nghe được tiếng con dế gáy, thì chỉ có một mình tôi, nguyên nhân nầy, không phải thính giác của người Indian tốt hơn của người da trắng, mà là con người của chúng ta vẫn nghe được sự vật mà mình quan tâm quen biết”.
Suy tư 43:
Khi đi săn thì tai người thợ săn rất thính, mắt rất tinh vì họ chỉ chú tâm vào việc theo dõi con mồi, mỗi ngọn lá lung lay, một tiếng động nho nhỏ cũng đủ làm cho họ chú ý nghe ngóng.
Trong cuộc sống đời thường với bao việc phải lo toan, chúng ta không nghe được tiếng nói của Thiên Chúa nói với chúng ta. Có người cho rằng, Thiên Chúa chỉ nói với họ trong bài Phúc âm của thánh lễ ban sáng, cho nên lúc nào không đi lễ được thì không nghe tiếng nói của Chúa! Có người nói rằng, Chúa dùng miệng của các cha giảng để nói với họ, nhưng hôm nay đi lễ mà cha không giảng cho nên không nghe được tiếng Chúa nói với họ…
Thực ra, nếu chúng ta biết chuyên tâm nghe Lời Chúa thật sự, thì mỗi giây mỗi phút chúng ta đều có thể nghe được Lời của Chúa: khi thấy một tai nạn xảy ra, chúng ta bình tâm suy nghĩ Chúa đang nói với ta qua biến cố nầy; khi bị người ta chỉ trích, chúng ta lắng nghe tiếng Chúa đang dạy chúng ta phải khiêm tốn hơn; khi làm ăn thua lỗ, chúng ta lắng nghe tiếng Chúa đang thì thầm bên tai dạy ta phải trông cậy vào Ngài; khi việc truyền giáo thất bại, ta lắng nghe tiếng Chúa an ủi chúng ta hãy bình an, vì việc chúng ta làm là làm cho Chúa, vì Chúa, cho nên tập giao phó mọi sự cho Ngài lo liệu…
Ban ngày hay ban đêm, lúc vui cũng như lúc buồn, trong thất vọng trong lo âu, chúng ta đều có thể nghe được tiếng Chúa thì thầm bên tai chúng ta, nếu chúng ta biết lắng nghe.
44. NÚI BÁU ĐỂ KHÔNG
Dorothy Sarnoff
Ở Nam Phi có một nông dân, nhiều năm nay vẫn cứ vất vả trên miếng đất ruộng vừa khô vừa cứng của mình, vì khắp nơi trên miếng đất nầy toàn là đá không có chổ để anh tăng gia thu nhập, cuối cùng chỉ có cách là anh ta vứt bỏ mọi nổ lực, không thèm cày cấy gì nữa cả.
Đi đâu anh cũng nghe nói có người phát hiện ra kim cương, thế là anh đem đất đai của mình bán đi, và đi ra bên ngoài tìm kim cương.
Sau nhiều năm lao khổ nhọc nhằn mà không được một tí gì, mọi ý niệm của anh trở thành tro bụi, cuối cùng chết đi mà thân không có một văn tự.
Một ngày nọ, người mua miếng đất của anh ta, đã chú ý đến một vài hòn sỏi không giống nhau trong một góc xó, bèn hiếu kỳ đem mấy viên sỏi ấy vào nhà bếp rửa sạch sẽ, rồi lại kì cọ, thì phát hiện đó là những viên kim cương.
Về sau, miếng đất của người chủ ban đầu chết vì nghèo khổ ấy, đã trở thành khu khoáng sản số một, sản xuất kim cương lớn nhất của Nam phi.
Suy tư 44:
Người Do thái mong đợi Đấng Cứu thế, ngài đã đến và ở giữa họ, nhưng họ lại không đón nhận (Ga 1, 10-11) mà còn đem Ngài đóng đinh vào thập giá với phường trộm cắp (Lc 23, 33).
Đi hành hương kính Đức Mẹ Fatima, hay đi hành hương Rôma để đón mừng năm thánh là việc làm tốt, nhưng thử hỏi có mấy ai khi trở về nhà đạo đức thánh thiện hơn người khác ? Có người trong nhà thờ họ đạo của mình có tượng đài Đức Mẹ Fatima, nhưng chẳng bao giờ đến viếng, mà chỉ đi về nhà thờ Fatima Bình Triệu dâng lễ kính Đức Mẹ, trở về nhà cuộc sống chẳng có gì là thay đổi, vẫn ghen ghét hàng xóm, vẫn chửi bới, nói hành nói xấu nhà hàng xóm, thử hỏi có ích gì chứ?
Đi hành hương tức là… đi bộ, thông phần khổ nạn với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, cũng có nghĩa là dâng những bước nhọc nhằn đau khổ, những việc hy sinh của mình trong lúc đi hành hương cho Thiên Chúa, để đền tội mình và cầu nguyện cho những anh chị em khác…
Nhưng có một loại hành hương ít tốn kém nhất, tình người nhất, có thể hành hương nhiều lần nhất, đó là cuộc hành hương từ nhà mình đến nhà thờ, từ nhà ra chợ, từ nhà đến trường học, từ nhà đến công sở v.v… Trên đường hành hương chúng ta gặp những người mà ta không thích, ta mĩm cười với nọ; ta gặp người mới hôm qua đã chửi ta, ta thân ái bắt tay họ; ta gặp người ăn xin bên vệ đường, ta giúp đỡ và cầu nguyện cho họ, và còn biết bao là dịp để ta gặp gỡ, tiếp xúc và phục vụ trên đường hành hương của chúng ta.
Đó chính là cuộc hành hương đích thực mà Thiên Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta.
45. NGƯỜI BÁN ĐỒ GỐM
Matthew J. Ritchie
Ở Mêxicô, có một người Indian mang đồ gốm của người trong thôn mình đi ra chợ bán.
Đi được nửa đường, gặp một đoàn khách tham quan giàu có nói với anh là muốn mua toàn bộ đồ gốm của anh, họ trả giá cũng rất khá. Nhưng người Indian nầy không bằng lòng, anh nói: “Thưa ông, người trong thôn chúng tôi đều không biết chữ, cũng không biết viết, trước mắt vẫn chưa có điện, cho nên ngay cả việc nghe radio cũng không có. Mỗi ngày chúng tôi nhất định phải có người ra chợ, mới có thể mang về một ít công việc đại sự của thế giới đã nghe được, nhưng nếu không có những bình gốm, chúng tôi không thể đi vào trong chợ bán đồ, cho nên tôi không thể đem tất cả các bình nầy bán cho các ông, bởi vì những hàng hoá nầy là công cụ của chúng tôi. Thưa ông, nếu khi trở về cái gì tôi cũng không mang, mà chỉ mang tiền về, thì tôi sẽ cảm thấy rất gượng mặt”.
Suy tư 45:
Các thánh tử đạo là những người đi bán đồ gốm, nhưng gốm của họ không phải là bằng đất sét nung, mà là được tôi luyện bằng máu. Danh vọng, quyền lợi, tiền tài của thế gian, của vua chúa quan quyền không thể làm cho họ bán mất đức tin của mình, bởi vì, nếu khi trở về nhà Cha trên trời mà trong túi không mang theo cái gì cả, chỉ mang theo tiền tài, danh vọng, chức tước của thế gian, thì gượng mặt chết đi được.
Chúng ta cũng là những người đi bán hàng, hàng của chúng ta chính là Yêu thương, Phục vụ và Hy sinh, để khi trở về nhà Cha trên trời, chúng ta hân hoan khoe với Cha: “Thưa Cha, nhờ Cha mà con đã làm cho cộng đoàn biết yêu thương, vui vẻ; chờ Cha mà con đã làm cho giáo dân của con đoàn kết và yêu thương nhau; nhờ Cha mà con đã “quyến rũ” nhiều thanh niên nam nữ biết hy sinh để phục vụ tha nhân…”
Thử hỏi, có người cha nào mà không yêu mến người con như thế chứ?
46. THAM THÌ PHẢI MẤT
Christopher
Có một khách mua hàng xông vào văn phòng kế hoạch xúc tiến hàng tiêu dùng của công ty bách hoá, bà phàn nàn vì đã lãng phí một số tiền lớn để mua không không quyển sách quảng cáo nghệ thuật làm giàu nhanh chóng nổi tiếng.
Giám đốc hỏi bà: “Nếu quyển sách ấy giống như bà mô tả, như vậy thì trước đây sao bà lại mua nó?”
Bà ta có chút mắc cở nói: “Tôi sợ các anh sẽ nói với tôi: như vậy thì bà đừng mua nữa”.
Suy tư 46:
Người ta thường nói “quảng cáo nói láo ăn tiền” thật không sai chút nào cả, ai cũng biết là nói láo vậy mà có rất nhiều người mắc mưu quảng cáo, trong đó có… tôi.
Tôi thích nhất là đi vào các nhà sách… coi sách, và vào cửa hàng máy móc điện tử để coi cho biết mẫu mã giá cả thế nào, để sau nầy có tiền thì mua, tóm lại là thích đi… chợ để coi hàng, vậy mà vẫn cứ bị lừa vì thích mẫu mã bên ngoài rất đẹp mắt và lời lẽ quảng cáo hấp dẫn.
Thế gian có nhiều cách quảng cáo để chúng ta mất đức tin, hoặc là để phạm tội mất lòng Chúa, ma quỷ thường mượn hình thức bên ngoài để cám dỗ chúng ta, vì nó biết tâm lý chúng ta thích cái dáng vẻ bên ngoài, đồng thời nó cũng bày vẻ trí óc chúng ta rằng: Thiên Chúa tạo dựng mọi cái đều tốt đẹp là để cho ta hưởng dùng, tội gì mà không hưởng chứ ?
“Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: “Này, Đấng Kitô ở đây” hoặc “ở đó”, anh em đừng có tin…” (Mt 24, 23)
Đừng tin thế gian và cũng đừng thích quảng cáo của nó, bởi vì nó chỉ quảng cáo sự chết đời đời cho chúng ta mà thôi.
47. CỦA CẢI CỦA THỂ XÁC
Barclay
Có một thiếu niên thường không an phận của mình đang trò chuyện thế thái nhân sinh với một ông lão.
Thiếu niên nói: “Tôi muốn học cách làm thế nào để buôn bán.”
Ông lão hỏi: “Rồi sau đó?”
-“Tôi đã là thương gia”.
-“Rồi sau đó?”
-“Tôi phải sáng tạo ra của cải”.
-“Rồi sau đó?”
-“Tôi nghĩ đến lúc nào đó tôi cũng sẽ già, lúc đó tôi sẽ về hưu, dựa vào tài sản của mình mà sống qua ngày”.
-“Rồi sau đó?”
-“Ai dà, tôi nghĩ sẽ có một ngày, tôi phải chết”.
-“Rồi sau đó !?”
……  ……   ………   ………  …….
 Suy tư 47:
Chúng ta thử hình dung ra “rồi sau đó” của hai hạng người:
1. Một người cố tình phạm tội trọng, rồi sau đó...
2. Một người có lòng yêu mến Thiên Chúa, rồi sau đó...
     Nếu mỗi ngày mỗi người trong chúng ta tự đặt cho mình câu hỏi: “rồi sau đó…”, thì thế gian nầy sẽ trở nên thiên đàng, bởi vì mỗi một người đều hiểu rất rõ “rồi sau đó” là gì, sau khi từ giã đời tạm nầy.
48. NẾU TÔI LÀ NHÀ TỶ PHÚ
Quote
Lúc lên lớp, thầy giáo muốn học sinh viết một bài làm văn với nội dung phải miêu tả : nếu tôi là một tỷ phú, thì tôi phải làm gì ?
Mỗi một học sinh đều bắt đầu viết, chỉ có Tai-de là một người ngoại lệ, nó chỉ ngồi trên ghế làm mặt xấu, trêu ngón tay.
Lúc tan học, thầy giáo thu các bài tập lại, bài của Tai-de nộp chỉ là một tờ giấy trắng.
-“Thế nầy là thế nào hở, Tai-de?”, thầy giáo hỏi nó, “Đây là bài văn của em sao, của người khác ít nhất cũng là hai trang, lại còn có người viết nhiều hơn nữa, còn em thì một tiết học cái gì cũng không làm!”
-“Đúng là như thế ạ”, Tai-de trả lời: “Nếu em có rất nhiều tiền, thì cái mà em làm là : không làm gì cả”.
Suy tư 48:
Sức mạnh của đồng tiền, chỉ cần có tiền thì cái gì cũng có, cần gì phải làm việc cho mệt! Không làm gì cả thì bỏ vào ngân hàng để kiếm lời chứ? (Mt 25,27).
Nhưng nếu đêm nay Thiên Chúa gọi linh hồn ta thì sao nhỉ ? Bạc đầy nhà, vàng đầy rương, có đem theo được không?
Mẹ Têrêxa Calcutta không có gì cả, nhưng không có nhà tỷ phú nào giàu có như mẹ, vì gia tài của mẹ chính là tình yêu, tình yêu của mẹ trải dài trên tất cả những người nghèo khổ, cùng cực của xã hội, hỏi có nhà tỷ phú nào làm được như thế ? Mẹ không bỏ tiền vào những ngân hàng nổi tiếng bảo mật nghiêm túc của thế giới, nhưng mẹ đã đem gia tài của mẹ gởi vào trong tim của người nghèo –ngân hàng tình thương- Mẹ cũng không xây dựng những ngân hàng lớn để kinh doanh, nhưng mẹ chỉ mở những cộng đoàn nhỏ để đón nhận tất cả những người khốn cùng trong xã hội, và mẹ đã trở thành biểu tượng của tình yêu.
Còn chúng ta thì sao, nếu chúng ta trở thành tỷ phú ?
49. ĐUỔI THEO MÙ QUÁNG
Quote
Ở trong một thôn nhỏ gọi là Hán gia trang có nuôi một con chó nhỏ, con chó nầy suốt ngày cứ ngồi bên đường của một đại lộ để đợi chiếc xe vận tải lớn màu đỏ. Bất kể lúc nào, chỉ nhìn thấy xa xa có xe vận tải chạy tới, con chó lập tức sẵn sàng trận địa, đợi cho chiếc xe chạy tới sát bên thân, nó bèn đuổi lên đi phía trước, men theo đại lộ chạy thẳng một mạch.
Có một ngày, người trong phố đến thăm Hán gia trang hỏi ông ta: “Con chó của anh đuổi theo xe, anh không lo lắng sao ?”
-“Ai dà”, anh ta trả lời nói, “Tôi thì không lo lắng chuyện đó, cái mà tôi lo lắng là, nếu thật nó đuổi theo một chiếc xe, thì nó nên làm như thế nào?”
Rất nhiều người trong chúng ta cũng chạy theo rất nhiều việc, bao gồm những việc đã đuổi theo được, cũng như những thứ không hoàn toàn dùng được. Tại sao không ngồi xuống suy suy xem mục tiêu mà mình đuổi theo.
Suy tư 49:
Vừa rồi đọc trên nhật báo Trung tương  (Taiwan) số ra ngày 12.4.2000 có đăng một câu chuyện: một anh chàng khoảng hơn ba mươi tuổi , yêu một…bà già hơn năm mươi tuổi, trong hình chụp bà đang có bầu, gia đình anh ta cực lực phản đối, bạn bè cười chê cho là tình yêu mù quáng !
Thế gian đã chê cười và ngạc nhiên vì tình yêu của những người Công giáo đối với một ông Giêsu Kitô nào đó, đến nỗi có người không thèm lấy vợ lấy chồng, không thèm quyền cao chức trọng, không thèm tích trử bạc tiền, và ngay cả mạng sống, nếu cần chứng minh cho tình yêu của họ với ông Giêsu, thì họ cũng chẳng cần, thế gian không những cho đó là tình yêu mù quáng, mà còn cho họ là những người điên.
Nhưng đối với những người Công giáo thì đó chính là một tình yêu vượt trên mọi tình yêu, một tình yêu nền tảng cho tất cả tình yêu ở thế gian nầy, và để đạt được tình yêu nầy mà Chúa Giêsu –qua Giáo hội được Thánh Thần hướng dẫn- đã đưa ra nhiều phương tiện để con cái mình đạt tới hạnh phúc của tình yêu ấy, đó là: Thánh lễ Misa, các bí tích và các điều răn của Thiên Chúa...
Và thế gian sẽ (cười) đúng khi chúng ta –những người Công giáo- không tích cực tham dự thánh lễ, không lãnh các bí tích cách trọn hảo.
50. CUỘC BUÔN BÁN TỒI NHẤT
Tonne
Trong giờ học lịch sử Thánh Kinh của một lớp học, khi giảng đến những việc buôn bán hay nhất và tồi nhất trong Thánh Kinh, giáo sư hỏi học sinh ai có thể cử ra một ví dụ buôn bán tồi nhất, có ba học sinh đưa tay.
Học sinh thứ nhất nói: “Sách Sáng thế ký chương 25 câu 32, vì một bát cháo đậu, mà Ê-sau bán chức vị trưởng nam của mình”.
Học sinh thứ hai nói: “Phúc âm Mát-thêu chương 27 câu 3, chỉ vì ba mươi đồng bạc mà Giuđa Ít-ca-ri-ốt bán sư phụ của mình là Giêsu Kitô”.
Học sinh thứ ba nói: “Phúc âm Mát-thêu chương 16 câu 26 nói: “Con người dù kiếm được cả thế giới, mà mất linh hồn mình, thì có ích gì cho họ chứ ?”
Suy tư 50:
Những cuộc buôn bán nầy đều do lòng tham mà ra: tham ăn, tham tiền, tham danh vọng…
Thời trung cổ có những cuộc mua bán nô lệ, thế kỷ 20 đi qua thế kỷ 21 mua bán thuốc phiện và hình thành những cuộc mua bán trẻ em, mua bán những bộ phận trong cơ thể con người.v.v… tất cả những cuộc mua bán nầy đều bắt đầu từ những cuộc mua bán, đổi chác âm thầm giữa một bên là ma quỷ, thế gian và một bên là lý trí trong tâm hồn của con người, và một khi lý trí chịu lùi bước, bại trận, thì cũng có nghĩa là thế gian có những cuộc mua bán tồi tệ nhất, bởi vì ma quỷ đã làm chủ những cuộc mua bán đổi chác đó.
Bổn phận của người truyền giáo không những nói cho người ta biết về đạo Chúa, tình yêu của Chúa, mà còn có bổn phận ngăn chặn những cuộc mua bán âm thầm đó trong tâm hồn của các tín hữu, bằng những gương sáng sống tinh thần Phúc âm, và nếu cần thì đem cả mạng sống ra để ngăn chặn những cuộc mua bán tồi tệ nhất, thì nhất định cũng phải có những cuộc sống anh hùng nhất để ngăn chặn những tội ác ấy.
-------------------------
TẬP SÁU
VUI VẺ
51. CẦU VUI HOÀN TOÀN
Quote
Taerwen là một người có thói quen hay phàn nàn vạch lá tìm sâu, chỉ cần có một lời gì đó là có thể xảy ra chuyện, mà anh ta thì cảm thấy rất là vui vẻ.
Có một buổi tối, anh ta cùng bà vợ nhận lời mời đi dự tiệc, bữa tiệc nầy được dọn rất là hồ đồ, diễn giảng thì khô khan thiếu mùi vị, ăn uống thì nhạt nhẽo vô vị, phục vụ thì không đủ chu đáo, cái hỏng trước nhất là : một nhà sinh vật học nổi tiếng lại được sắp xếp ngồi hướng về cái cửa thông gió đáng sợ.
Sau khi tiệc tùng kết thúc, anh ta bắt đầu phát bực mình khó chịu, qua một lúc, người chịu trách nhiệm chủ trì buổi tiệc đi qua nói với vợ của Taerwen: “Thật là áy náy, tôi hy vọng ông xã của bà có thể thông cảm cho chúng tôi, chúng tôi hy vọng ở đây ông ta có thể cảm thấy vui vẻ”.
-“Ông ấy cảm thấy rất vui vẻ”, vợ của Taerwen bảo đảm với chủ nhà: “Mỗi một sự việc, ông ta đều có thể tìm ra khuyết điểm”.
Suy tư 51:
Có những người thích tìm khuyết điểm của người khác để chê bai, để đi mách lại cho người khác nghe với một ác ý; có những người thích cười trên những lỗi lầm của người khác mà không nghĩ rằng, cũng sẽ có ngày mình lỗi lầm hơn anh em.
Thích phàn nàn vạch là tìm sâu là người không có đức bác ái, không có lòng nhân và cũng chẳng có lòng dũng cảm, họ là những “người ruồi” gây mầm bệnh cho người khác .
“Người ruồi” ở trong cộng đoàn nào, thì cộng đoàn đó mất đi niềm vui, mất sự phấn chấn, mất bình an  và làm cho cộng đoàn ngày càng úa tàn như sâu đục thân cây vậy.
52. THẬT Ở BÊN TRONG LỘ RA BÊN NGOÀI
Vô danh
Có hai nữ tu từ trường học ở Chicago trở về tu viện trong kỳ nghỉ hè, họ dùng cơm trong nhà ăn của ga xe, thức ăn của họ là bánh sanmingchi và chút ít thức ăn nguội.
Ngồi bàn bên cạnh là một ông lão tuổi đã cao, ông ngẫng đầu lên và thấy họ, liền bắt đầu nhìn chòng chọc, sau đó lại dùng ánh mắt rất là tò mò, tiếp tục nhìn chăm chăm chú chú một vị nữ tu nhưng không làm phiền đến họ. Cuối cùng ông ta lấy hết can đảm đi đến bàn của hai vị nữ tu, cúi đầu chào họ, và nói với vị nữ tu trẻ:
-“Tôi không phải là tín hữu công giáo, tôi cũng không hiểu rõ các nữ tu, nhưng điều gì đã làm cho chị vui vẻ như thế chứ ? Nét vui vẻ trên khuôn mặt của chị là chị lấy được từ đâu vậy ? Chị có một thứ mà tôi tìm suốt cả đời, nhưng cho đến hôm nay vẫn chưa tìm ra được thứ ấy, mà chị thì đã tìm được, chị có thể nói cho tôi biết trong tâm hồn của chị, cái gì đã làm cho chị trưởng thành như thế?”
Đây là một cách làm chứng cho niềm tin, khi mắt người ta có thể nhìn thấy mà không cần mở miệng nói về đạo.
Suy tư 52:
Từ nhỏ tôi đã có ấn tượng không mấy tốt đẹp về các bà xơ dì phước, có lẽ trong suốt thời gian tiểu học và sau nầy tôi chưa thấy một bà xơ dì phước nào hiền như… ma xơ (ma soeur). Thật ra có “chán khối” bà xơ dì phước hiền lành dễ thương và đẹp nữa, có điều là tôi chưa hân hạnh được gặp đó thôi. Tuy nhiên tự tôi, tôi vẫn cảm thấy là hình như các nữ tu của chúng ta bước qua thế kỷ 21 nầy, càng ngày càng hiền lành và dễ thương hơn các nữ tu thời thế kỷ 20.
Người ta thích nhìn và khen ngợi một cô gái đẹp dễ thương, vui tươi.
Nhưng người ta càng thích nhìn và yêu mến một nữ tu hiền lành, nhân hậu và vui tươi hơn, bởi vì nét hiền lành và nhân hậu của các nữ tu được học hỏi nơi Chúa Giêsu (Mt 11,29), sự vui tươi của cá chị em được toả sáng bởi niềm vui của thiên đàng, của sự trong sáng và hồn nhiên.
Có một lúc nào đó người ta không cần các “ma xơ” giảng đạo lý cho họ, nhưng người ta cần nụ cười tươi tắn của các “ma xơ”, cần niềm vui của các “ma xơ”, để người ta tìm thấy Thiên Chúa, tin Thiên Chúa qua những nụ cười đơn sơ hồn nhiên của các chị em.
Đừng đem bộ mặt nghiêm nghị như quan toà khi tiếp xúc với mọi người –nhưng hãy vui tươi.
Đừng có bộ mặt nhăn nhó khó chịu khi người khác làm trái ý mình –nhưng hãy nhớ rằng: mình là một nữ tu.
Đừng liếc xéo người mình không thích, hay người không thích mình –nhưng hãy nhìn thẳng vào lòng mình và nói: nếu họ cũng liếc xéo tôi như vậy thì tôi sẽ thế nào…?
Đó là cách truyền giáo có “phương pháp nhất” của thế kỷ 21 đầy những đa đoan và nhạy cảm nầy vậy.
53. ANH THỢ GIÀY VÀ ĐỒNG TIỀN VÀNG
Willi Hoffsuemmer
Ngày xửa ngày xưa, có một anh thợ giày nghèo khó, nhưng anh vẫn vui vui vẻ vẻ, từ sáng đến tối, vừa vui vẻ phấn khởi làm giàu, vừa thích thú thoải mái hát ca, cho đến lúc nầy mà vẫn còn có rất nhiều bọn trẻ nằm nơi cửa nhà của anh, nhìn anh làm giày, nghe anh ca hát.
Ở sát bên anh là một người rất giàu có, ông ta thường bỏ ra thời gian suốt đêm để đếm tiền, mãi đến sáng mới lên giường ngủ, nhưng ông ta thường ngủ không được, bởi vì anh thợ giày đang cất cao giọng hát.
Có một hôm, người giàu có nghĩ ra được một cách để làm cho anh thợ giày không hát nữa, ông ta ra mặt mời anh thợ giày đến nhà ông ta làm khách, lúc đợi anh thợ giày ra về, ông ta tặng cho anh thợ giày một cái túi nhỏ.
Anh thợ giày về nhà mở ra xem, vạn phần kinh ngạc, bởi vì bên trong toàn là tiền vàng ! Cả đời anh chưa bao giờ được nhìn thấy tiền nhiều như thế, anh bỏ ra rất nhiều thời gian đếm tỉ mỉ từng đồng, trong lòng vừa suy nghĩ vừa sợ, sợ bị người khác nhìn thấy, càng sợ bị người khác ăn cắp mất, cho nên đến buổi tối, anh ta đem cái túi giấu dưới gầm giường.
Nhưng sau khi đã giấu xong, anh ta vẫn nghĩ đến những đồng tiền vàng nầy mà lo ngay ngáy, ngủ không được, cho nên anh lại bò dậy, đem cái túi giấu ở trên gác lững, nhưng một lát sau, càng nghĩ càng thấy gác lững là nơi không an toàn, do đó sáng sớm hôm sau, lại đem tiền xuống khỏi gác lững.
Sau đó anh ta nghĩ: “Đem tiền vàng giấu nơi lò sưởi liền trong tường, không được, không được, hay là bỏ nơi cái lồng gà thì an toàn hơn, bởi vì không ai chú ý đến cái lồng gà đâu”. Sau khi anh ta đem túi tiền nhỏ giấu kỹ, cảm giác bất an vẫn chưa xoá được, cho nên lại đào một lỗ rất sâu ở trong sân, như vậy mới gọi là quyết định cuối cùng của đại sự.
Bởi vì lòng anh ta vẫn hoàn toàn bị tiền chiếm đầy ăm ắp, cho nên không có cách gì để làm giày, càng không thể hát ca, suốt ngày lo lắng, việc gì cũng làm không xong, và càng hỏng bét hơn là bọn trẻ cũng không đến tìm anh ta để chơi đùa nữa.
Về sau, anh thợ giàu quả thật là không vui vẻ chút nào, cho nên anh ta đào túi tiền lên, lập tức đem qua trả lại cho người hàng xóm: “Xin vui lòng nhận túi tiền lại”, anh nói tiếp : “Suốt ngày tôi lo lắng vì nó, báo hại tôi sinh bệnh, hơn nữa ngay cả bạn bè cũng không đến cửa, tôi vẫn cứ làm giày như trước đây của tôi”.
Không bao lâu, anh thợ giày lại thoả mãn và vui vẻ giống như ngày trước vậy, đồng thời anh cũng làm việc suốt ngày không ngừng giống như trước đây, và cũng không ngừng ca hát.
Suy tư 53:
Chúa Giêsu đã nói rất rõ ràng: “Kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em cũng ở đó” (Lc 12,34). Các thánh là những người đã khôn ngoan tìm kiếm kho tàng trên trời, nên lòng dạ các ngài luôn để ở trên trời, “luôn để trên trời” không có nghĩa là các ngài không ngó ngàng chi đến mọi chuyện thế gian, trái lại các ngài rất tích cực chu toàn bổn phận ở trần gian với một tâm niệm: tôi chu toàn bổn phận bây giờ, vì kho tàng của tôi ở trên trời chính là đây.
Tiền bạc tự nó không phải là vật xấu xa, nó cũng không phải là phương tiện xấu, nó xấu là do lòng tham của con người mà ra.
Có những đứa con chỉ vì vài ngàn đồng bạc mà đã giết mẹ mình; có những người vợ vì đua đòi chưng diện nên đã ngoại tình với người khác; có người tan gia bại sản và ngồi tù cũng chỉ vì tham nhũng, mà tham nhũng không phải là tham tiền sao?
Có người đặt giá trị đồng tiền trên tình cảm cha mẹ anh em, bà con bạn hữu; có người chết vì tiền, thất tình vì tiền và lòng dạ đổi trắng thay đen cũng vì tiền.
Nhưng có những người coi đồng tiền không ra cái gìcả, họ cẩn thận sử dụng đồng tiền cũng như sử dụng con dao bén nhọn, xong việc thì bỏ vào chổ của nó, đó là những người đã từ bỏ cha mẹ, anh chị em, bà con, bồ bịch, từ bỏ hạnh phúc cá nhân, nói tắt là họ từ bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa, làm môn đệ của Chúa để ra đi rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho mọi người thấy: gia tài của họ ở trên trời, bằng cách rộng tay giúp đỡ người khác.
54. NƯỚC TRỜI LÀ MỘT BỮA TIỆC VUI VẺ
William Barclay
Trước đây có một vài trường học của Giáo hội không cho phép các em học sinh chơi đùa, bởi vì họ cho rằng “lúc nhỏ ham chơi, lớn lên ham nghịch”. Trường học cũng không có ngày nghỉ, con nít bốn giờ sáng đã thức dậy, giờ thứ nhất mỗi ngày dùng để cầu nguyện và thinh lặng, mỗi ngày thứ sáu đều phải giữ chay, đến ba giờ chiều mới đuợc ăn cơm.
Chúng ta đừng quên, lúc nhỏ Chúa Giêsu Kitô cũng chơi đùa vui vẻ, lớn lên, Ngài cũng biết cười. Chúa Giêsu đã nói Nước Trời là một “bữa tiệc vui vẻ” không phải là một bữa “trai giới”.
Cấm Kitô hữu cái nầy, cấm Kitô hữu cái kia, thì sẽ không được mạnh khoẻ và cũng chẳng có vui vẻ gì cho lắm.

Suy tư 54:
Có dịp ra nước ngoài làm công tác mục vụ, mới nhìn thấy các thanh niên, thiếu nhi Việt Nam của chúng ta ngoan đạo hơn, giỏi giang hơn (giỏi giáo lý) và… tội nghiệp hơn các bạn cùng lứa ở nước ngoài, cụ thể là tại Đài Loan. Tôi làm công tác mục vụ giúp cho cha sở ở một giáo xứ có thể nói là đông giáo dân thứ nhì sau nhà thờ chánh toà, nhưng thánh lễ ngày Chúa nhật “thắp đuốc” cũng không tìm ra được mười thanh niên đi lễ, ngày thường thì đừng hòng tìm được một cô cậu đến nhà thờ. Các trẻ em học giáo lý để được rước lễ, học giáo lý và thánh lễ được quy định là hai giờ chiều ngày chủ nhật, nhưng phải có xe nhà thờ đi đưa rước, bằng không thì… đừng nói chuyện học giáo lý !
Không phải cấm ăn cái nầy, cái nọ mà làm cho bữa tiệc mất vui, cũng như không phải cho “ăn thả cửa, uống thả giàn” bữa tiệc mới vui ! Nhưng chính khi ta đi dự tiệc mà mang một tâm hồn vui vẻ thì bữa tiệc nào mà không vui chứ ? Đó là tiệc rượu trần gian.
Còn tiệc ruợu thiên quốc thì chắc chắn phải có “cấm” mới nếm được mùi vị thơm ngon và trường sinh. Cấm cái gì ? Thưa, cấm mang tội trọng mà đi dự tiệc nước trời ! Thánh Phaolô dạy rất rõ ràng: “…Vì thế, bất cứ ai ăn bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa” (1 Cr 11,27).
Việc cấm nầy rất có lợi cho linh hồn chúng ta được vui tươi, mạnh khoẻ, khang an và trường sinh.
55. CÙNG ĂN VUI VẺ
Frank Mihalac
Trong rất nhiều nền văn hóa, ăn một bữa cơm phải có nghi thức, thời gian và địa điểm đặc biệt, chúng ta dùng cơm một ngày ba bữa phân theo thời gian sáng, trưa và tối, bữa cơm có thể làm cho mọi người tập họp nhau lại, giống như người trong một nhà, có lẽ khi ăn cơm người trong gia đình mới có mặt đầy đủ toàn nhà.
Ăn cơm có thể làm cho người nhà cùng nhau hoà hợp, mà ly hôn cũng chính là “chia giường và chia bàn”, xé khăn bàn ăn, là ý nghĩa người một nhà không hoà hợp. Người lính trước khi vào nhà ăn, phải bỏ lưỡi lê trên súng xuống, tháo băng đạn nơi thắt lưng ra, trong bữa ăn không được phép sinh sự đấu tranh. Nhưng cũng có trường hợp tương phản, là vua Hêrôđe khi dự yến tiệc, đã ra lệnh giết hại ông Gioan Tẩy Giả, và bỏ đầu của ngài trên đĩa mang ra.
Anh có thể không có món ăn đẹp, thức nhắm ngon để tổ chức yến tiệc, dù đón tiếp hay tiễn đưa, trong bất kỳ trường hợp lớn nào, cũng đều phải có thức ăn ngon. Người buôn bán áp-phe khi thảo luận những việc quan trọng, bạn bè khi gặp mặt, khi một người đàn ông nào đó muốn bày tỏ tình ý đặc biệt với người phụ nữ, họ đều cùng nhau đồng bàn cùng ăn một bữa cơm.
Suy tư 55:
Đón người đến : tiệc.
Đưa người đi : tiệc.
Đám cưới : tiệc.
Đám ma : tiệc.
Có thể nói tiệc tùng đóng vai trò khá quan trọng trong đời sống của con người, bởi vì, tiệc là lúc con người tỏ tình thân thiện với nhau. Các cộng đoàn tiên khởi của Giáo hội “đã đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ…” (Cv 2, 46).
Trong các cộng đoàn dòng tu cũng như thế, mọi người đều dùng bữa với nhau vui vẻ, thân thiện, quan tâm đến nhau, bởi vì không một thành viên nào trong cộng đoàn đã ngày ngày cùng nhau dùng bữa, mà lại đi nói xấu cộng đoàn, làm mất uy tín của cộng đoàn, người ta nói hạng người như thế là “ăn cháo đái bát”.
Giuđa Ít-ca-ri-ốt đã dùng bữa với Chúa Giêsu, rồi lại bán Ngài cho người Do thái 30 đồng bạc, thế gian muôn đời nhắc đến tên khốn nạn ấy, “thà người đó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26,24b).
Mỗi ngày chúng ta đều tham dự tiệc thiên quốc, nhưng vẫn có nhiều lần chúng ta “giơ chân đạp nát” hồng ân Thiên Chúa bằng những tội trọng.
56. MĨM CƯỜI
Frederick William Faber
Nụ cười không có giá trị như tiền, nhưng nó có thể cho rất nhiều người, nó làm cho người ta tiếp nhận đầy đủ, nhưng với người lao động vất vả thì nó cũng không vì thế mà biến thành nghèo khổ, nó chỉ được dùng trong một thời gian rất ngắn, nhưng người ta sẽ nhớ nó, có lúc nhớ cách đặc biệt, tiếp tục vĩnh viễn, không một cá nhân giàu có nào mà không cần đến nó, cũng không có một người nghèo khổ nào lại không thể trả giá nó nổi.
Nụ cười sáng tạo sự êm thấm vui vẻ trong gia đình, trong giao dịch nó cũng có thể tăng thêm thu nhập, nó là dấu hiệu tốt nhất của quầy hàng.
Nụ cười khiến cho người có trách nhiệm được sự nghỉ ngơi, làm cho người ủ ê được hoan lạc, nó là ánh mặt trời trong bi thương, nó là đạo tiêu trừ nổi lo buồn trong tự nhiên.
Nụ cười không thể buôn bán, cầu xin, mượn dùng hoặc trộm cắp mà được, ngoài việc nó chủ động cho, nếu không thì đối với bất cứ ai thì cũng chẳng có giá trị gì cả.
Có người rất mệt mỏi, mà mệt mỏi thì không thể cho anh một nụ cười, như vậy thì anh sẽ cho họ một nụ cười của người khác.
Suy tư 56:
Khi cười mà hai khóe miệng cong lên, mắt nhắm tít lại, mặt mày rạng rỡ và giọng cười vui tai, đó là một nụ cười tươi đem lại niềm vui cho kẻ khác.
Ai cũng thích người khác cười với mình, vì nụ cười “nói” được nhiều điều thiện chí; cười cũng làm cho kẻ khác nhức nhối như cười nhạt, cười khinh khỉnh.v.v...
Nhưng nụ cười cũng có mặt “triết lý” của nó: không phải để vuui lòng người yêu mà cười hô hố khi vào thăm bệnh nhân nơi bệnh viện, cũng chẳng phải chỉ “nhếch môi” một chút khi được mọi người ca tụng.
Nụ cười cũng có mặt “tướng học” của nó : đàn bà con gái mà có giọng cười the thé là khắc chồng, khắc con cái và cô độc. Đàn bà mà cười hi hí như ngựa, thì tính dâm đảng, thiên về nhục dụcv.v...
Đàn ông con trai mà cười hô hố là lỗ mãng, không câu nệ hình thức; cười ha ha là người phóng khoáng, không chấp xét chi tiết, thông minh...
Nhưng đó là phân tích của các nhà tướng học, còn chúng ta thì hãy cứ trao cho nhau nụ cười thân ái, bình an và hoan lạc.
Chúng ta tử tưởng tượng xem: nếu trong cộng đoàn không ai biết cười cả thì sao nhỉ !!!
57. GIĂM BÔNG VÀ TRỨNG GÀ
Bruno Hagspiel
Một ngày nọ, có một con gà mái và một con heo nhỏ cùng đi tản bộ, chúng nó nhìn thấy bên đường một tấm bảng hiệu lớn của quán viết hàng chữ “trứng giăm bông”.
Con gà mái liền nói với người bạn đồng hành của nó:
-“Thế nào, cậu cảm thấy đắc ý chứ ! Cậu thử nghĩ mà coi, loại bảng hiệu nầy trên toàn thế giới đều có!”
-“Đúng rồi!” - Con heo nhỏ nói: “Nhưng bà chị đừng có quên, với loại gà như các chị thì đó chỉ là thành quả của một ngày; nhưng với loại heo chúng tôi thì là hy sinh cả một đời đấy”.
Suy tư 57:
Giăm bông làm bằng trứng gà hay giăm bông bằng thịt heo thì cũng là để cho con người dùng mà thôi, có hơn nhau chăng là tuỳ khẩu vị của mỗi người.
Cũng như trong Giáo hội có nhiều cộng đoàn, có cộng đoàn lâu đời và có cộng đoàn mới thành lập; có cộng đoàn truyền giáo và có cộng đoàn chiêm niệm, muôn màu muôn vẻ. Nhưng tất cả các loại hình thức cộng đoàn ấy đều vì một mục đích duy nhất: Loan truyền Phúc âm của Thiên Chúa.
Có hơn nhau chăng là mỗi một thành viên trong công đoàn khác nhau ấy, có thực sự đi đúng đường lối của Giáo hội và Hội quy của dòng  không mà thôi !
58. VUI VẺ CẦN PHẢI KINH DOANH
Frederick Ebright
Khi tâm tình của tôi chìm lắng, tôi sẽ viết cho bạn bè một bức thư, đem buồn bực của tôi nói cho họ biết.
Nhưng tôi không gởi bức thư ấy, tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai cũng gởi cho một người như thế, trong lá thư thứ hai, tôi sẽ cẩn thận tránh đề cập đến những việc xui xẻo ấy, ngược lại, tôi sẽ dùng những tin tức tốt đẹp thay thế nó.
Đợi đến lúc thư viết xong, thì sự lạ cũng đồng thời xuất hiện, tôi thật cảm thấy rất là thoải mái. Vả lại một lá thư vui vẻ, vẫn sẽ được một lá thư hàm ý vui vẻ gởi lại. Cho nên thu hoạch của tôi tăng gấp đôi.
Suy tư 58:
Kinh doanh cũng có nghĩa là đầu tư.
Đầu có nghĩa là ném vào, bỏ vào…
Tư có nghĩa là của cải, tiền vốn. Đầu tư có nghĩa là bỏ vốn ra để làm một công việc nào đó có lợi, đầu tư càng nhiều thì lợi nhuận càng lớn.
Ta đem vui vẻ của mình đầu tư vào những người mà ta gặp trên đường đi, trong xưỡng làm việc, nơi trường học…
Ta đem niềm vui và nụ cười của mình đầu tư vào những trẻ em mồ côi, tàn tật… để rồi được cả vốn lẫn lời trong ngày phán xét của Chúa : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta khát các ngươi đã cho uông, Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc…” (Mt 25, 31-46).
Hãy nhân rộng lên những niềm vui, bắt đầu từ chúng ta trước.
59. VUI VẺ GIÚP NGƯỜI
Charlene Johnson
Một phụ nữ dung mạo đẹp đẽ, y phục cầu kì, trang sức khéo léo, đi tìm một nhà tâm lí phụ đạo và trò chuyện với ông. Nhà tâm lí phụ đạo phát hiện cuộc sống của người phụ nữ nầy hoàn toàn bị ham muốn vật chất lấp đầy, và cuộc sống của bà lại hoàn toàn trống rỗng. Bà yêu cầu ông chồng quá nhiều thứ : nhà cửa, xe hơi, áo quần trang sức, đồ dùng gia đình… khiến cho chồng bà cung ứng không kịp, ý chí suy sụp, gần như phá sản, cuối cùng họ chỉ có cách là chia tay.
Người cố vấn giới thiệu bà ta làm quen với một người làm công tự nguyện mà tuổi đã cao, ông ta nói : “Bà có thể nghe bà ấy kể làm sao mà bà ta tìm được niềm vui trong cuộc sống”.
Bà ấy liên lạc với người làm công tự nguyện, người làm công tự nguyện nói với bà: “Chồng tôi bị bệnh viêm phổi mà chết, ba tháng sau, đứa con trai duy nhất của tôi cũng chết vì bị tai nạn xe. Tôi không có người thân, cũng không có tài sản, lâm vào cảnh tuyệt vọng, ngủ không được, ăn nuốt cũng không xuống, từ trước đến nay không cười với ai cả, thậm chí tôi muốn tự tử. Một hôm trời đã tối, lúc tôi tan ca trở về nhà, thì có một con mèo nhỏ vừa ốm vừa bẩn chạy theo tôi. Tôi cảm thấy nó rất tội nghiệp, bên ngoài trời lại lạnh, cho nên tôi liền mang nó về nhà. Cho nó ăn một chút sữa bò, nó thích thú kêu meo meo, cọ sát vào chân tôi, mấy tháng nay, lần thứ nhất tôi cười!”
“Sau đó tôi bắt đầu suy nghĩ, nếu giúp một con mèo nhỏ mà có thể làm cho tôi cười được, như vậy nếu giúp cho người ta một chút việc, thì không phải càng có thể làm cho tôi vui vẻ sao ? Cho nên ngày hôm sau, tôi liền làm một ít bánh ngọt, đi thăm người lân cận bị bệnh nằm trên giường sát cạnh nhà tôi. Mỗi ngày tôi thử làm một chút việc tốt có ích đối với người khác, nhìn thây họ thích thú, thì tôi vui vẻ. Tôi nghĩ, ngoài cá nhân ra, họ có thể muốn giúp người khác mà không được bao nhiêu, thì họ mới không vui sướng nổi, không biết bây giờ có ai ăn được ngủ ngon như tôi không, bởi vì tôi đã tìm được niềm vui !”
Người đàn bà giàu có nọ đã khóc, bà rất nhiều tiền, muốn mua cái gì, thì có thể mua được cái đó, nhưng bà cầm tiền không được và cũng không mua được thứ gì. Bà ta hạ quyết tâm: “Tôi phải bắt đầu làm một người, chứ không làm một đứa ngu xuẩn như con nít ”.
Suy tư 59:
Có người nói: tôi già rồi, bắt đầu làm lại cuộc đời thì trễ quá, muộn quá… đó là tâm trạng của những người bi quan, nhìn đời cũng tối mù như tâm hồn của mình.
Nhưng cuộc sống luôn luôn đẹp và đổi mới mỗi ngày.
Đối với người có quyết tâm thì không có gì là muộn cả, Chúa Giêsu đã bảo đảm với chúng ta điều đó: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15,7). Chúa Giêsu không nói : trên trời sẽ vui mừng vì có người ăn năn sám hối khi đúng 20, 30 hoặc 50 tuổi, có nghĩa là Ngài không ấn định tuổi tác, chức vụ nghề nghiệp… để làm tiêu chuẩn sám hối, trở lại.
Làm lại cuộc đời ngay bây giờ, có nghĩa là khi chúng ta nhận ra được cái tội lỗi xấu xa, cái dở ẹt của mình, Thiên Chúa kiên nhẫn với tội của chúng ta, chỉ sợ rằng đời sống con người có hạn, mà sự kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng ở trong giới hạn cuộc sống ấy mà thôi.
“Phải luôn luôn khởi sự lại.
“Phải luôn luôn tu chỉnh thêm…” .
60. HOAN LẠC TRÀN NGẬP NHÀ THỜ MỪNG PHỤC SINH
Father Manton
Thế kỷ trung cổ, trong lễ nghi mùa Phục sinh có một tập tục rất đặc sắc là người giảng đạo trong lúc giảng, có thể làm cho tín hữu cười lớn vui vẻ.
Người giảng sẽ chuẩn bị một vài câu chuyện cười, để trong lễ nghi kể cho tín hữu nghe, chuyện cười hoặc chuyện ngụ ngôn, mọi người nghe và cười vui vẻ cả nhà thờ. Bởi vì mùa Phục sinh là thời kỳ tràn ngập tiếng cười, là thời kỳ phục sinh của mỗi một người, cũng là thời kỳ hát vang “Alleluia”.
Suy tư 60:
Thánh lễ, tự nó là một việc hiến tế, một lễ hy sinh vô giá và là một niềm vui khôn tả.
Không một tử tội nào khi được tòa tuyên bố trắng án mà lại buồn rầu ủ rủ được, trái lại họ rất vui mừng, nếu có thể được thì họ sẽ nhảy lên, vung tay cao lên và tạ ơn trời đất, mọi người có mặt cũng sẽ chia vui với niềm vui của họ. Cũng vậy, tất cả chúng ta đều là những tội nhân, đã được toà án công minh của Thiên Chúa tuyên bố trắng án trong một lễ nghi ký kết giao ước bằng máu Con Một của Ngài –Đức Giêsu Kitô- trên đồi Calvê năm xưa, “Tất cả anh em hãy uống chén nầy, vì đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội..” (Mt 26, 27-28).
Chúng ta đã có một hiến tế đền tội, một của lễ hy sinh, vậy thì tại sao chúng ta lại không vui mừng hân hoan khi tham dự thánh lễ chứ ? Đừng đánh trẻ em trong nhà thờ, nhưng hãy nhắc nhở và làm gương cho chúng nó, cũng đừng trợn mắt giận dữ khi người bên cạnh thắc mắc một vài điều…
Hát vang lên, hát cả tâm hồn vì chúng ta đã được cứu sống, nhưng cũng nên nhớ rằng, Thiên Chúa đã tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta cũng hãy tha thứ cho anh em, cho người thân cận của mình (Mt 6, 9-15).
Đó chính là nhiềm vui phải có khi tham dự thánh lễ.
----------------------------------
 
TẬP BẢY
 

ĐAU KHỔ
 
61. XÓA BỎ LO BUỒN CÓ PHƯƠNG PHÁP
Norman Vincent Peale
Nhà chế tạo phim điện ảnh nước Anh là J. Arthur Rank có một phương pháp giải quyết buồn bực rất là độc đáo. Tất cả những buồn bực trong lòng ông ta đều tập trung giải quyết trong ngày thứ tư, ông gọi ngày đó là “câu lạc bộ ngày thứ tư –xoá bỏ buồn bực”.
Những chuyện lòng buồn trí rối trong cuộc sống thường ngày, ông chỉ viết nó trên giấy, đặt vào trong một cái hộp. Đợi đến ngày thứ tư khi mở hộp ra, ông liền phát hiện những nguyên nhân buồn rầu của ông đã tan biến hơn một nửa. Một số ít không thể giải quyết được, thì lại để trong hộp, đợi đến thứ tư tuần sau hãy hay. Ông đã dùng phương pháp nầy để trị tốt những khuyết điểm âu sầu rầu rĩ của mình.
Suy tư 61:
 
 
62. DÂY CÓT
Ralph W. Sockman
Có một lần tôi đem cái đồng hồ Thụy sĩ đắt tiền đến thợ sửa đồng hổ để sửa chữa.
Ông thợ đồng hồ hỏi tôi: “Mỗi ngày anh lên dây cót vào lúc nào?”
Tôi trả lời: “Buổi tối, trước khi tôi đi ngủ”.
“Ai dà”, ông thợ đồng hồ nói, “đồng hồ tốt nhất, vẫn là lên dây cót vào lúc ban sáng, bởi vì, như thế đồng hồ mới có thể bắt đầu một ngày dưới tình trạng dây cót mạnh mẽ, nó có thể chịu đựng được sự va chạm và chấn động cách tương đối”.
Tâm hồn của con người chúng ta và tình hình của cái đồng hồ rất giống nhau, nếu dây cót của chúng ta do Thiên Chúa đặt vị trí cường độ mạnh mẽ để bắt đầu một ngày, thì nhất định có thể khiến cho chúng ta chịu đựng được rất nhiều điều không vui vẻ và trắc trở.
Suy tư 62:
Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, tôi thấy rằng mỗi buổi sáng thức dậy sớm (4 giờ sáng), tập thể dục, chạy bộ hoặc là luyện võ công, thì sẽ có một ngày vui vẻ sảng khoái. Các nhà Hiệp khí đạo nói rằng, buổi sáng thức dậy với một ý tưởng vui vẻ, thì trong ngày sẽ luôn được thoải mái, mọi công việc giải quyết cách dễ dàng… Đó là phần thân xác.
Còn phần hồn thì sao?
Cha Vincent Lebbe rất chú ý đến việc suy niệm vào buổi sáng, ngài nói: “Suy niệm vào buổi sáng sớm giống như thể dục buổi sáng, chính là lúc đời sống tinh thần tu đức của chúng ta “hít thở thật sâu”, cần để cho tinh thần của Thánh Thần thấm vào các phương diện đời sống tinh thần tu đức…” . Hội dòng chúng tôi có quy định cho mỗi thành viên mỗi ngày phải có ba mươi phút suy niệm riêng tư vào buổi sáng trước khi thánh lễ, đó cũng là một “cách tập thể dục” cho tâm hồn được khoẻ mạnh, để chịu đựng được những thử thách trong ngày.
Quả thật, không có gì vui sướng và hạnh phúc cho bằng sáng sớm sau khi tập thể dục cho thân xác khoẻ mạnh, rồi yên tĩnh suy tư với tinh thần vui tười và yêu mến, đây chính là lúc chúng ta bàn hỏi với Chúa kế hoạch trong ngày của mình. Các thánh đều làm như thế cả !
63. LẤY ĐAU TRỊ ĐAU
The Sign
Mỗi buổi tối lúc sáu giờ, thì có một người xem ra mệt đớ người, ở cố định tại Da-di-tie, phố 42, Nữu ước, đồng thời mỗi buổi tối anh điều khiển chiếc xe với cái chân rất đau của anh.
Có một lần chiếc xe hỏi anh: “Nếu đôi giày đó của anh vẫn làm cho anh không thoải mái, tại sao anh không mua một đôi giày mới chứ?”
“ À ra thế à”, người ấy nói tiếp : “Cuộc sống của tôi thực là đáng thương, một năm trước đây, vợ tôi bỏ đi, con trai của tôi ở trong tù, con gái tôi thì xa nhà, việc duy nhất khiến cho tôi cảm thấy thoải mái là, mỗi buổi tối sau khi về nhà, cởi đôi giày ra, lúc đó là thời gian rảnh”.
Suy tư 63:
Cũng như có những bài thuốc nam “lấy độc trị độc” thì mới công hiệu khi trị bệnh, nhưng có vài trường hợp phản tác dụng khi gặp những căn bệnh không chịu được cách trị ấy. Lấy đau trị đau có hai tác dụng : một là lành hai là đau nặng nề thêm, chẳng hạn như nói : tôi muốn lấy độc trị độc để trị thú vui cờ bạc, nên tôi đi vào trong sòng bạc coi họ đánh bài, để coi tôi có chịu đựng được “máu cờ bạc” đang chạy rần rần trong huyết quản của tôi không?
Đời sống tâm linh của chúng ta cũng thế, không thể “lấy độc trị độc” khi chưa có đờisống cầu nguyện, chưa có một quyết tâm sắt đá, càng dễ sa ngã thì càng có quyết tâm, càng có sự cầu nguyện liên tục mới có thể “lấy độc trị độc”. Bằng không chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài, cũng có nghĩa là, nếu chúng ta liều lĩnh lấy “độc trị độc” khi chưa được chuẩn bị gì cả, thì không những thân xác lây bệnh, mà linh hồn cũng mất luôn.
Tốt nhất là quyết tâm sữa đổi đời sống trong niềm tin cậy, khiêm tốn và yêu mến vào Thiên Chúa quan phòng.
64. CON ĐƯỜNG ĐỂ THẮNG KHẮC KHỔ
William Barclay
Có một thanh niên vào trong sở thú yêu cầu được làm người thuần phục sư tử, anh nói rằng bác sĩ của anh nói anh có thần kinh suy nhược nghiêm trọng, nếu làm một loại công việc có dũng khí gan dạ và hiểu biết, thì có thể giúp cho anh quên đi việc mình thường sinh ra sợ hãi.
Cho nên trước đây anh ta đã hưởng ứng nhập ngũ để có thể nghĩ đến những công việc nguy hiểm, sau nầy quả nhiên anh ta trở thành một người thuần phục sư tử nổi tiếng, đồng thời cũng trị được khuyết điểm thần kinh suy nhược của mình.
Suy tư 64:
Có những cô gái bình thường rất sợ thấy xác chết, nhưng khi gia nhập vào Legio Maria thì can đảm hẳn lên, bởi vì cô đã rất thường xuyên đi thăm các gia đình giáo dân và các gia đình không phải giáo dân, cô đã nhiều lần đi đến nhà xác đọc kinh và giúp Linh mục dâng lễ…
Bản tính con người rất yếu đuối cả xác lẫn hồn, phần xác thì phải được bồi dưỡng nhiều chất bỗ dưỡng để khoẻ mạnh. Phần hồn thì Chúa Giêsu đã lo liệu, Ngài đã lập 7 Bí tích để cho linh hồn của chúng ta được kiện khang và được sống đời đời. Người siêng năng lãnh nận các bí tích thì ma quỷ khó mà cám dỗ được, bởi vì linh hồn đã được mạnh khỏe và trở thành cung điện của Thiên Chúa.
Ai có nếm qua mùi đau khổ, mới nhìn thấy đau khổ là một ông thầy nghiêm khắc khi “dạy” học trò, đồng thời đau khổ cũng là phương thuốc linh nghiệm để chữa trị bệnh kiêu ngạo của chúng ta.
Chúa Giêsu đã chọn con đường khổ nạn để cứu chuộc chúng ta, Ngài muốn mỗi người trong chúgn ta cũng chọn con đường khổ nạn để thánh hoá mình và cầu nguyện cho người khác. Con đường khổ nạn của chúng ta là: bị hiểu lầm, bị bạc đãi, bi vu oan giá hoạ, bị khinh chê…
65. ÁCH DỊU DÀNG
Bruno Hagspiel
Có một người vẫn cứ lớn tiếng phàn nàn với Chúa Giêsu rằng anh ta không thể vác cây thập giá quá nặng ấy được.
“Đi theo Ta” - Chúa Giêsu dẫn anh ta đi đến một cửa hàng chuyên môn chế tạo thập giá, trong cữa hàng đặt rất nhiều thập giá đủ cỡ đủ loại kích thước.
Chúa Giêsu cười nói: “Con đi vào coi thử coi, nếu coi mà thích cây nào thì vác cây ấy”.
Người ấy bèn vội vàng đi vào trong cửa hàng, trước tiên đem cây thập giá của mình trên vai xuống đặt trên bức tường, sau đó anh ta không chế ngự được sự vui vẻ, xoa xoa hai tay, rồi hả hê cười lớn. Anh ta nói một mình: “Đây có thể là một cơ hội lớn mà ta đợi cả đời, nếu ta không thể không vác thập giá, thì sẽ không mang một cây thập giá trở thành nặng nề, ta sẽ chọn một cây thật thích hợp với mình”.
Vì vậy mà anh ta thử cây nầy, rồi lại thử cây kia, chọn tới chọn lui, kết quả vẫn không có cây thập giá nào thích hợp với anh: có cây thì quá dài, vác lên đi sau đó thì té ầm xuống mặt đất; có cây thì quá ngắn, tất cả sức nặng đè trên vai; có cây thì quá nhẹ, gió thổi một cái thì lung lung lay lay; có cây thì quá nặng, cả khúc gỗ lún vào cả trong thịt.
Chính lúc anh ta hình như nhụt chí tuyệt vọng, thì liếc nhìn lên tường thấy còn dựng một cây thập giá, anh ta liền đi lên, trước tiên thử coi lớn nhỏ, rồi lại đặt nó trên vai vác đi một đoạn, sau đó mặt mũi tươi cười quay lại nói với Chúa Giêsu : “Chính là cây nầy! Đây là cây thập giá mà con vẫn mong tìm được, con quyết định vác nó”.
Thế là anh ta cùng với Thiên Chúa đi ra khỏi cổng, Chúa Giêsu cũng mặt mày tươi cười với người vác cây thập giá, Ngài nói: “Ta rất là phấn khởi khi con vác cây thập giá nầy, bởi vì nó chính là cây thập giá của con trước đây”.
Suy tư 65:
Rất nhiều người mang thập giá trên ngực, đủ cỡ đủ loại thập giá: bằng vàng, bằng bạc, bằng gỗ, bằng mi-ca… nhưng mấy ai ý thức được thập giá mình mang có một ý nghĩa rất thiêng liêng: nhắc nhở chúng ta đã được cứu chuộc bằng cây thập giá nầy.
Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Thập giá, nói theo ý nghĩa thiêng liêng chính là bổn phận của mỗi người, “từ bỏ chính mình” là khi làm bổn phận được giao phó, chúng ta không còn nghĩ đến cá nhân của mình nữa, mà chỉ nghĩ đến ích lợi của công đoàn vàa của tha nhân; “vác thập giá mình” là khi chúng ta chu toàn công việc bổn phận được giao phó, đó chính là vác thập giá rồi vậy.
Nhưng cũng có một loại thập giá mà ít người nghĩ đến, đó là “chịu đựng những khuyết điểm của người khác” mà không trách móc, giận hờn hay khó chịu. Chị thánh Têrêxa nhỏ đã tìm ra được loại thập giá nầy, tuy nhỏ nhưng cần có sự can đảm và hy sinh rất lớn, và chị cảm thấy sung sướng khi “vác” nó, chị viết cho Mẹ Đáng Kính de Gonzague: “Thưa Mẹ, Mẹ xem đây, con là một linh hồn rất nhỏ mọn chỉ biết dâng Chúa những việc rất nhỏ mọn thế thôi. Thật là việc hèn mọn chẳng đáng gì, song đã đem lại cho con được bình an vui vẻ trong lòng lắm. Tuy nhiên con cũng đã hờ hửng bỏ qua rất nhiều dịp…” .
Chịu đựng những khuếyt điểm của người khác, cũng là đồng thời chúng ta nhìn thấy những khuyết điểm của mình để sửa đổi và thông cảm cho anh am, chị em. Thập giá không phải là biểu tượng của tủi nhục, nhưng là của vinh quang và chiến thắng. Bổn phận không phải là cái ách àm là nhiệm vụ vẻ vang đối với người Kitô hữu.
Khuyết điểm của người khác là thập giá của chúng ta, cũng như chúgn ta làa thập giá của người khác. Vui vẻ vác thập giá chính là vui vẻ chịu đựng khuyết điểm của người khác vậy.
66. NÓ PHẢI QUA ĐI
Wilbert E. Scheer
Có người hỏi anh ta: “Anh thích nhất đoạn nào câu nào trong Thánh kinh?” - Anh ta sẽ chọn là: “Nó phải qua đi”. Người khác cảm thấy rất là kỳ quái, bởi vì trong Thánh Kinh hoàn toàn không có câu nào như thế. Nhưng anh ta vẫn giữ vững câu “nó phải qua đi” và nói nó rất có ý nghĩa với anh ta.
Cứ mỗi lần gặp sự khốn khó, anh ta liền nghĩ đến câu nầy, trục trặc và khó khăn đều không nán lại lâu ngày, đều phải qua đi. Câu nầy dạy bảo anh ta rất nhiều giáo huấn đặc sắc, cũng sản sinh ảnh hưởng đối với cá tính và nhân cách của anh ta. Bất cứ việc gì đều không phải là kết cục, mọi việc đều không nán lại lâu, mỗi sự việc đều sẽ trở thánh quá khứ.
Suy tư 66:
Việc vui cách mấy cũng sẽ qua đi, chuyện buồn cách mấy cũng sẽ qua đi, nói tắt một lời: mọi việc trên trần gian nầy đều sẽ qua đi như mây khói, nó sẽ không tồn tại lâu dài, bởi vì:
“Có một thời để khóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhảy…”
“Một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hòa” (Gv 3, 4 và 8).
Mọi việc chỉ có một thời thôi, một thời rồi sẽ qua đi, nhưng việc làm của người công chính thì vẫn tồn tại, và dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu (Hc 44, 11).
Đừng băn khoăn vì nững tội đã qua, nhưng sau khi được tha thứ, thì hãy nhớ lấy để tăng thêm lòng kính mến Thiên Chúa. Cũng đừng vui mừng thái quá vì những thành tựu của mình, nhưng hãy ca ngợi Thiên Chúa, vì việc làm nào của con người cũng có giới hạn và qua mau.
67. CON SÂU RƯỢU
Pulpit Helps
Có một gia đình có hai con trai, ông bố là một người nghiện rượu, sau khi con cái đã lớn, mỗi người phát triển cách độc lập.
Lúc bấy giờ có một nhà tâm lý học lấy đề tài gia đình không hạnh phúc ảnh hưởng trên trẻ em để nghiên cứu, ông tìm đến hai anh em nhà nầy. Một người thì đã nghiện rượu như bố của anh ta, trở thành một con sâu rượu không có chút hy vọng gì cả; người kia thì trở thành người cai rượu, một chút rượu cũng không nếm.
Nhà tâm lý học hỏi người trước: “Tại sao anh trở thành một người nát rượu?” –Và hỏi người sau: “Tại sao anh trở thành một người cai rượu?”
Hai người đều cho đáp án giống nhau: “Ông có một ông bố như ông bố của chúng tôi vậy, ông có thể trở thành cái gì chứ?”
Suy tư 67:
Tôi đã thấy một gia đình ông bố rất nghiện rượu, nhưng con cái chẳng có đứa nào biết uống rượu cả, và tôi cũng đã thấy một gia đình ông bố không biết uống rượu, nhưng con cái htì rượu chè cả ngày? Thật tương phản.
Cũng như chúng ta, mỗi người đều có “hai đứa con”: đứa thiện và đứa ác. Chúng nó đều cùng tồn tại trong cuộc sống của mình, mọi người đều thấy được nó qua hành vi của chúng ta: làm điều xấu và thực hành điều thiện.
Chúng ta sẽ trở thành cái gì khi chúng ta làm điều ác, và sẽ trở thành cái gì khi chúng ta thực hành điều thiện.
Mỗi người tự trả lời thì sẽ có m6ọt đáp án tốt, và đem thực hành ngay trong cuộc sống đời thường của mình.
68. LỜI CỦA NGƯỜI NÁT RƯỢU
Religious Telescope
Nếu anh là một người đầy nam tính đã kết hôn, như vậy thì anh nên uống thả cửa thứ nước vàng .
Từ quầy rượu nhỏ ở bên ngoài nhà, bắt đầu thưởng thức rượu ngon, anh làm một người khách duy nhất của quầy rượu cũng có thể được, bởi vì như thế có thể giảm bớt phiền phức đi xin giấy phép, chỉ cần đưa nơi chổ ngồi của bà xã hai mỹ kim, là có thể mua tới hai galon rượu whisky, xin nhớ cho điều nầy, một galon được sáu mươi chín ly, cho nên mua rượu với bà xã thì ít vốn mà hiệu quả lớn.
Đợi anh uống hết galon thứ nhất, quý phu nhân sẽ ghi sổ, có thể gởi vào ngân hàng ăn lợi tức, hơn nữa còn có tiền lãi ròng để sau nầy bắt đầu làm buôn bán. Nếu anh còn thọ thêm mười năm, thì trong vòng mười năm vẫn cứ mua rượu của bà uống cho say , đợi đến một ngày nào đó anh bị thứ nước vàng nầy rót vào mà chết, mặc dù quý phu nhân trở thành quả phụ, nhưng tiền đã có đủ, vì sĩ diện mà đem anh đi chôn, rồi còn có thể nuôi nấng con gái của anh thành người, ngoài ra lại còn đủ tiền mua một căn nhà, sau đó kiếm một người để đính hôn, tái giá với một người đứng đắn, và sau đó thì quên anh sạch sành sanh!
Suy tư 68:
Đó là lời của người nghiện rượu “khuyên” những ông chồng nghiện rượu, một lời khuyên có tính kinh nghiệm và… chết chóc.
Nhưng cũng có một lời khuyên cho những người đã “lánh chốn hồng trần” để làm môn đệ Đức Kitô:
“Con hãy chừng mực trong cách ăn uống, vì khi ăn uống, sẽ nói lên tư cách của con là một mục tử tốt lành hay bê tha!”
“Con hãy nâng ly chúc mừng các khách dự tiệc, nhưng con đừng để cho người ta đánh giá con là một người nghiện rượu!”
“Giáo dân sẽ không hài lòng khi thấy vị mục tử của mình uống qua ly rượu thứ ba, khi con uống qua ly rượu thứ tư, thì họ sẽ coi con là người như họ, không đáng kính trọng!”
“Giáo dân sẽ rất vui mừng và hãnh diện cùng đồng bàn với con, nhưng họ sẽ rất buồn và lấy làm nhục khi thấy con uống hết ly rượu nầy qua ly rượu khác!”
“Con cũng nên nhớ điều nầy: trước khi dâng thánh lễ, con đừng bao giờ uống một giọt rượu nào cả, nếu con không muốn giáo dân sẽ nói con là: ông cha rượu!” (Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.).
69. CẦN PHẢI VÙNG VẪY
Christopher Notes
Có một người nhặt được cái kén của con ngài, anh ta đem nó về nhà, muốn quan sát coi con ngài làm thế nào mà ra khỏi cái kén được.
Có một ngày, có một chổ nứt xuất hiện, con ngài vùng vẫy bên trong rất nhiều giờ, nhưng vẫn không thể dùng thân của nó để chui ra khỏi lỗ thủng được.
Người ấy bèn làm một quyết định sai lầm, anh ta cầm cái kéo, cắt cái kén, con ngài chui ra rất dễ dàng, nhưng vóc dáng của nó thì béo phệ ục ịch, còn hai cánh thì vừa nhỏ lại vừa xoắn.
Anh ta hy vọng qua một hai giờ sau, cánh của con ngài có thể phát triển dài ra tự nhiên, hiện ra vẻ đẹp cần có, nhưng trước sau con ngài vẫn chưa thể duỗi hai cánh ra được, cuối cùng cuộc sống của nó chỉ có thể kéo lê cái vóc dáng ục ịch, đôi cánh thì cuốn rút lại, chuyền đất mà đi.
Con ngài cần phải vùng vẫy mới có thể làm sứt mẻ cái lỗ nhỏ nhỏ ấy, đó là xuất phát từ thiết kế của Thiên Chúa, bởi vì như thế mới có thể ép buộc thể lỏng ở trong thân thể chuyển ra đôi cánh, một nhát kéo từ bi, trên thực tế là một việc tàn nhẫn.
Có những lúc vùng vẫy cũng rất là cần thiết cho chúng ta.
Suy tư 69:
Hồi còn nhỏ, tôi cũng đã có một lần làm cái công việc “từ bi” tai hại như thế: một bầy gà con mới nở, những con ra trước chạy nhảy rất dễ thương, tôi thấy còn có mấy con mới chui ra được một nửa cái vỏ trứng, bèn cầm nó lên, gở vỏ trứng cho nó ra ngoài, khoảng hai giờ sau nó chết mất tiêu, lại bị mắng là “đồ ngu”, lớn lên mới biết là ngu thật.
Con gà con hay con kén, cần phải vùng vẫy mới thoát ra được cái vỏ, cái kén của nó, đó là tạo hoá đã đặt như thế, con người chúng ta không cần phải tỏ lòng “từ bi” với chúng nó.
Một người vũng vẫy sắp chết chìm trong nước, chúng ta kéo họ lên khỏi nước, làm cho họ được tỉnh lại, đó là một việc làm đạo lý; cuộc sốntg của người anh em đang vùng vẫy trong tội lỗi, càng vùng vẫy càng bị những tội lỗi ràng buộc, chúng ta có bổn phận kéo họ ra khỏi vũng bùn tội lỗi ấy, đó là đạo lý của tình yêu, nhưng hãy coi chừng, cứu người vùng vẫy trong nước mà chúng ta không có bản lĩnh, nghĩa là nếu ta không biết bơi lội, thì chính họ sẽ làm ta chìm theo họ.
Cũng vậy, cứu người anh em đang vùng vẫy trong tội lỗi, nếu chúng ta không có một đời sống nội tâm: cầu nguyện, ăn chay và đầy lòng bác ái, thì thay vì cứu họ, họ lại ràng buộc chúng ta với họ trong tội lỗi, đến lúc nầy thì chỉ có mà… chết sớm.
70. GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ
Vô danh
Một viên ngọc trai là do một hạt cát len vào trong vỏ trai mà hình thành.
Hạt cát làm cho kích thích và đau nhức, bên trong vỏ trai tiết ra dung dịch, để làm cứng và bao quanh hạt cát ấy, kết quả là tạo ra thành một hạt ngọc đẹp đẽ quý giá.
Lúc chúng ta gặp đau khổ chảy nước mắt và chịu đựng những công kích, thì cũng có thể sản sinh ra hạt trân châu… “Nước trời giống như viên ngọc quý…”
Suy tư 70:
Kinh nghiệm cho thấy, những người đã đi qua những đau khổ, thử thách thì họ điềm đạm hơn và hiền lành hơn. Các thánh cũng thế mà thôi, các ngài nên thánh cũng là nhờ đón nhận những đau khổ như thập giá Chúa gởi cho ngài, vậy thì có thể nói thêm: đau khổ làm cho con người trở nên thánh.
Không có đau khổ, thì những người lành chỉ như những cây hoa kiểng mà thôi, chỉ để cho người ta ngắm chứ không… ăn được (có trái đâu mà ăn!). Vì vậy, Thiên Chúa gởi đau khổ đến cho họ, để từ trong đau khổ nầy, họ học được những bài học lành thánh như: khiêm tốn, nhẫn nại, hy sinh, yêu thương v.v… rất nhiều thứ, và họ trở thành những nhà đạo đức mô phạm cho chúng ta, hay nói cách khác, họ sản sinh những hoa quả ngon ngọt cho chúng ta ăn.
Không một vị thánh nào mà không nếm mùi đau khổ, chị thánh Têrêxa Nhỏ đã đau khổ vì bị chị em trong dòng chế nhạo, nói hành nói tỏi; Thánh Anfongsô Maria de Liguori vào cuối đời đã bị chính con cái của mình đuổi ra khỏi dòng mà mình đã sáng lập. Đau khổ là công cụ mà Thiên Chúa dùng để gọt giũa tâm hồn chúng ta cho đẹp hơn, óng ánh hơn, để chúng ta xứng đáng với vị trí con của Ngài hơn.
Đương nhiên không có đau khổ nào vượt quá sức chịu đựhg của con người, Chúa đã hứa như thế: “Ơn Ta đủ cho ngươi”.
-------------------------------------
TẬP TÁM
 
CẦU NGUYỆN
 
71. CẦU NGUYỆN CỦA TU VIỆN
William Bausch
Thời trung cổ, rất nhiều vị giáo sĩ giống như những tín hữu bình thường: không biết chữ, nhưng mỗi buổi sáng sớm, họ cũng tiến vào nhà thờ, trước mặt có một quyển Thánh kinh. Trong bầu khí im lặng, họ lắng nghe một tu sĩ đọc lớn tiếng một đoạn kinh thánh. Sau khi vị tu sĩ đọc xong một đoạn kinh thánh ngắn, thì cúi lạy và lui về chổ của mình, giữ gìn thinh lặng, sau đó vị tu sĩ ấy đứng lên, đọc lại đoạn văn như thế, thầy đọc lại từ đầu, và cứ tiếp tục đọc cho đến khi không còn một người nào trong nhà thờ.
Dụng ý nầy là làm cho mỗi vị giáo sĩ lúc bắt đầu một ngày, từ nơi đoạn kinh nầy mà đạt được một chút gì đó, trong khi Thiên Chúa hòa tan vào trong cuộc sống của họ, họ liền chuẩn bị tốt cuộc sống của một ngày.
Lời Chúa là sức mạnh…
Suy tư 71:
Công việc chính của các linh mục, tu sĩ nam nữ là cầu nguyện, nếu chúng ta không cầu nguyện thì không ai nói chúng ta là tu sĩ cả, do đó, việc cầu nguyện của các linh mục tu sĩ cần phải được đặt lên hàng đầu trong cuộc sống của mình.
Các bạn thử nhìn xem, một linh mục sau khi dâng thánh lễ xong, xuống vị trí của mình quỳ cảm tạ Thiên Chúa vài phút đồng hồ, thì ảnh hưởng của ngài trên giáo dân to lớn biết chừng nào; bạn cũng thử nhìn xem, khi mọi người chưa ai đến nhà thờ, thì đã có các nữ tu đang âm thầm cầu nguyện, chiêm ngắm Thánh Thể, quả là những hình ảnh gây xúc động và đáng cảm phục phải không các bạn?
Luôn cầu nguyện cũng có nghĩa là luôn kết hợp với Thiên Chúa trong tứng giây phút của cuộc sống.
Người luôn cầu nguyện là người luôn vui vẻ, hoà nhã và dể cảm thông vơí mọi ngươi, bởi vì chính Chúa Kitô đang sống trong họ (Gi 2, 20).
72. THIÊN CHÚA VÀ TÔI
De Mello
Một vị Do thái theo chủ nghĩa thần bí có một phương pháp cầu nguyện rất đặc biệt độc đáo.
“Đừng quên à nghe, Thiên Chúa”, ông ta cầu nguyện với Thiên Chúa như thế: “Ngài cần con, như con cần Ngài, nếu Ngài không tồn tại thì con cầu nguyện với ai? Nếu con không tồn tại, thì ai thốt lên lời cầu nguyện đây?”
Giữa người với người cũng như thế, mọi người đều cần thiết cho nhau.
Suy tư 72:
Chúng ta quan sát hai anh em cùng xin bố mẹ tiền để đi coi phim:
Đứa anh nói với bố mẹ là hôm nay ngày Quốc tế Thiếu nhi các bạn đều rủ nhau đi coi phim, phim hoạt hình “Vua sư tử” hay lắm, có cô giáo cùng với tụi con nữa đó, bố mẹ cho con đi nha!
Đứa em nói với bố mẹ như thế nầy, bố mẹ cho con đi coi phim với cô giáo nhé! Chấm hết –không dài dòng văn tự tả cảnh tả chân gì cả.
Người Do thái thần bí chủ nghĩa trên đây cầu nguyện với Thiên Chúa như một em bé nói với bố mẹ, như một người bạn rất thân thiết nói với người bạn, không khách sáo, rất chân tình, rất yêu thương và tin tưởng.
Có những lúc chúng ta cầu xin với Thiên Chúa mà “rào trước đón sau”, sợ Ngài hỏi lại rồi “bí” trả lời không được, sợ Thiên Chúa không hiểu điều mình xin cho nên kể lễ dài dòng, mà chúng ta quên mất lời dạy của Chúa: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời…” (Mt 6,7).
Lời cầu nguyện của chúng ta cần phải đơn sơ như em bé, tin tưởng như Đức Maria, và yêu mến như các thánh.
73. LỜI CẦU NGUYỆN THAY ĐỔI
De Melo
Một người Ấn độ theo chủ nghĩa thần bí vĩ đại, nói về mình như thế nầy: “Lúc tôi còn trẻ, là một người cải cách, lời cầu nguyện của tôi với Thiên Chúa là: “Lạy Chúa, xin ban cho con có năng lực để con thay đổi thế giới!””.
“Đến khi tôi gần tuổi trung niên, biết mình nửa cuộc đời trước, ngay cả linh hồn cũng chưa thay đổi, thế là lời cầu nguyện được đổi lại như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con ân sủng, để con thay đổi những người mà con gặp gỡ tiếp xúc, chính là bạn bè và gia đình con, như vậy là con cũng đã thỏa mãn lắm rồi.””
“Bây giờ tôi đã là một lão già, những ngày tới có thể đếm được trên đầu ngón tay, tôi mới bắt đầy hiểu rõ, trước đây tôi thật quá ngu ngốc! Bây giờ lời cầu nguyện của tôi chỉ có một câu: “Lạy Chúa, xin ban cho con thánh sủng để con thay đổi chính bản thân con!” Nếu từ khi bắt đầu mà tôi biết cầu nguyện như thế, thì cuộc sống của tôi sẽ không hoàn toàn lãng phí mất công”.
Suy tư 73:
Thường thường người ta bắt đầu từ trong làm ra, từ gần đến xa, chẳng hạn như phải yêu thương cha mẹ, anh chị em, bà con… rồi mới đến những người bà con xa, hàng xóm, bởi vì nếu chúng ta không yêu cha mẹ, anh chị em, thì làm sao “bắt” người khác phải yêu mình chứ?
Việc cầu xin cũng vậy, chúng ta thường cầu xin cho ông kia bỏ rượu chè, cho ông nọ biết ăn ở lương thiện, hoặc là cho bà ấy đừng chưởi chồng con… vân vân và vân vân… mà chúng ta quên mất cầu xin cho mình biết bỏ những tật xấu, những khuyết điểm.
Nhà bác học Archimede cần một điểm tựa, thì sẽ bẫy được vũ trụ, phương pháp đòn bẫy thì cần phải có một điểm tựa, nhưng vũ trụ làm gì có điểm tựa, thực ra, không cần đòn bẩy, vũ trụ cũng đã… lơ lững trên vũ trụ, thay đổi bộ mặt vũ trụ, đó là cầu nguyện. Lịch sử đã chứng minh: văn minh Aâu châu là văn minh Kitô giáo bởi thánh Biển Đức và các con cái của ngài; một thánh Phanxicô khó nghèo; một thánh Têrêxa Nhỏ; một Têrêxa thành Calcuta; một Đức Gioan 23… các ngài đã làm cho bộ mặt thế giới thay đổi, các ngài không làm những điều vĩ đại, các ngài chỉ thánh hoá bản thân mình bằng lời cầu nguyện và hy sinh.
74. CẦU MONG NĂM MỚI
Vô danh
Năm 1939, tại vương quốc Anh trong ngày lễ Giáng sinh đã phát thanh câu nói như sau: “Tôi là người đang đứng trước thềm năm mới nói: “Hãy cho tôi ánh sáng, để tôi có thể an toàn đi về hướng tương lai mà tôi không thể biết trước.” Nhưng Ngài đã trả lời: “Ngươi phải ở trong bóng đêm mà đi, nhưng đặt tay của ngươi ở trong tay Ta. Như thế so với việc cho ngươi ánh sáng để ngươi đi về hướng không thể biết trước, thì an toàn hơn.”
Suy tư 74:
Đi trong bóng tối thì cần phải có ánh sáng, nhưng khi có ánh sáng rồi, e rằng chúng ta sẽ thấy nhiều điều mới lạ rồi ham chơi, hiếu kỳ rồi không muốn đi tới trước nữa.
Chúng ta đang đi trong tối tăm của trần gian, chúng ta xin Thiên Chúa tỏ cho chúng ta một ánh sáng để chúng ta về tới đích, hay ít nữa là xin Thiên Chúa ban cho một dấu chỉ, để chúng ta biết việc phải làm cho đẹp lòng Ngài, nhưng ánh sáng cũng không mà dấu chỉ thì quá mơ hồ, không nhất định…
Thật ra, chính Lời Chúa là ánh sáng dẫn đường cho chúng ta mỗi ngày mà chúng ta không biết đó thôi, hoặc biết mà không muốn nghe không muốn thực hành, dấu chỉ thì vô số việc mà chúng ta đã gặp trong ngày.
Dù có ánh sáng hay không, dù có dấu chỉ hay không, Thiên Chúa vẫn luôn luôn hiện diện và Ngài muốn mỗi người chúng ta đưa tay cho Ngài nắm, để Ngài dẫn dắt chúng ta cho khỏi vấp vào đá, ngã vào bùn lầy tội lỗi.
Có ánh sáng mà không đi torng ánh sáng thì thà rằng làm người mù để khỏi mắc tội với Đấng đã ban ánh sáng cho ta.
“Lời Chúa là đèn dọi bước chân con…”
 
75. CẦU PHÚC
Tonne
Ở Canada có một gia đình hậu duệ người Pháp, có một tập quán là khi năm mới đến thì ông bố cầu nguyện chúc phúc cho gia đình.
Đêm giao thừa mọi người trong gia đình họp nhau lại để cầu nguyện, trong khoảnh khắc đồng hồ gõ mười hai tiếng, ông bố đứng lên, đặt hai tay trên đầu người vợ quỳ bên cạnh, sau đó cầu nguyện: “Do ân đức và quyền năng của Thiên Chúa, tôi chúc lành cho em một năm mới”. Sau đó ông ta làm dấu thánh giá trên trán của mỗi người.
Suy tư 75:
Tập tục nầy đã có từ xưa thời các tổ phụ, ông Nô-ê chúc lành cho hai con trai đầu và út, còn đứa thứ hai thì bị chúc dữ vì bất hiếu và không kính trọng cha già (Stk 19, 18-27); ông I-xa-ác chúc lành cho Gia-cóp (mà ông tưởng là Ê-xau) (Stk 27,27-29)…
Chính Thiên Chúa đã uỷ thác cho cha mẹ thay mặt Ngài mà sinh thành dưỡng dục, dạy dỗ con cái, cho nên, Thiên Chúa luôn ban ơn cho những người cha, người mẹ sự khôn ngoan cần thiết để cạy dỗ con cái của mình. Công lao sinh thành dưỡng nuôi của cha mẹ đối với con cái, tự nó, đòi hỏi con cái phải có lòng hiếu thảo, biết ơn với cha mẹ của mình. Bởi vì, chính Thiên Chúa chứ không ai khác, sẽ nỗi cơn thịnh nộ với những người con bất hiếu: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa” (Hc, 3,16).
Có một tập tục rất đẹp và được nhân rộng ra trong những thời gian sau nầy, đó là “hái lộc đầu năm” trong mỗi nhà thờ của họ đạo, hái lộc tức là đi hái quả Phúc cho năm mới, mà lộc của người Công giáo trong năm mới không gì quý hơn là Lời Chúa. Sau thánh lễ giao thừa, mọi người đều lên trên cung thánh (hoặc một nơi nào đó trong nhà thờ) đến cành mai to lớn, trên cành mai đã treo sẵn những câu Lời Chúa, mọi người từ lớn đến nhỏ, đều “hái” cho mình một quả phúc, và đem về trang trọng dán trên bức tường trong nhà suốt năm, để nhớ và sống câu Lời Chúa ấy.
Thật đẹp và hợp với phong tục tập quá của người Việt chúng ta.
76. HƯƠNG THƠM CỦA LỜI CẦU NGUYỆN
Christopher Notes
Giáo hội tin lành Lutherô ở Atlaska nước Mỹ, mỗi năm, để tống tiễn năm cũ và nghinh đón năm mới, họ sẽ cử hành một nghi thức tôn sùng đặc biệt, họ gọi đây là “lễ toàn thiêu”.
Mỗi tín hữu tham gia lễ nghi tôn sùng đều mang theo một tờ giấy đến trước đàn tế, trên giấy viết những thất bại và những sai lầm trong năm cũ, vàa những cách làm cho năm mới. Rồi ném các tờ giấy đó vào trong lò lửa đốt mất tiêu.
Một năm nọ, có hai người trước đây đã kết bạn bè với nhau, sau nầy bởi vì duyên cớ làm ăn buôn bán, hai người tranh chấp với nhau. Trong nghi thức năm ấy, hai người nọ, mỗi người cùng đứng một bên tế đàn, sau khi ném tờ giấy vào trong lò lửa đang cháy, họ cùng đứng lên, mặt đối mặt bắt tay nhau thật chặt.
Suy tư 76:
Mỗi một tôn giáo đều tin rằng, lời cầu nguyện của họ sẽ như làn khói bay lên trước tôn nhan thượng đế, và lời cầu của họ được chấp nhận. Trong các thánh lễ long trọng đều có xông hương trên bàn thờ, trên sách thánh, trên lễ vật và trên các tín hữu tham dự thánh lễ.
Hương trầm cần phải đốt mới toả khói thơm, đốt cũng có nghĩa là xoá bỏ những hận thù, những ghen ghét, những bất đồng gây ra tranh chấp v.v… khi chúng ta đốt đi những hận thù ngăn cách giữa mình với người anh em, thì cũng có nghĩa là khói thơm bay lên trước nhan thánh Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ nhận lễ vật toàn thiêu của chúng ta.
Cũng vậy, lời cầu nguyện của hcúng ta có bay lên tới nhan Thiên chúa hay không, thì cần phải có “đốt”, đốt đây có nghĩa là hy sinh, cầu nguyện mà không hy sinh thì giống như xông hương màa không đốt cháy, hay nói cách cụ thể hơn, nấu cơm mà không đốt củi, thì làm sao mà được Thiên Chúa nhận lời chứ? Hy sinh, tức là đốt chính mình đi, như nén nhang tự nó cháy mới toả hương thơm, như đèn cầy tự nó tan dần đi để toả sáng cho mọi người. Cầu nguyện cần phải có hy sinh kèm theo, đó là điều kiện để được Thiên Chúa nhận lời.
Cầu nguyện thật lâu giờ mà không hy sinh chính mình thì vô ích.
77. CON ĐƯỜNG CẦU NGUYỆN
Charles L. Allen
Ông A-se-lan-ke là lãnh tụ của giới thương nghiệp, ông ta có một thang máy thẳng đến văn phòng, nhưng ông hoàn toàn không dùng thang máy, mà là đi theo cầu thang để lên lầu, người quản lý thang máy của ông gọi là “bước đường tiến thân”.
Buổi sáng ông cầu nguyện trên cầu thang, cầu xin Thiên Chúa dẫn dắt mỗi bước đi trong ngày của ông cho thật tốt đẹp, lúc ông thận trọng bước trên những bậc cấp, ông đều cầu nguyện. Như vậy, từng bước từng bước, ông đi lên tầng cao nhất trên kia.
Suy tư 77:
Không ai chỉ một bước mà đi lên tới… lầu hai, nhưng phải bước từng cấp một, cứ thế đi lên tới lầu cao nhất. Cầu nguyện không phải nói cho thật nhiều thật lêu với Chúa, mà được nhận lời! Chúa Giêsu đã nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu!” (Mt 7,21). Có người nói: tôi cầu nguyện rất nhiều với Thiên Chúa mà chẳng được Thiên Chúa nhận lời chi cả; cũng có người nói: tôi chẳng thích cầu nguyện lâu giờ, bởi như thế chẳng được ích gì cả.
Cầu nguyện lâu, cầu nguyện mau chẳng có gì là quan trọng, bởi vì trước mặt Thiên Chúa không có lâu và mau, mà chỉ có đức tin của mỗi người mà thôi. Nếu chúng ta cầu nguyện mà không mấy tin tưởng vào lời cầu nguyện thì chẳng khác gì chúng ta nói với Chúa: “có cho thì cho, không cho thì thôi”. Cầu nguyện là kết hợp liên lĩ với Thiên Chúa trong từng giây từng phút, và càng tin tưởng mãnh liệt hơn khi gặp những vui buồn, khốn khó trong cuộuc sống của mình.
Đừng bắt Thiên Chúa lập tức đáp ứng nhu cầu của mình khi cầu nguyện, nhưng hãy lập tức vâng theo ý  Thiên Chúa sau khi cầu nguyện.
78. GỌI ĐIỆN THOẠI
Howard Whitman
Lúc chúng ta cầm điện thoại tâm linh (cầu nguyện), không phải mỗi lần đều có thể đạt được như ý muốn của mình. Lúc chúng ta cầm điện thoại của văn phòng, cũng không phải mỗi lần đều có thể được như ý muốn của mình.
Nhưng nếu chúng ta gọi điện thoại cho người nào đó, mà họ nói họ không ký vào hiệp ước, chúng ta sẽ không cầm điện thoại của văn phòng mà quăng ra ngoài cửa sổ, cho nên chúng ta cũng không cần vì không đạt tới như ý muốn của mình, tức là đem điện thoại linh tính bỏ qua một bên.
Suy tư 78:
Hiện nay các công ty điện thoại phủ sóng khắp toàn cầu, và chỉ cần ấn mã số là có thể gọi đi khắp nơi trên thế giới, nhưng cũng có lúc vì sự cố vệ tinh viễn thông gặp trục trặc kỹ thuật thì có mà… kêu trời.
Kêu trời cũng có nghĩa là cầu nguyện, cầu nguyện âm thầm, cầu nguyện to tiếng, nhưng kêu trời cũng cần phải có phương tiện mới có thể gọi lên tới trời được chứ! Phương tiện thì không thiếu, nói được là phổ cập, ai cũng có thể sử dụng được, nó không như các phương tiện điện thoại hiện đại thời thế kỷ 21 nầy, phải có tiền mới xài được điện thoại. Phương tiện đó là: Thánh lễ Mi-sa, các Bí tích, chuỗi Mân côi v.v… các phương tiện nầy giúp chúng ta “kêu trời” được ngay tức khắc, không sợ sự cố vệ tinh viễn thông, cũng chẳng sợ trả… cước phí.
Tuy nhiên, có mấy điều cần lưu ý khi dùng các phương tiện rất “hiện đại” nầy:
1.   Người sử dụng phải có đức tin.
2.   Người sử dụng phải có: toàn hy sinh, thật yêu người và luôn vui vẻ.
Đó là cách sử dụng loại phương tiện điện thoại “siêu hiện đại”.
79. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI LẠC QUAN
Bruno Hagspiel
“Lạy Chúa, xin làm cho con có thể mĩm cười, khi nhìn thấy những chuyện nhỏ tình cờ khiến cho người ta buồn phiền.
Lạy Chúa, xin làm cho con cảm nhận được sức mạnh của hài hước, để sau một trận khóc nức nở, lại có thể lộ ra bộ mặt tươi cười thêm lần nữa.
Lạy chúa, xin cho phép trong mỗi giọt nước mắt đều có nụ cười tươi tắn.
Lạy Chúa, xin cho mỗi lần trong cơn thử thách, đều có chứa chất thành phần thú vị.
Như thế lúc con đón nhận sự phán xét, có lẽ Ngài sẽ nói: “Con chính là người luôn luôn cố gắng mĩm cười đó phải không?” Và lúc đó con sẽ gật đầu nói: “Vâng ạ, con mượn nụ cười để xoá bỏ buồn phiền”, và có lẽ Ngài cũng mĩm cười nói với con: “Như thế là đúng rồi! Đây là cổng thiên đàng, mời con vào!”
Suy tư 79:
Cũng có một lời cầu nguyện khác như sau:
“Lạy Chúa, xin cho con được bền đổ trong ơn gọi làm linh mục, dù cho gian khổ vật chất lẫn tinh thần.
Xin cho con biết luôn trung thành với ơn gọi, dù khi con có nhiều tiền, nhiều quyền cũng như khi con nghèo khổ nhất và bị nhục nhã nhiều nhất.
Xin cho con mỗi giây phút luôn lặp lại lời nầy: xin cho con được bền đỗ trong ơn gọi của mình, dù con tội lỗi và bất xứng.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành một linh mục của mọi người, chứ không phải của một nhóm nhỏ quyền quý giàu sang nào cả, để ai cũng có thể đến với con mà không ngại ngùng vì thân phận nghèo khổ của họ.
Xin cho con luôn vui vẻ để con biết mĩm cười với người mà con biết rằng họ là người không thích gì con.
Và xin con biết yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, như Chúa đã yêu mến Mẹ vậy”. (Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.)
80. CẦU NGUYỆN ĐỂ ĐƯỢC PHÚC
Bruno Hagspiel
Tôi cầu xin cho được mạnh khỏe, để tự mình có thể làm được nhiều việc. Nhưng Thiên Chúa làm cho tôi yếu đuối, và làm cho tôi biết phục vụ.
Tôi cầu xin có tiền tài, để tự mình có thể được vui vẻ trong lòng. Nhưng Thiên Chúa làm cho tôi nghèo khó, để tôi có thể tăng gia sự khôn ngoan.
Tôi cầu xin sức mạnh, để tự mình có thể làm vài việc to lớn. Nhưng Thiên Chúa làm cho tôi bệnh hoạn, để tôi làm một vài việc tốt.
Tôi cầu xin được quyền lực, để tự mình có thể được sự tôn trọng của mọi người. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho tôi bất tài, để tôi cần đến Thiên Chúa.
Tôi cầu xin tất cả, để tự mình có thể hưởng thụ cuộc sống. Nhưng Thiên Chúa cho tôi cuộc sống, để tôi hưởng thụ tất cả.
Tôi yêu cầu rất nhiều nhưng không được gì cả, nhưng lời cầu nguyện của tôi đã được nhận lời so với mong ước của tôi thì rất nhiều, tôi là một người được nhiều phúc nhất.
Suy tư 80:
Chắc chắn là chẳng có một ai khi cầu nguyện mà xin cho mình gặp nhiều chuyện chẳng lành, nhưng ai cũng cầu xin cho mình được mọi sự tốt lành. Thế mà, chuyện lành đâu chẳng thấy, màa chỉ thấy toàn là chuyện “xui xẻo”, và đối với những người có đức tin, luôn sống kết hợp với Chúa, thì “xui xẻo” lại là cơ hội để họ “lập công đức” trước mặt Thiên Chúa và anh em.
Như vậy cầu nguyện chính là để mình tìm được ý Thiên Chúa trong cuộc sống, cầu nguyện không có nghĩa là chỉ xin ơn cho mình hay cho bà con, bạn hữu, thân nhân của mình, nhưng còn là lời chúc tụng đẹp lòng Thiên Chúa, không có lời cầu nguyện nào đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng chúng ta cầu xin cho được vâng theo ý Chúa. Đức Giêsu Kitô đã xin “đừng theo ý con, nhưng xin vâng theo ý Cha” (Mt 26, 39), hoặc như Đức Maria đã thưa với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38).
Đó là hai kiểu mẫu cầu nguyện cho chúng ta, xin vâng tức là từ bỏ ý riêng của mình để đón nhận những gì mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, mặc dù điều Thiên Chúa ban cho, không phù hợp như lời cầu xin của chúng ta, nhưng trong ý định của Thiên Chúa, đó là điều cần thiết cho phần rỗi của chúng ta.
Không phàn nàn, không oán trách đó là tâm tình của người con hiếu thảo và là dấu chỉ của một tâm hồn thánh thiện.
-----------------------------------
TẬP CHÍN
 
TÍN NGƯỠNG
 
81. CHÚA KI-TÔ THỨ HAI
Christopher Notes
Giữa hai nước Á-căn-đình và Chi-lê từ trước đến nay chưa có xảy ra chiến tranh. Nhưng vào năm 1899, nơi biên giới đã có xung đột, tình thế khá căng thẳng, tình hình rất có nguy cơ bùng nổ, qua năm sau, chính là năm 1900 vào mùa Phục sinh, quân đội hai bên giằng co không thôi, chiến tranh hình như không thể tránh khỏi.
Trong tuần thánh, Đức giám mục thủ đô Bu-I-nuo-si-ai-li của Á-căn-đình đã giảng một bài cảm động thăm sâu kêu gọi hoà bình, bản thảo của bài giảng nầy về sau đã chuyền qua Chi-lê, một vị giám mục Chi-lê đã nhận được tin tức nầy, sau đó tin tức nầy đã truyền đi khắp các nơi, chính phủ hai bên đối mặt dưới áp lực đòi hỏi hòa bình của dân chúng, nên vấn đề tranh chấp biên giới, giao cho quốc vương nước Anh Ai-de-hua VII làm trọng tài.
Kết quả là hai nước đã ký kết hiệp ước hoà bình giải quyết thảm hoạ chiến tranh, vĩ tuyến phía tây không có chiến sự, nên súng pháo đạn dược cũng đều không có đất dùng cho việc quân sự, họ bèn đem vũ khí đạn dược vận chuyển về xưởng công binh ở Bu-nuo-si-ai-li, đem nó đúc thành một bức tượng Chúa Giêsu rất lớn, được đặt tên là “Chúa Kitô thứ hai”, cánh tay phải của bức tượng Chúa Giêsu duỗi ra trong trạng thái chúc phúc, tay trái cầm một cây thánh giá.
Người dân của hai nước quyết định đem tượng thánh nầy đặt ở biên giới trên một ngọn núi cao 10.300 mét Anh, thế là, trước tiên do xe lửa vận chuyển, sau đó là do xe lừa kéo đại bác tiếp tục chuyên chở, lộ trình cuối cùng là trèo lên dốc núi thẳng đứng, do các binh sĩ dùng dây thừng để kéo lên. Ngày 13 tháng 3 năm 1904, tượng Chúa Kitô chính thức đứng trên vị trí đó cho đến ngày hôm nay.
Mặt chính dưới bệ đài bức tượng có viết một bảng kỷ niệm như sau: “Người dân hai nước Chi-lê và Á-căn-đình nếu quên mất lời thề ước thần thánh đã lập trước bệ đài Chúa Kitô, thì núi sẽ đổ xuống, hoá thành cát bụi”. Phía mặt khác thì trích một đoạn trong thư của thánh Phaolô tông đồ gởi Giáo đoàn Eâphêsô chương 2 câu 14: “Chúa Kitô là bình an của chúng ta, Người đã liên kết đôi bên thành một…”
Về bức tượng “Chúa Kitô thứ hai” nầy, có một chuyện thú vị nho nhỏ, người Chi-lê phát hiện đối diện bức tượng thánh là Á-căn-đình mà sau lưng chính là mình, không muốn để cho người dân bày tỏ sự bất bình, một vài người điều đình hòa bình mới nói: “Không sao cả, trong cái đầu của người ấy mới cần theo dõi”.
Suy tư 81:
Người ta hy vọng thế kỷ 21 nầy là thế kỷ của hòa bình, nhưng người ta vẫn chế tạo và buôn bán vũ khí giết hại hàng loạt người trong nháy mắt; người ta hô hào chống chiến tranh, nhưng chiến tranh vẫn đang đứng “lò mò” trước cửa nhà nhân loại.
Sẽ không có hòa bình thật, nếu không có tâm hồn bình an của Chúa Kitô; sẽ không có hòa bình, nếu mọi người không ai nhận ra được người bên cạnh mình là người thân cận của tôi; và cũng sẽ không có hòa bình, nếu mỗi người trong chúng ta không nỗ lực kiến tạo hoà bình ngay trong chính tâm hồn của mình.
Chúa Giêsu đã sống lại, sự sống lại của Ngài là một bằng chứng để nhân loại thấy, Ngài đã chiến thắng tử thần, chiến thắng sự ác và dĩ nhiên là Ngài lên án chiến tranh, do đó, lần hiện ra cho các tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần (Ga 20, 19-21) sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã chúc lành cho các đệ tử của mình: “Bình an cho các con” (Ga 20, 21). Sự bình an của Chúa Giêsu ban cho các Tông đồ, là bình an trong tâm hồn, bình an vĩnh cữu, đó cũng là bình an mà nhân loại cần phải có để xây dựng một thế giới hòa bình trong tình yêu của Thiên Chúa.
Thế gian có thể cho chúng ta rất nhiều thứ, ngoại trừ bình an thật trong tâm hồn, muốn có bình an trong tâm hồn không những phải cầu xin Thiên Chúa, mà còn phải thực hành bình an ấy trong cuộc sống: Yêu thương.
82. HỘI CHỢ TÔN GIÁO
De Mello
Bạn tôi và tôi đi tham quan hội chợ, đó là một hội chợ về tôn giáo, không phải như các hội chợ triển lãm của các thương nghiệp, mặc dù đồ bày bán là tôn giáo, nhưng tranh chấp lại khá kịch liệt, thanh âm truyền giáo vang trời dậy đất.
Ở bên quầy hàng của người Do thái, có người đưa cho chúng tôi tờ truyền đơn, ở trong viết Thượng đế là Đấng rất nhân từ, chỉ có người Do thái là dân tuyển chọn duy nhất của Ngài, trên thế giới không có một dân tộc nào được tuyển chọn giống như dân tộc Do thái.
Ở quầy hàng của tín đồ đạo Hồi , chúng tôi học được Đức Ala là Đấng rất từ bi, chỉ có Môhamét là tiên tri của Ngài, ơn cứu độ chỉ đến từ việc nghe lời vị tiên tri duy nhất nầy của Đức Ala.
Ở quầy hàng của Kitô hữu, chúng tôi phát hiện Thiên Chúa là tình yêu, ở ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ nào khác, hoặc là gia nhập vào Giáo hội, hoặc là gặp phải trầm luân vĩnh hằng.
Ra khỏi chổ tham quan, tôi hỏi bạn của tôi: “Cảm giác của Ngài như thế nào, Thiên Chúa ? Ngài có nhìn thấy không, mấy thế kỷ nay, con người đã làm cho danh Ngài xấu xa rành rành ra đó”.
Thiên Chúa nói: “Hội chợ nầy có thể không phải do Ta tổ chức lên, Ta đến tham quan lần nầy, đều cảm thấy khó mà vi tình”.
Suy tư 82:
Xây nhà thờ thật to lớn, lộng lẫy và hùng tráng, cũng là một cách “quảng cáo” đạo Thiên Chúa của các họ đạo có tiền; đi lễ ngày chủ nhật thật đông đảo, áo quần đủ màu đủ sắc cũng là một cách quảng cáo niềm tin của mình nơi các tín hữu; mặc áo dòng đi ra ngoài xã hội để học hành, làm việc cũng là một cách “tuyên truyền” hội dòng của mình và đạo của mình với người khác… tóm lại là có rất nhiều cách để người tín hữu “quảng cáo” niềm tin của mình, nhưng lối quảng cáo nầy chỉ làm cho người ta nhìn mà thôi, chứ chưa “đập vào mắt” của họ được, do đó còn có rất nhiều người vẫn dửng dưng với Thiên Chúa của chúng ta.
Có một lối quảng cáo hiệu nghiệm và dễ “đập vào mắt, khắc vào tim” của người ta, đó là “làm”, làm cái gì? Thưa, làm theo những điều mình tin vào Thiên Chúa của mình, làm tức là thực hành, tôi thực hành đức bác ái vì Thiên Chúa của tôi dạy như thế: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Tôi thực hành điều công chính, vì Thiên Chúa của tôi đã hứa: “Phúc thay ai khác khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa đáng” (Mt 5,6)… Tôi mặc áo dòng ra giữa xã hội công tác, học hành, nhưng nếu tôi không thực hành lý tưởng của một nữ tỳ Thiên Chúa, thì ai sẽ tin vào một Thiên Chúa xa lắc xa lơ?
Sống lời Chúa, thực hành Lời Chúa là cách quảng cáo “xịn” nhất về đạo của mình cho người thời nay, thế kỷ 21 nầy.
83. TÔN GIÁO THI ĐUA
De Mello
Chúa Giêsu nói Ngài vẫn chưa có kiến thức về thi đấu bóng tròn, cho nên tôi và bạn tôi dẫn Ngài đi coi một trận thi đấu bóng tròn. Trong sân thi đấu là đội Người mục tử của Tin lành và đội Thập tự quân của Công giáo quyết đấu, tình hình chiến đấu khá kịch liệt.
Đội Thập tự thắng một điểm đầu tiên, Chúa Giêsu rất là vui vẻ, tung mũ lên trời, tiếp theo đội Người mục tử cũng ghi một bàn thắng, Chúa Giêsu cũng sung sướng cầm mũ tung lên trời.
Người ngồi phía sau chúng tôi có thể là một tên lơ mơ, anh ta đập đập trên vai Chúa Giêsu nói: “Anh ủng hộ đội nào vậy, lão đệ?”
Rõ ràng bây giờ Chúa Giêsu đang bị cuộc thi đấu làm cho khá phấn chấn, Ngài nói: “Tôi, a, tôi không ủng hộ cho đội nào cả, tôi đến đây chỉ để thưởng thức cuộc thi đấu nầy mà thôi”.
Người hỏi chuyện dùng giọng coi thường nói với người bên cạnh anh ta: “H…ừ…m, một thằng vô thần!”
Trên đường trở về nhà, chúng tôi giới thiệu đại thể tình hình chung trước mắt của các tôn giáo trên thế giới. “Người tin vào đạo rất có ý nghĩa, thưa Chúa,” chúng tôi nói với Chúa Giêsu, “hình như họ vẫn cứ cho rằng Thiên Chúa đứng một bên họ, sau đó phản đối người bên kia”.
Chúa Giêsu cũng rất đồng cảm, Ngài nói: “Đây chính là điểm tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo, Ta ủng hộ con người”. Ngài lại nói: “Con người quan trọng hơn tôn giáo, con người quan trọng hơn ngày hưu lễ”.
-“Thưa Chúa, Ngài phải cẩn thận lời nói đấy!” Một người trong chúng tôi quan tâm nói: “Ngài biết đó, Ngài đã bị đóng đinh trên thập giá một lần cũng vì lời nói ấy ạ”.
Chúa Giêsu mĩm cười đau khổ trả lời : “Đúng vậy, bị các chức sắc tôn giáo đóng đinh”.
Suy tư 83:
Vụ án gian dối tồi tệ nhất trong lịch sử hai ngàn năm của nhân loại vẫn sẽ được nhắc hoài cho đến ngày thế mạt: Đấng vô tội đã bị vu cáo, bị án tử đóng đinh trên thập giá ở đồi Golgôtha ngoài thành Giê-ru-sa-lem như những tên trọng tội bị tử hình. Lịch sử chứng minh rành rành: chính các vị thượng tế, thầy cả, các chức sắc đạo cũ đã kết án tử cho Chúa Giêsu (Mt 26, 57-67; và chương 27).
Ngày nay các chức sắc của đạo mới không có công khai kết án Chúa Giêsu, là Thầy và là Chúa của mình (Ga 13, 13), nhưng các ngài đã xé tấm áo hiệp nhất giữa các tín hữu trong cộng đoàn giáo xứ do các ngài chăm sóc, như quân dữ xé áo dài trắng của Chúa Giêsu (Ga 19,23-24). Các ngài đã chia bè kết phái với giáo hưũ để kết án phái kia không theo phe “cha sở” của mình; các ngài đã sống xa hoa, hưởng thụ đang khi trong giáo xứ của mình còn có những con chiên đói ngất ngư; các ngài đã giảng rất hay trên tòa giảng, nhưng cách sống của các ngài –so với lời của ngài giảng- thì cách xa như trường sơn Đông trường sơn Tây.
Chúa Giêsu đã cầu xin với Cha cho các mục tử mà Ngài đã chọn:
“Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ. Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian. Lạy Cha chí thánh, xin gì giữ các môn đệ trong danh Cha màa Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta…” (Ga 17, 16-17).
84. TRÁI BÍ NGÔ TRONG BÌNH
Roy L. Smith
Một người nông phu trong một hội chợ ở thôn quê, đã triển lãm một quả bí ngô rất đặc sắc, được gây giống tạo hình trong cái bình 2 gallon  phình ra ở giữa. “Lúc trái bí ngô lớn hơn ngón tay cái một chút”, người nông phu nói tiếp: “Tôi liền đem nó bỏ vào trong miệng bình nhỏ xíu, để nó tiếp tục sinh trưởng ở trong  bình. Đợi lớn đầy, thì tự nó ngừng không tăng trưởng thêm nữa”.
Tín ngưỡng của chúng ta ảnh hưởng đến linh hồn, rất giống cái miệng bình nhỏ xíu ảnh hưởng đến trái bí ngô vậy, sau khi chúng ta lớn lên tự mình đạt tới trình độ của đức tin, thì ngưng trưởng thành. Tín ngưỡng thì có tính sáng tạo, nhưng đồng thời cũng có tính hạn chế, nó làm cho chúng ta trở thành tất cả, nhưng cũng hạn chế chúng ta trở thành tất cả là của nó.
Suy tư 84:
Con người ta cũng thế, được nuôi dạy ở môi trường nào thì chỉ thích hợp với môi trường ấy mà thôi, muốn để nó thích nghi với hoàn cảnh mới thì cũng phải mất nhiều thời gian.
Đọc tiểu sử của các nhà truyền giáo xưa và nay, tôi thươngà cảm phục các ngài là những người can đảm, dũng khí và tài giỏi, các ngài, cũng có thể nói, là “những trái bí đỏ” được ươm trong cái bình thuỷ tinh, nhưng “hình dáng” các ngài không tròn trịa như cái bình thuỷ tinh, trái lại các ngài đã trở nên giống hạt lúa mì được chôn vào mảnh đất truyền giáo, chịu mục nát để trổ sinh nhiều bông hạt khác (Ga 12, 24).
Ra đi truyền giáo là các ngài đã đem thân mình chôn vào lòng đất, để làm lại cuộc tái sinh mới nơi mảnh đất mới đến, các ngàai phải làam lại từ đầu: trở thành những em bé bắt đầu học lỏm bỏm vài tiếng địa phương, trở nên một bác nông phu để cày cấy trên cánh đồng truyền giáo của mình… chịu biết bao khổ cực trong tâm hồn cũng như nơi thân xác, tất cả cũng vì lý tưởng mà các ngài đã ôm ấp: đem Lời Chúa đến cho mọi dân tộc.
Trái bí ngô đẹp vì hình dáng cầu kỳ được bác nông dân kiêu hãnh khoe với bà con làng nước, nhưng nó chẳng giúp ích gì cho ai cả; trái lại hát lúa mì thì được Thiên Chúa, “bác nông dân” hiểu rõ thời vụ, đem chôn giấu trong đất để sinh ra thêm nhiều hạt lúc có ích lợi cho mọi người “(Mt 13, 8-9). Là hạt lúa, các ngài khiêm tốn chấp nhận những thiệt thòi, chịu chết đi để trở thành tấm bánh tinh tuyền thượng tiến Thiên Chúa, và làm no thoả các tâm hồn tín hữu nơi mảnh đất truyền giáo của các ngài.
Các nhà truyền giáo của thế kỷ 21 cũng là những hạt lúa mì vậy!
85. CÁI LA BÀN
Tonne
Ngày xửa ngày xưa, có một người thợ săn rất trẻ, ngay cả khi ở trong làng thường mò mẫm không rõ ràng về phương hướng, tìm không ra đường để trở về nhà, có một người bạn tặng cho anh một cái la bàn.
Dù cho như thế, cái anh trẻ người non dạ kia vẫn cứ lạc đường, có người tìm thấy anh liền hỏi: “Không phải anh có đem theo cái la bàn sao?”
Anh ta trả lời: “Có chứ”.
Người ấy lại hỏi: “Tại sao anh không dùng la bàn để tìm phương hướng?”
Anh nói: “Tôi mới không dám dùng nó, tôi muốn đi về hướng nam, nhưhg cái đồ chơi đó vẫn chỉ hướng bắc, tôi lắc nó, quay nó như thế nào, đều không dùng được, vừa buông tay ra, nó vẫn cứ chỉ hướng bắc”.
Rất nhiều người khi đọc Kinh Thánh để tìm một câu chỉ dẫn, cũng như thế, họ nhìn thấy phương hướng của mình muốn đi, chứ không phải phương hướng mà Kinh Thánh muốn họ đi.
Suy tư 85:
Có rất nhiều cách để tìm phương hướng khi đi trong rừng sâu hay đi trên núi cao, hoặc đi giữa đồng bằng… nhưng chắc chắn nhất vẫn là cái la bàn, từ loại la bàn đơn sơ chỉ có bốn hướng đông tây nam bắc, cho đến la bàn phức tạp với rất nhiều con số để tính toán, la bàn rất cần thiết cho những nhà thám hiểm, có nó, người ta mới yên tâm đi đúng hướng.
Lời Chúa chính là la bàn chỉ hướng đi đến con đường sự sống đời đời cho chúgn ta, có lẽ ai cũng hiểu điều đó, nhưng để hiểu và nhận ra được Lời Chúa chỉ ta đi hướng nào thì lại là chuyện khác, chưa chắc ai cũng hiểu. Có người đọc thuộc Lời Chúa làu làu, nhưng sống trong tội vẫn là sống trong tội; có người còn chứng minh được câu Lời Chúa ấy ở đoạn nào, câu nào trong Kinh thánh, nhưng chẳng mấy khi nói ra một Lời Chúa để ca tụng Ngài.
Lời Chúa là cái la bàn cho mọi người, mọi lứa tuổi, những người bình dân và trẻ em thì cái la bàn đơn sơ nhìn là biết ngay, hiểu ngay và dễ thực hành; những người tri thức thì có cái la bàn phức tạp hơn, nghĩa là họ muốn chú giải từng câu từng chữ của Lời Chúa rồi mới thán phục và thực hành; các linh mục và các tu sĩ nam nữ thì khỏi nói, la bàn đơn sơ hay cầu kỳ rắc rối họ đều biết sử dụng cả. Nhưng cái chính yếu là chúng ta có đi theo hướng đi mà Lời Chúa đã chỉ cho hay không? Hay là chúng ta đọc Lời Chúa, nghe Lời Chúa rồi bỏ Lời Chúa trong đầu rồi khóa lại không cho Lời Chúa chạy xuống tim, ra nơi tay và hành động thực tế?
86. LẤY SỰ TRONG SẠCH CHO TÂM HỒN
Wochenpost
Tang-mu hỏi bà ngoại: “Ngày chủ nhật ngoại vẫn đi nhà thờ chứ?”
-“Đương nhiên rồi”.
-“Ở trong nhà thờ ngoại được gì nào? Ngoại có thể nói cho con biết Phúc Âm tuần trước là đoạn nào không?”
-“Ngoại quên rồi, ngoại chỉ nhớ là ngoại rất thích đoạn Phúc Âm ấy”.
-“Được rồi, thế thì lúc cha giảng, ngài nói gì ạ?”
-“Ngoại cũng không nhớ được, lớn tuổi rồi, trí nhớ cũng không có, ngoại chỉ nhớ ngài đã nói một bài đạo lý rất có tài khích lệ mọi người”.
Tang-mu nói: “Nhưng ngoại nè, nếu ở trong nhà thờ ngoại không đạt được gì cả, mà vẫn cứ đi, thì có ích gì chứ?”
Bà ngoại đứng dậy nói: “Cháu theo bà qua bên nhà bếp”.
Sau khi hai bà cháu đến nhà bếp, bà ngoại tìm một cái rổ đan bằng tre, sau đó nói với Tang-mu:
-“Cháu cầm cái rổ nầy, đi ra bờ sông xách nước về đây”.
-“Bà ngoại, ngoại đừng nói giỡn chứ, dùng cái rỗ đi xách nước, cháu không đi đâu”.
-“Không được, cháu nhất định phải nghe lời ngoại nói, ngoại sẽ nói cho cháu vài việc”.
Tang-mu cầm cái rổ chạy đi, một lúc sau, lại xách cái rổ không có một giọt nước chạy về.
-“Ngoại coi đây nè, ngoại”, nó nói tiếp: “nước đều chảy sạch trơn cả rồi nè”.
-“Đúng đó”, bà ngoại nói tiếp, “nhưng bây giờ nó sạch hơn nhiều phải không? Bé con, nếu từ trước đến nay cháu không đến nhà thờ, thì mãi mãi cháu không được thứ gì hay ho cả, nếu cháu thường luôn đi nhà thờ, thì cháu sẽ được một vài thứ tốt đẹp”.
Suy tư 86:
Cũng có rất nhiều người thắc mắc khi thấy người Công giáo ngày nào cũng đi dâng thánh lễ, đặc biệt là ngày Chúa nhật hoặc là các ngày đại lễ. Họ thắc mắc cũng phải thôi, vì có người vừa đi nhà thờ về là la lối lớn tiếng thoá mạ người hàng xóm; lại có người ngày nào cũng đi lễ nhưng cuộc sống không có gì khác hơn những người vô đạo, vẫn chửi thề, vẫn cho vay nặng lãi, vẫn ngoại tình…
Nhưng cũng có nhưng tín hữu đi đến nhà thờ là để tìm nguồn an ủi nơi Thánh Thể, họ dâng tất cả những lao nhọc trong ngày cho Chúa Giêsu Thánh Thể, họ cảm thấy mình bất lực trước cuộc sống xô bồ, truỵ lạc, cơ hồ muốn ngã theo dòng đời, nên họ đã đến với Chúa Giêsu.
Cũng có hạng người thứ ba đi nhà thờ, họ đến nhà thờ vì sợ lỗi luật Chúa, sợ vợ mắng, sợ chồng buồn, sợ ba má la rầy, chứ không phải vì đến để gặp Chúa Giêsu, loại người nầy thân xác thì ở trong nhà thờ, nhưng lòng trí để ở cả nơi nhà hàng karaoke, nơi những sòng bài, nơi những thú vui khác…
Còn chúng ta thì sao, đến nhà thờ có phải là gánh nặng phải vác ? Viếng Thánh Thể có phải là mất thời giờ, hoặc rảnh rỗi ghé vào nhà thờ viếng Chúa Giêsu một chút có phải là “lắm chuyện”?
87. MẦU NHIỆM
Bruno Gagspeil
Có một người thanh niên ngồi trên xe buýt đi tham quan một thành phố lớn, lúc xe chạy qua một nhà thờ, anh đưa tay chạm nhẹ vành mũ bày tỏ lòng kính trọng.
Khách ngồi bên cạnh anh là một người tự khoe mình là tương đương cỡ tiến sĩ, dùng thái độ rất là không kính trọng nói với anh: “H…ừ…m, tôi biết, anh là người đi nhà thờ, ở trong nhà thờ anh học được những gì?
-“Tôi học được mầu nhiệm quan trọng của tôn giáo”.
-“Mầu nhiệm, lẽ nào anh không biết sao? Anh bạn trẻ, chúng ta tuyệt đối không tin những gì mà chúng ta không biết rõ, bất luận như thế nào, đây là nguyên tắc của tôi”.
Anh thanh niên nói : “Vậy thì ông có thể nói cho tôi biết, tại sao lúc ông kích động, ngón tay nhỏ lại nhúc nhích?”
-“Nó biết nhúc nhích, là vì tôi cần nó nhúc nhích, hơn nữa từ trong nội tại của tôi muốn nó nhúc nhích”.
-“Nhưng tại sao chính nó nhúc nhích chứ, lúc ông muốn lổ tai đóng lại, nhưng nó không đóng được, như vậy thì nói làm sao chứ?”
Không có đoạn tiếp theo.
Suy tư 87:
Mầu nhiệm là những điều có thật mà trí óc con người không thể hiểu được và cũng không thể suy tới được, chỉ lấy đức tin mà tin. Nói đến mầu nhiệm thì người ta nghĩ ngay đến các nhà thần học, hay các cha các cố, chứ con nhà có đạo bình thường thì chẳng có ai dám nói tới.
Sau khi truyền phép xong, thì linh mục chủ tế hai tay nâng Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu lên cao để cho mọi người thấy và thờ lạy, sau đó ngài hô (hoặc hát) lớn tiếng: “Đây là mầu nhiệm Đức tin”. Và mọi tín hữu tham dự thánh lễ ở trong nhà thờ (hoặc vì đông người mà đứng ngoài nhà thờ) vui vẻ đáp lại bằng tiếng hô (hoặc hát) lớn: “Con tuyên xưng Chúa đã chết, đã sống lại, đã về trời và sẽ đến lại trong vinh quang vào ngày tận thế”. Tấm bánh trắng tinh ấy, chén rượu nho thơm ngon ấy, sau khi được linh mục đọc lời truyền phép, thì tức khắc trở nên Mình và Máu của Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm, là Đức tin của người Công giáo, mầu nhiệm nầy đố ai mà giải thích được, nhưng nó là sự thật 100% không chối cãi được.
Đức Kitô đã đến trần gian vì yêu thương nhân loại, đã bị người Do thái đóng đinh vào thập giá, đã chết, sau ba ngày thì sống lại và lên trời, rồi Ngài sẽ lại đến trần gian lần thứ hai, để phán xét kẻ sống lại và lên trời, rồi Ngài sẽ lại đến trần gian lần thứ hai, để phán xét kẻ sống và kẻ chết… (kinh Tin Kính). Và Ngài –dưới hình bánh và rượu- đã ở với nhân loại cho đến tận thế (Mt 28, 20b).
Đó là mầu nhiệm, là đức tin của chúng ta, những người Kitô hữu, và mầu nhiệm tình yêu nầy, buộc chúng ta –những người tin- phải thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, thể hiện niềm tin của mình vào mầu nhiệm tình yêu mà mỗi ngày chúng ta đều phấn khởi tuyên xưng: “Con tuyên xưng Chúa đã chết, đã sống lại…”
Mầu nhiệm là những việc cao siêu trí óc con người không thể hiểu thấu, nhưng con người có thể thực hiện mầu nhiệm trong cuộc sống, đó là: Yêu.
88. NHÀ TRÊN TRỜI
Bruno Hagspiel
Một bà giàu có sau khi chết thì lên thiên đàng, được thiên sứ dẫn bà đến một căn nhà, vừa nhìn thấy căn nhà thì bà thất vọng lớn lao, bởi vì căn hộ nầy rất là phổ thông, bà ta kháng nghị với thiên sứ, không bằng lòng tiếp nhận cái nhà như thế.
Thiên sứ nói với bà: “Căn nhà nầy là do bà tự mình xây lên đó”.
-“Vậy thì căn nhà đẹp đẽ ở đầu đường kia là của ai xây lên vậy?”
-“Là của người làm vườn cho nhà ngươi đó”.
-“Tại sao nhà của nó lại đẹp hơn nhà của tôi?”
-“Nhà trên thiên đàng, là do mỗi người tự mình gởi vật liệu lên để xây, chính là đức tin của các ngươi khi còn ở trên trần gian, chúng ta ở đây hoàn toàn không có xoay trở dính dáng gì cả”.
Suy tư 88:
Chúa Giêsu đã về trời trước là để dọn chổ cho chúng ta, bởi vì “trong nhà Cha có rất nhiều chổ”.
Thật ra mỗi một người trong chúng ta đều được Chúa dành sẵn cho mộ chổ trên thiên đàng rồi, “một chổ” tức là đã được cắm dùi, nhưng chưa xây nhàa xây tường gì cả, đó là việc của chúng ta. “Cái chổ” nầy sẽ bị mất đi nếu chúng ta lâu quá không gởi vật liệu lên để xây, mà vật liệu của chúng ta là: hy sinh, là bác ái, là yêu người ; càng làm nhiều việc lành phúc đức vì lòng yêu mến Chúa, thì “căn nhà” trên trời của chúng ta càng đẹp, càng lộng lẫy.
Chúng ta chạy ngược chạy xuôi kiếm tiền để xây cho được căn nhà ở trần gian, cao tầng, trang trí thật “xịn”, có nhà xe, có vườn hoa, có cây cảnh… nhưng một vật liệu nho nhỏ để xây nhà trên trời cũng không có, rồi nếu một mai từ giã cõi đời, có đem theo được căn nhà ấy không, nếu không đem đi được thì trú ngụ ở đâu nhỉ, vì trên trời không có nhà của mình? Mà chết rồi thì chỉ có hai chổ đời đời, nếu không có căn nhà đời đời trên thiên đàng, thì chắc chắn phải có căn hộ đời đời dưới hoả ngục, không chạy đi đâu được cả!
Trong chúng ta, không ai dại gì mà chọn căn hộ đời đời trong hoả ngục, vì vậy, nên ai cũng muốn gởi về trời những vật liệu tốt nhất mà mình làm được: Kính mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận của mình.
89. ƠN CỨU ĐỘ CỦA THẬP GIÁ
Bruno Hagspiel
Trong thiết bị cứu hộ trên phi cơ có dựng các vật liệu cần thiết cho hành khách khi bị chìm xuống nước: đèn pin cầm tay không thấm nước, thuốc nhuộm nước biển, thuốc đuổi cá mập, và một tấm kính.
Tấm kính dùng để đánh tín hiệu khi máy bay bay qua, giữa tấm kính cắt thành hình chữ thập, trên tấm kính giải thích rõ ràng: “Phản chiếu ánh mặt trời ngay phi cơ, nhắm chuẩn trung tâm thập tự, để phi cơ lưu lại trong tầm nhìn của anh”.
Cứu viện cũng đến từ Thập Giá treo trên bàn thờ.
Suy tư 89:
Thời nay, người ta dùng thập giá để trang sức, mang trên cổ, trên áo và…trên lỗ tai của các cô, các bà… điệu, xem ra thập giá cũng có sức hấp dẫn của nó đấy chứ! Có người mang thập giá mà không hiểu thập giá là gì cả, chỉ biết đó là dấu hiệu của người Công giáo thờ ông Giêsu nào đó bị đóng đinh chết trên nó mà thôi.
Thập giá chỉ là hai khúc gỗ dài ngắn ghép lại với nhau mà thành, thế thôi, chẳng có gì đặc biệt cả. Vâng, nó chẳng có gì đặc biệt đối với những người không tin, những người không phải là Kitô hữu; nhưng đối với người Kitô hữu thì nó rất đặc biệt lại còn rất đáng kính trọng, bởi vì nó đã mang Đức Kitô –Đấng cứu độ trần gian- trên mình nó, và nó trở thành nguồn ơn cứu độ cho những người tin, thập giá nầy đã được Đức Kitô vác lên núi sọ để chịu đóng đinh, Ngài chỉ vác một lần và bị đóng đinh chỉ một lần, nhưng nguồn ơn cứu độ trãi dài “từ thuở đất trời chưa ngôi”  cho đến tận thế. Thập giá nầy đã được Chúa Giêsu công khai hoá: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 27).
Nhưng thập giá đâu mà vác, núi sọ đâu mà lên?
Thập giá, đó chính là những bổn phận hằng ngày mà chúng ta phải làm với tất cả hy sinh; núi sọ, chính là cuộc sống đời thường nơi công sở, trong gia đình, trong cộng đoàn v.v…
90. THÚC ĐẨY LÝ TRÍ VÀ TÍN NHIỆM
Frank Mihalac
Chúng ta ngồi đọc tiểu thuyết trinh thám, hoặc là lúc coi kịch đấu trí trên truyền hình, thế nào cũng khó tránh khỏi làm một vài đoán xét và phán đoán chân tướng cuối cùng của nó. Nhưng thông thường hai mươi trang đầu của tiểu thuyết, hoặc mười lăm phút sau của vở kịch, sẽ không phát triển thêm điều gì để có thể làm cho tình tiết thúc đẩy lý trí.
Nếu chúng ta cho rằng, kịch tính sẽ xảy ra như tất cả ý nghĩ của mình, như thế loại phát triển nầy sẽ đi xuống, vậy thì rất dễ dàng làm cho chúng ta nhấc qua chuyện khác, lãng phí thời gian giải mở đề tài câu đố, nhưng, lúc đến kết cục, chúng ta nhất định sẽ biết chân tướng của tình tiết.
Đối với tình tiết cuộc sống của mỗi người, chúng ta cũng nên có một con tim tín nhiệm đối với Thiên Chúa.
Suy tư 90:
Tín là xác thực, tin tưởng…
Nhiệm là chức vụ cử làm, phụ trách…
Tín nhiệm là tin tưởng một người nào đó, và giao cho họ một nhiệm vụ nào đó mà không sợ phải hỏng việc. Chẳng hạn như bề trên tín nhiệm một thành viên và giao cho họ một trọng trách trong cộng đoàn; hoặc như thủ trưởng một đơn vị tín nhiệm người cộng tác của mình mà giao cho họ một nhiệm vụ bí mật quan trọng…
Cuộc sống của chúng ta đã được Thiên Chúa an bài và Ngài mời gọi chúng ta cộng tác để làm cho đời sống phong phú hơn, cũng có nghĩa là Ngài tín nhiệm chúng ta có thể làm được việc nếu chúng ta biết tin tưởng và trông cậy vào Ngài. Nhưng có rất nhiều lần chúng ta tin tưởng vào mình hơn là tin tưởng vào Thiên Chúa, trông cậy vào mình hơn là trông cậy vào Thiên Chúa: phác thảo một tương lai to lớn cho cộng đoàn, cho giáo xứ, cho cá nhân là một việc phải làm của người khôn ngoan, nhưng không bàn hỏi với Thiên Chúa (cầu nguyện), không biết lắng nghe ý kiến của Thiên Chúa qua những người khôn ngoan và những người thành tâm muốn cộng tác với mình, thì cũng chưa phải là người khôn ngoan thật.
Lý trí thúc đẩy chúng ta tìm tòi khám phá ra những cái mới lạ chung quanh cuộc sống của mình, nhưng đồng thời lý trí cũng thúc đẩy chúng ta biết tín nhiệm vào Đấng đã tạo dựng nên cái mà chúng ta khám phá ra được, bởi vì không ai trong chúng ta, dù tài giỏi đến đâu chăng nữa, cũng không sáng tạo ra thêm cái gì cả, mà chỉ khám phá ra những cái đã có sẵn ở trong trời đất mà thôi.
Chẳng hạn như tôi thích nhất là “quậy phá” máy vi tính, đã ngồi trước máy thì khó mà đứng dậy được, cho nên đã khám phá ra một chương trình có thể nói là hoàn chỉnh để đánh fonts thiếng Việt chung với tiếng Hoa (Trung quốc) mà không cần phải đổi chương trình, đó không phải là sáng tạo, mà là khám phá ra cái mới đã có sẵn trong máy vi tính, thế thôi.
Lý trí luôn làm đúng, có điều bởi cái tâm kiêu ngạo, nên chúng ta không muốn tin tưởng và trông cậy vào Thiên Chúa mà thôi!
“Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó…” (Mt 6, 25-34)
---------------------------------
 
TẬP MƯỜI:
 
LỜI NÓI
 
91. LỜI NÓI LÀM ẤM MÙA ĐÔNG GIÁ LẠNH
William Barclay
Vào một ngày mùa đông , trên trời thì gió tuyết, dưới đất thì kết băng, nhà giảng đạo người Mỹ tên Philiphê Buluke mặc chiếc áo mỏng manh đứng trên góc phố, mua một tờ báo nơi em bé bán báo đang lạnh cóng run người, trước khi đi, ông ta tươi cười vui vẻ nói với em bé: “Hôm nay trời lạnh thật”.
Trên mặt em bé ấy có màu sắc tươi vui, trả lời: “Dạ đúng, trước khi ông đến, thì trời thật rất lạnh ạ”.
Suy tư 91:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”! muốn cho vừa lòng nhau thì phải “uốn lưỡi” bảy lần trước khi nói, xem ra cha ông tổ tiên chúng ta không những là những người rất rành rọt tâm lý trong giao tiếp, mà còn là những người có tâm hồn khoan dung, tế nhị.
Trong giao tiếp hằng ngày, không ai thích người đối thoại với mình lầm lầm lì lì cái mặt, mà chúng ta cũng chẳng ưa gì cái người làm mặt lì lì lầm lầm với chúng ta, bởi vì một nụ cười tươi vui, một lời nói nhẹ nhàng sẽ làm nảy sinh thiện cảm không những nơi người đối thoại, mà ngay cả những người chung quanh cũng cảm thấy vui vẻ.
Có những lúc người ta cần một lời nói nhẹ nhàng hơn tiền bạc, cần một nụ cười chân thành hơn lời nói khách sáo, cần một ánh mắt quan tâm tế nhị hơn là cử chỉ vồn vã mà lòng thì rỗng tuếch, thoáng qua…
Thân thể lạnh cóng thì có thể dùng áo choàng lông cừu mặc vào để thân thể được ấm áp, chứ một tâm hồn đã “lạnh cóng” thì dù cho mặc một trăm cái áo choàng lông cừu quý giá cũng chẳng “ăn thua” gì, mà chỉ có một nụ cười chân thành và một lời nói quan tâm tế nhị mới làm cho tâm hồn “lạnh cóng” ấy ấm áp mà thôi!
92. THINH LẶNG
Charles L. Allen
Star Daily là một chuyên gia làm việc tại viện điều trị bệnh tâm linh, ông nói: “Theo như tôi biết, trong tất cả những người tôi quen biết, nếu học tập được đạo thinh lặng, hơn nữa thực tế mà nói, bất luận là nam hay nữ đều sẽ không bị bệnh tật”.
Thật vậy, học tập thinh lặng so với dược phẩm thì có hiệu quả an ủi và chữa bệnh hơn. Nhà khoa học vĩ đại Pascal đã nói: “Sau khi đã qua một thời gian dài quan sát, tôi được một kết luận, là một trong những khó khăn lớn nhất của một cá nhân, chính là họ thiếu năng lực tĩnh tại ”.
Suy tư 92:
Cha Vincent Lebbe đã giải thích và dặn dò các đệ tử về việc giữ thinh lặng như sau: “Thinh lặng là không khí nuôi dưỡng tu đức nội tâm và toàn bộ đời sống siêu (nhiên) tính” .
Thật vậy, trong thinh lặng chúng ta dễ dàng nghe được tiếng nói thì thầm của Thiên Chúa; trong thinh lặng chúng ta thấy rõ ràng những điều hay điều xấu của mình hơn; trong thinh lặng chúng ta dễ kết hợp mật thiết với Thiên Chúa hơn. Trong cuộc sống thường ngày cũng thế, không ai thích người nói nhiều, nói liên tu bất tận; cũng chẳng ai thích người suốt ngày không nói một câu!
Thinh lặng không có nghĩa là “câm như hến” suốt ngày, nhưng thinh lặng là biết nói, biết “câm” đúng lúc và biết trả lời đúng lúc, người biết thinh lặng là người không cãi cọ, không to tiếng với người khác, vì trong thinh lặng họ đã biết chế ngự được bản tính của họ; người biết thinh lặng không phải nói để mà nói, nhưng nói để xây dựng, để đem lại lợi ích cho cộng đoàn, cho tha nhân.
Chúa Giêsu, trước khi chọn các môn đệ, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm với Cha trên trời, cũng có nghĩa là  Ngài đã đàm đạo thâu đêm với Cha, bàn hỏi với Cha về những chuyện đại sự mà Ngài phải làm, bàn hỏi trong thanh vắng của đêm khuya.
Thinh lặng là một nghệ thuật để tìm ra được những bí ẩn trong đời sống siêu nhiên, cũng như giải đáp được những ẩn số trong cuộc sống thường ngày của mỗi người.
93. NGHE VÀ NÓI
Sunshine
Một người quản lý gia đình đi đến đảo Way-fu-ban xứ Si-kan, diễn giảng cho người La-fu-lan địa phương, nói với họ làm thế nào để giải quyết công việc gia đình cho được tốt hơn.
Đến giờ diễn giảng, một đám người trong thôn đã tập trung ở ngoài phòng khách, nhưng chỉ có một số ít người cả gan dám tiến vào trong phòng khách, thế là người diễn giảng đứng ngay cửa, mời họ tiến vào, ông ta bảo đảm với họ là vào miễn phí, nghe ông ta nói như thế, trong đám dân chúng vang lên tiếng thì thầm, và mọi người lẩm bẩm không thôi.
Người diễn giảng không biết làm gì cho phải, cũng như không hiểu tại sao họ vẫn cứ chậm chạp không dám tiến vào, cho nên ông ta hỏi một người xem ra khá hoạt bát thông minh, vấn đề là ở đâu?
Người ấy nói với ông ta: “Trước khi chúng tôi tiến vào nghe ông nói, chúng tôi muốn biết, mỗi người chúng tôi được trả bao nhiêu tiền?”
-    “Cái gì! Tôi phải trả tiền mời các ông lại nghe tôi diễn giảng sao?”
-    “Đúng vậy, đó là chuyện đương nhiên, mọi người đểu biết nói, nói, nói, nhưng nghe thì lại không dễ dàng, vậy, ông muốn trả cho chúng tôi bao nhiêu tiền ạ?”
Suy tư 93:
Nói, thì ai nói cũng được, đó là nói chuyện tầm phào, chuyện tào lao.
Nói, thì ai nói cũng được, đó là nói chuyện xấu, chuyện vu oan giá hoạ cho người khác, lỗi đức bác ái…
Nghe, thì ai nghe cũng được, ngoại trừ những người điếc, nhưng nghe mà không thực hành thì tội nặng hơn người điếc.
Nói những lời xây dựng cho nhau, nói những lời tốt đẹp cho nhau, thì rất ít người nói.
Nghe những lời tốt đẹp, Lời đem lại sự sống đời đời, thì lại càng hiếm người nghe hơn.
94. LỜI NÓI RỖNG TUẾCH
Bruno Hagspiel
Có một giáo sư người Mỹ lần thứ nhất được mời đến diễn giảng tại một trường đại học của Trung quốc, tại nơi diễn giảng có một vị thông dịch, dịch lời của ông ta thành tiếng Trung quốc và viết trên bảng đen.
Nhưng vị giáo sư đã chú ý, có một phần thời gian người dịch đều không ghi chữ nào cả, sau khi diễn giảng kết thúc, vị giáo sư hỏi anh ta tại sao vậy.
Anh ta trả lời rất nhanh: “Lúc người diễn giảng nói ra điểm gì, chúng tôi mới viết”.
Suy tư 94:
Diễn giảng, tự nó đã nói lên tầm quan trọng rồi, mà diễn giảng trong thánh lễ lại càng quan trọng hơn, bởi vì bài giảng trong nhà thờ của một vị linh mục, không những là cổ võ cho một học thuyết giáo lý, một đường lối sống đạo, mà còn là rao giảng một niềm tin mà mình đã sống, đã cảm nghiệm.
Không phải giảng dài, giảng lâu là bài giảng hay, một bài giảng hay là một bài giảng mà mọi người sau khi nghe xong, liền cảm thấy “thấm thía” với đời sống của mình, và họ cảm thấy hình như lòng mình được mở ra và quyết tâm làm lại cuộc đời mới.
Có linh mục rất lo lắng khi soạn bài giảng, vì không biết bài giảng của mình có được mọi người chấp nhận không? Lại có linh mục rất thoải mái khi soạn bài giảng, vì chính cuộc sống của ngài đã là một bài giảng, cho nên khi giảng thì ngài chỉ việc đơn sơ chia sẽ những cảm nghiệm của mình qua bài Tin Mừng cho giáo dân nghe, thế thôi.
Mỗi ngaày đều suy tư và thực hành Lời Chúa, thì bài giảng chỉ là bản sao lại mà thôi, lo gì chứ!
Nếu có lo, thì điều phải lo là: tôi đã sống những điều tôi sắp giảng, đã giảng và sẽ giảng cho giáo dân của tôi không?
95. SỨC MẠNH CỦA BÚT SẮC
Quote
Có một ngày, người trợ lý thuyền trưởng trên tàu bị say, cho nên đến buổi tối, thuyền trưởng viết nhật ký tàu đi của ngày hôm đó như sau: “Hôm nay người trợ lý thuyền trưởng bị say rượu”.
Người trợ lý thỉnh cầu thuyền trưởng bỏ đoạn ấy đi, bởi vì như thế có thể làm cho chủ tàu không bằng lòng, và bãi bỏ chức vụ của anh ta, hơn nữa đây cũng là lần thứ nhất anh ta phạm quy định, nhưng thuyền trưởng cự tuyệt, ông ta nói: “Đây là sự thật, huống hồ là tôi đã viết”.
Qua mấy ngày sau, đến phiên trợ lý trực, nên anh ta viết nhật ký tàu đi biển, sau khi chiếu theo quy định viết vị trí, tốc độ và hành trình của tàu, thì anh ta thêm một câu: “Hôm nay thuyền trưởng tỉnh lại”.
Thuyền trưởng nhìn thấy anh ta viết như thế liền phản đối, bởi vì ghi chép như thế sẽ dẫn tới sự hiểu lầm, khiến người ta cho rằng anh tỉnh dậy tức là trong mỗi sự việc là chuyện không bình thường. Nhưng anh trợ lý đã chiếu theo lời của thuyền trưởng đã nói trước đây, mà cự tuyệt, anh ta nói: “Đây là sự thật, huống hồ là tôi đã viết”.
Mỗi sự việc có rất nhiều cách nói, có thể làm cho người ta không đồng cảm tưởng cách rõ ràng, đối với ngôn hành và phẩm đức của đương sự sẽ tạo thành ấn tượng hoàn toàn tương phản.
Suy tư 95:
Dù là bậc thánh, bao lâu còn sống ở thế gian thì anh vẫn còn có thể phạm lỗi, huống chi là một thủy thủ lênh đênh trên biển cả!
Biển cả là thế gian bao lâu chúng ta còn lênh đênh trên biển thế gian với thân xác nặng nề nầy, chúng ta vẫn có thể phạm tội; cố chấp đến những lỗi nhỏ thông thường của người anh em, là chúng ta đã ngăn cản bước tiến của họ.
Một thủy thủ uống say, tội đâu có lớn bằng người phụ nữ ngoại tình trong Tin Mừng của thánh Gioan, vậy mà Chúa Giêsu đã không lên án người phụ nữ ấy: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu…!” (Ga 8, 2-11).
Chúng ta không phải là quan toà vậy mà chúng ta kết án anh chị em; Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng Ngài lại không kết án chúng ta, mặc dù chúng ta đã xúc phạm trực tiếp đến tình yêu của Ngài.
Quên đi những lỗi lầm của anh chị em, và khắc sâu những lỗi lầm của mình.
96. THĂM HỎI
Athur Tonne
Pai-di sau khi mổ xong liền được đưa vào phòng điều dưỡng, có ba người bạn của anh ta đến thăm bệnh, nghĩ rằng để cho tâm hồn của bạn được vui vẻ một chút khi trò chuyện, họ kể cho anh nghe một vài chuyện lạ mà họ đã nghe.
- “Tôi nghe nói có một người sau khi mổ xong”, một người trong họ nói, “bác sĩ bỏ lại trong bụng bệnh nhân một miếng bông gòn, không cách gì khác hơn, chỉ có cách là phẫu thuật thêm một lần nữa, để lấy miếng bông gòn ấy ra”.
Người thứ hai nói: “Còn có một lần, bác sĩ bỏ quên cái kéo trong bụng bệnh nhân, cho nên chỉ có cách tốt nhất là mổ người bệnh ấy lại thêm một lần nữa”.
Vừa đúng lúc đó bác sĩ đã làm phẫu thuật cho Pai-di thò cái đầu vào, lớn tiếng hỏi: “Có ai nhìn thấy cái mũ của tôi không?”
Pai-di lập tức hôn mê.
Đi thăm hỏi mà không cao minh thì giống như một người giải phẫu không cao minh, đem đồ vật bỏ lại trong não bệnh nhân, cần phải phí nhiều tâm lực chí khí mới có thể đem nó ra được.
Suy tư 96:
Tôi làm linh hướng cho một chi đoàn Đạo binh Đức Mẹ mỗi tuần họp một lần, và nghe mỗi thành viện báo cáo công tác trong tuần qua, điều báo cáo mà tôi nghe nhiều nhất, đó là công tác đi thăm gia đình giáo dân (hoặc người lương) lâu ngày không đến nhà thờ, có thành viên báo cáo: có gia đình khi nghe mình tới thăm họ, họ liền khoá cửa, lên lầu ngồi không thèm tiếp; có gia đình thì vẫn tiếp mình nhưng tỏ thái độ lạnh nhạt… Tại sao vậy? Mình đâu có làm gì họ đâu, tới thăm và mời họ đi nhà thờ lại mà thôi…!
Nguyên nhân không phải tại họ ghét mình, nhưng chính là ở chỗ, khi chúng ta đến thăm họ với thái độ như thế nào? Có người đi thăm gia đình giáo dân, thay vì nói chuyện với họ để đánh tan ngờ vực, nghi kỵ giữa họ và nhà thờ, thì lại nói chuyện xấu người nọ kẻ kia; có người đi thăm giáo dân thì với bộ mặt kênh kênh ta đây là đạo binh Đức Mẹ, cũng có nghĩa là người đạo đức, nói chuyện thì làm ra vẻ kẻ cả… thì làm sao mà lôi kéo họ đến nhà thờ chứ!
Đi thăm các gia đình thờ ơ với nhà thờ, là công việc khó khăn hơn đi thăm bệnh nhân nhiều, cần phải tế nhị và khôn ngoan trong cách ăn nói, và phải cầu xin Thiên Chúa soi sáng để biết phải nói gì với họ, và xin Ngài biến đổi tâm hồn họ; đó là sự khiêm tốn cần phải có của người làm công tác truyền giáo, họ cũng được gọi là những người đi thăm bệnh vậy!
97. IM LẶNG LÀ VÀNG
Bruno Hagspiel
Có một khách tham quan người Mỹ lúc đến tham quan Italy thì mời một tài xế, chở cô ta du lãm phong cảnh địa phương. Buổi chiều ngày thứ nhất, anh tài xế giới thiệu với cô ta một vài cổ tích, nhưng cô ta lại rất là không khách sáo nói: “Tôi mời anh để thay tôi lái xe, chứ không phải để nói chuyện phiếm với tôi”. Thế là anh tài xế trong suốt một tuần lên xe xuống xe đều không nói một lời nào.
Lúc đợi anh tài xế đem hoá đơn lại, có một khoảng thu phí mà cô gái người Mỹ nhìn không hiểu.
Anh tài xế giải thích: “Đây là khoảng phí tổn giữ gìn im lặng, tôi cũng không thích nhận khoản tiền nầy, nhưng đã làm rồi, thưa cô, như thế tôi không thu cũng không được ạ”.
Suy tư 97:
Im lặng là vàng, cũng có nghĩa là: tự nó đã là vàng rồi.
Vàng theo giá trị vật chất có giá trị thực dụng, và được làm chuẩn trong công việc mua bán tiền tệ của các quốc gia trên thế giới, cho nên nó quý.
Vàng theo quan niệm mỹ thuật, nó được “dát” vào nơi những sản phẩm quý giá, và làm tăng thêm vẻ lộng lẫy cũng như giá trị cho vật ấy.
Vàng không sợ rỉ sét, và chỉ có lửa mới tôi luyện được nó.
Im lặng là vàng, không phải ai cũng biết im lặng, người biết im lặng rất ít, vì thế cho nên nó quý, nó quý là bởi vì khi người im lặng nói lên, thì giá trị lời nói “nặng ký” gấp ba bốn lần người hay nói.
98. MÌNH LÀM MÌNH CHỊU
Arthur Tonne
Trong thị trấn nọ, có một mụ đàn bà rất thích xía vào chuyện của người khác, thích nói dài nói ngắn, nếu không bàn luận chuyện của người khác thì không thể chịu được, có một ngày, bà ta chú ý đến một ngưới hàng xóm, đậu xe hơi bên một cái quán rượu nhỏ cho đến sáng sớm ngày hôm sau mới lái xe đi.
Bà ta bắt đầu loan tin thất thiệt, nói người đàn ông ấy nhất định phải uống rượu say, cho nên ông ta không trở về nhà, đương nhiên xe của ông ta cũng bị hư hại, vì vậy mà ông ta nhất định phải ở qua đêm trong quán rượu.
Người đàn ông ấy sau khi nghe được những tin đồn ấy, một lời cũng không nói, bèn quyết định cho mụ đàn bà ấy một bài học. Đêm ấy sau khi tan sở, bèn lái xe dừng ngay trước cửa nhà của mụ đàn bà thích xía vào chuyện của người khác ấy, suốt một đêm không lái xe đi. Kết quả người hàng xóm bên phải, bên trái, bắt đầu giống như lời của mụ ta, mà đồn đoán ầm cả lên…
Suy tư 98:
Người hay hồ nghi thì trong mọi hoàn cảnh đều có thể hồ nghi, tuy nhiên sự hồ nghi của các nhà khoa học thì khác với sự hồ nghi của các triết gia; hồ nghi của người có trí óc bén nhạy với thự tế khác với hồ nghi của người có lòng ghen ghét; người có tâm hồn ghen ghét thì luôn luôn nghĩ xấu cho những người mà họ không thích, nhất cử nhất động của người mà họ ghét đều bị họ xuyên tạc và đặt điều, cái điều mà người ta thường gọi là vu oan giá hoạ cho người khác.
Những người “ăn không ngồi rỗi” thường là những người như thế, trong hàng xóm mất đoàn kết cũng vì họ nghe chổ nầy nói chổ kia không đúng sự thật, mà thường nói đi thì không sao, nhưng nói lại thì không nói cho có, “có ít xít cho nhiều” làm mất tình đoàn kết giữa anh em với nhau.
Trong cộng đoàn không bao giờ để một thành viên nào “ngồi không” cả, bởi vì “ở không là cội rễ mọi sự dữ”, cho nên mỗi thành viên trong cộng đoàn phải được bố trí công việc cho hợp với khả năng, trình độ của họ, để họ say mê làm việc mà không còn giờ để “ngồi không” nói chuyện người khác, hơn nữa, mỗi một người phải luôn ý thức mình là một “công cụ” của Thiên Chúa, một người thợ làm công trong “vườn nho” của Ngài, mà thợ làm công thì không thể ngồi không mà lãnh tiền công được.
Công việc-Học hành-Công việc…
99. BỐN NGỰA theo KHÔNG KỊP cái LƯỠI
Bruno Hagspiel
Một vị linh mục nằm trên giường sắp chết vì cõi lòng tan vỡ, vết trọng thương của ngài chính là vì bị quá nhiều lời đồn đãi và những lời bêu rếu.
Có một bà giáo dân là một trong những hung thủ chính, đến xin vị linh mục rộng lòng tha thứ, bà nói: “Thưa cha, con thật là buồn và hối hận, phạm rất nhiều tội làm tổn thương đến cha, con bịa đặt tin đồn gây nhiều điều rắc rối, nếu con có thể vì cha mà làm chút việc gì đó thì xin cha nói cho con biết, con nhất định và rất bằng lòng làm chuyện đó”.
Vị linh mục sắp chết kéo cái gối ra, dùng cánh tay run rẩy đưa cho bà ấy và nói: “Bà đem cái gối nầy lên trên lầu chuông, ném tất cả lông vũ ở trong ra”.
Để cho vị linh mục phấn khởi, bà ta bèn nghe lời của linh mục chạy lên lầu chuông, ném tất cả lông vũ ra, toàn bộ bị một cơn gió mạnh thổi đi tứ tán, không vết không tích. Sau khi bà ta đã ném sạch sành sanh tất cả các lông vũ, bèn trở lại nói với vị linh mục: “Con đã nghe lời cha dặn dò mà làm rồi”.
Vị linh mục nói: “Bây giờ bà đi ra, thu tất cả các lông vũ ấy lại, rồi đem bỏ vào trong cái gối”.
Bà ấy thất thanh nói: “Không thể được ạ, gió đã thổi nó đi rất xa rất xa rồi”.
Suy tư 99:
Trong tất cả các tội, không có tội nào gây thiệt hại nhiều cho người ta bằng tội: nói hành nói xấu người khác
Nói hành nói xấu tức là nói những điều không tốt về người thứ ba, thêm điều bịa đặt cho người ta những chuyện không có, làm mất danh dự của họ. Chuyện tốt thì gió thổi bay đi nửa làng, còn chuyện xấu gió thổi bay đi cả tỉnh thành. Chuyện một nói ra hai, hai ra bốn, bốn ra tám… và cứ thế mà nhân lên hàng ngàn hàng vạn, thử hỏi danh dự của người ta còn gì chứ, mà khi lời nói đã ra khỏi miệng rồi, thì y như đám lông vũ kia, bị gió thổi bay tứ phương thiên hạ, thì làm sao mà gom lại được chứ? Thật là tai hại vô cùng.
Người khác ngồi lê đôi mách nói chuyện xấu của người khác thì tội to bằng mặt trăng, nhưng các linh mục, tu sĩ mà ngồi lê đôi mách nói xấu kẻ khác thì tội lớn gấp mười lần mặt trời, bởi vì họ là những người được chọn giữa người phàm (Ga 15, 19; 17, 6) để nói Lời của Thiên Chúa; bởi vì càng cao danh vọng thì càng nhiều gian nan.
100. LỜI NÓI KHÔNG QUAN TRỌNG
Willi Hoffsuemmer
Có một ngày, tim, não và lưỡi quyết định không nói ra lời nói không quan trọng nữa, tim nói: “Những lời nói ấy chỉ làm giảm nhẹ phân lượng của tôi, khiến tôi trở thành yếu đuối, hôm nay mỗi một người đều phải kiên cường mới được”.
Não nói: “Kiến nghị, công thức và suy luận vĩ đại, mới là sản phẩm mà tôi nên có. Tôi cũng không có thể bị lời nói không quan trọng ấy làm phiền lần nữa”.
Vì vậy mà tim liền bắt đầu chỉ luân phiên đưa cho lưỡi những lời nói cương cứng và nghiêm khắc quá đáng, não cũng chỉ sản sinh ra những lời nói học vấn, và lưỡi thì phát biểu không nên lời, giữa cái lưỡi cũng không nói ra được một chữ không có gì quan trọng.
Sau khi thực hành quyết định ấy, thế giới biến thành trống rỗng, lạnh nhạt và không có hy vọng.
Nhưng vẫn còn có một vài người còn nhớ được những lời nói không quan trọng ấy, họ bắt đầu tìm tòi trong lịch sử. Đầu tiên họ ngại bị người khác cười, nhưng cái làm cho người ta cảm thấy có hứng thú là, những lời nói không quan trọng ấy đã chế tạo ra vui vẻ, người ta bắt đầu lấy miệng truyền miệng, lấy tâm truyền tâm, lấy não truyền não lan rộng ra, không bao lâu, những lời nói ấy lại được lưu thông rộng rãi, thế giới lại trở thành một nơi thân thiện.
Những lời nói không quan trọng ấy là:
“Cám ơn!”
“Chúc anh (chị) may mắn!”
“Đúng!”
“Có gì là cống hiến sức lực đâu?”
“Quá tuyệt!”
“Cố gắng lên!”
Suy tư 100:
Có những lời nói rất văn vẻ, nhưng khách sáo và trống rỗng.
Có những lời nói xem ra chẳng quan trọng, không văn vẻ, nhưng lại đem an ủi và khích lệ cho mọi người, đó là lời cám ơn và xin lỗi.
Cám ơn và xin lỗi phải luôn luôn đặt sẵn trên miệng của người lịch sự, vẫn biết đôi lúc nói khách sáo nhưng người nghe vẫn cảm thấy vui vẻ.
Trong cuộc sống đời thường, tiếp xúc rất nhiều hạng người trong xã hội, lời nói cám ơn và xin lỗi lại càng được chú trọng hơn, càng văn minh, người ta càng dùng những lời đó nhiều hơn, ai không biết nói lời cám ơn và xin lỗi, thì người ấy được coi là người không có văn hoá.
Lời nói cám ơn và xin lỗi là lời nói căn bản của khoa nhân bản, hiện nay trong các Đại Chủng viện, vấn đề đào tạo một linh mục tương lai có nhân bản được đặt lên ngang hàng với các môn học quan trọng khác, bởi vì, xã hội hôm nay, thế kỷ 21, khác với xã hội trước, các linh mục cần phải thích nghi với đời sống của xã hội, không còn tự coi mình là “ông vua” trong xứ nữa, họ phải đi đến với người giáo dân, họ phải có đời sống đạo đức trỗi vượt hơn mọi người, từ cách đi đứng, nói năng, làm việc, ăn uống… sao cho phù hợp với chức vị linh mục, chủ chăn của mình, muốn được như thế, ngoài việc có đời sống đạo đức họ phải biết kết hợp với khoa nhân bản để dễ dàng hoà đồng với xã hội và với cộng đoàn giáo xứ của mình!
Tôi đã trò chuyện nhiều với các linh mục, và nhận thấy rằng, đa số các linh mục trẻ đều chê môn nhân văn, bởi vì họ cho rằng, đó là những việc dạy cho con nít để chúng nó hiểu và sống cho có lễ phép với người trên, chứ “làm cha” rồi học chi cái đó! Bởi vì có quan niệm như thế nên có một số linh mục trẻ đã không biết cách xưng hô với người trên sao cho lễ phép, mà cứ nghĩ mình là “cha” cho nên bất kể người già cả đáng tuổi ông, tuổi cố, tuổi cha của mình, mà cứ xưng hô cha với con giống như xưng hô với các trẻ em vậy.
Người có nhân bản không phải chỉ trong cách nói năng, xưng hô, mà ngay cả trong phong cách ăn uống…
Sống có nhân bản, tự nó đã giúp ích cho việc truyền giáo thành công một nửa, phần còn lại chúng ta giao cho Chúa làm trong cách sống nhân bản của chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư