Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2017

Giảng tĩnh tâm cho các thầy chuẩn bị chịu chức Phó Tế

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
阮仁才 神父





GIÚP TĨNH TÂM CHO CÁC ANH EM
CHUẨN BỊ
CHỊU CHỨC PHÓ TẾ
為即將領受
執事聖職的兄弟講避靜





Ngày thứ nhất第一天:




SUY TƯ VỀ ƠN GỌI
聖召的默想


 1.   Ơn gọi làm ngôn sứ先知的聖召[1].
Đặc sủng không phải là thừa tác vụ, nhưng là một loại ân sủng mà Thánh Thần ban cho chúng ta theo nhu cầu của Hội Thánh, tức là đòi buộc phải có những chức vụ vững chắc như các bí tích mà Đức Chúa Giê-su đã lập, chứ không phải những ơn sủng chỉ có tính thời đoạn, thánh Phao-lô tông đồ đã liệt kê ra các đặc sủng cố định trong Hội Thánh như sau: “Vậy anh em, anh em là thân thể của Đức Ki-tô , và mỗi người là một bộ phận. Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhât là các Tông Đồ, thứ hai là ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được những ơn chữa bệnh...”[2].
     Trong thời kỳ đầu của Hội Thánh, các ngôn sứ đóng vai trò rất quan trọng, được đặt ngang hàng với các tông đồ, như thánh Phao-lô tông đồ trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô đã nói: “Vậy anh em không còn là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng của các Tông Đồ và các Ngôn Sứ, còn đá góc tường chính là Đức Ki-tô”[3], hoặc là: “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các Tông Đồ và các Ngôn Sứ của Người”[4].
Ơn gọi làm ngôn sứ chính là một đặc sủng cố định, mà hôm nay trong Hội Thánh bí tích Truyền chức thánh đã thể hiện rất rõ ràng cho chúng ta thấy rõ điều đó, khi công đồng Va-ti-căn II đã xác định trong “Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục” như sau: “Thực vậy, do chức thánh và sứ mệnh lãnh nhận nơi các vị giám mục, các linh mục được đặc cử để phụng sự Đức Ki-tô là Thầy, là Linh Mục và là Vua”[5], và qua đó chức linh mục cũng được trao ban quyền thánh hóa, cai quản và giảng dạy.
Chính quyền giảng dạy này đã làm nổi bật lên đặc sủng cố định nơi các linh mục và cũng được ban cho các phó tế một phần trong việc giảng dạy, đó chính là vai trò ngôn sứ của Tân Ước mà Đức Chúa Giê-su đã thiết lập trong bí tích Truyền chức thánh, để những người được tuyển chọn cách hợp pháp thay mặt Đức Chúa Giê-su mà giảng dạy cho dân của Ngài.
Trong thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Cô-rin-tô, thánh Phao-lô tông đồ đã chỉ ra những phong phú của ơn gọi ngôn sứ, ơn mặc khải, ơn nói tiên tri; nhưng ngài cũng nhấn mạnh đến đặc sủng của ngôn sứ chính là làm chủ được chính mình, bởi vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an[6] và đem sự đoàn kết đến cho mỗi người trong cộng đoàn nhờ Đức Chúa Thánh Thần.
Ơn gọi của ngôn sứ trước hết là nói Lời Chúa để xây dựng, khích lệ và an ủi; tiếp đến là phục vụ để trở thành chứng nhân cho Lời Chúa mà mình đã rao giảng, tức là kiện toàn cộng đoàn trong việc xây dựng, củng cố đức tin bằng lời khích lệ và an ủi những người yếu đuối nơi thể xác và tinh thần.

2.   Ơn gọi giáo phận較區的聖召 (sơ lược)
Chúng ta cũng cần phân biệt giữa ơn gọi làm linh mục giáo phận (gọi là linh mục triều) và linh mục của các dòng tu (gọi là linh mục dòng).
Trước hết ơn gọi giữa đời được nhấn mạnh đến các cha sở đang đóng vai trò mục tử trong cộng đoàn giáo xứ của giáo phận cũng như các linh mục thuộc các dòng tu, đây là ơn gọi mà Thánh công đồng Va-ti-căn II đã nói: “Được tuyển chọn từ loài người và thiết lập vì loài người để lo việc Thiên Chúa hầu dâng những hiến vật và hy tế đền tội, các linh mục sống với người khác như anh em...”[7],[8]. Các linh mục coi sóc xứ đạo là những mục tử đúng với nghĩa đen và nghĩa bóng, các ngài ở với đàn chiên của mình, bồng ẳm trên tay những con chiên con và băng bó vết thương cho những con chiên đau ốm bệnh hoạn, và an ủi những con chiên bất hạnh, do đó mà như Đức thánh cha Phan-xi-cô đã nói: người mục từ chân chính phải mang trên mình mùi của chiên.
Vì ở giữa đời với đàn chiên nên cũng có rất nhiều cám dỗ bởi đàn chiên béo tốt và những cạm bẫy của ma quỷ, nên các ngài phải luôn xác tín mỗi ngày về ơn gọi của mình và cầu xin ơn trợ giúp đến từ nơi Thiên Chúa, bằng không thì lâu dần với những cám dỗ của ma quỷ và sự hưởng thụ vật chất, các ngài mất đi mùi chiên trên thân của mình, và như thế có nghĩa là các ngài đã buông tay đầu hàng cám dỗ và không thể trở thành mục tử chân chính như Đức Ki-tô mong muốn, và cũng không thể trở thành chứng nhân cho Chúa khi ban phát lương thực (các bí tích) thơm ngon cho đàn chiên của mình.
Trong thư gởi cho giáo đoàn Do Thái, tác giả đã khẳng định rằng Đức Ki-tô là thượng tế đời đời theo phẩm hàm Men-ki-xê-đê[9], nghĩa là một đặc sủng vĩnh viễn cố định mà Thiên Chúa Cha đã ban cho Đức Ki-tô –Con Một của Người- để qua đặc sủng này mà Đức Ki-tô trở nên con người như chúng ta –ngoại trừ tội lỗi- cùng chia sẻ thân phận xác phàm yếu đuối và những đau khổ cũng như hạnh phúc để cứu độ cho nhân loại.
Cũng vậy, ơn gọi làm linh mục giáo phận là để người mục tử ở giữa đàn chiên, cùng chia sẻ cuộc sống với họ như Đức Chúa Giê-su ba năm sống giữa những người Do Thái, mang trên mình những đau khổ của con người, các linh mục giáo phận đã lãnh nhận đặc sủng trở thành tư tế đời đời, là người được chia sẻ chức tư tế của Đức Chúa Giê-su, là người được sai đi bởi Giáo Hội qua vị giám mục của mình. Ơn gọi này đòi hỏi các ngài phải dấn thân không ngừng vì sứ vụ và vì đặc sủng mà các ngài đã lãnh nhận trong ngày truyền chức, để từ đó các ngài trở thành người của mọi người, tức là người của mọi thành phần dân Chúa, như tác giả thư Do Thái đã nói:”Phải, đó chính là vị thượng tế mà chúng ta cần đến: một vị thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. Đức Chúa Giê-su không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ”[10].
Các linh mục giáo phận ngày đêm sát cánh bên giáo dân của mình như người chăn chiên sát cánh bên đàn chiên của mình, để canh giữ (cai quản, chăm sóc (thánh hóa) và an ủi vỗ về (giảng dạy), nhất là mỗi ngày khi dâng thánh lễ, các ngài thực sự trở nên một Đức Ki-tô khác hiến tế đời mình cho Thiên Chúa và cho đàn chiên của mình như Đức Ki-tô “vào cung thánh không phải với máu của các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình”[11], “Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống”[12].
Linh mục hiến tế đời mình là để cho danh Chúa cả sáng và đàn chiên được sống.

3.   Ơn gọi tu dòng修會的聖召 (sơ lược)
Cũng là linh mục như các linh mục giáo phận với đầy đủ ân sủng mà Chúa ban cho qua Giáo Hội, các linh mục tu dòng cũng trở thành những mục tử như các linh mục khác.
Ơn gọi tu dòng là một ơn gọi đặc biệt, ngoài đặc sủng để được thi hành chức vụ cách cố định trong Giáo Hội, thì các linh mục tu dòng có thêm một đặc sủng đặc biệt khác, đó chính là ơn đoàn sủng trong một hội dòng hay trong một cộng đoàn qua việc tự nguyện theo Đức Ki-tô với một tinh thần tự do thanh thoát, với việc tuân giữ các lời khuyên của Phúc Âm là Vâng Lời, Nghèo Khó và Khiết Tịnh.
Thánh Công Đồng Va-ti-căn II trong sắc lệnh “Canh tân thích nghi đời sống Dòng tu” đã chỉ thị cho các hội dòng như sau: “Đời sống tu trì trước hết nhằm làm cho các tu sĩ theo Đức Ki-tô và kết hợp với Thiên Chúa nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm; bởi thế, phải thận trọng cân nhắc: những nổ lực tốt đẹp nhất nhằm thích nghi với các nhu cầu hiện đại sẽ chẳng sinh kết quả gì, nếu không được linh động nhờ sự canh tân về tu đức, vì đó là yếu tố bao giờ cũng giữ địa vị then chốt, ngay cả khi phải xúc tiến các hoạt động bên ngoài”[13].
Như vậy các linh mục tu dòng ngoài việc chuyên tâm cầu nguyện thì còn phải thực hành việc bác ái tùy theo phương châm và tôn chỉ của hội dòng mình, bởi vì đó chính là ơn gọi mà họ được mời gọi dấn thân sau khi cầu nguyện và tìm hiểu với lòng ước muốn dâng mình cho Chúa của mình.
Ơn gọi tu dòng khác hẳn với ơn gọi linh mục triều (giáo phận), ơn gọi tu dòng là gắn bó với một cộng đoàn mà chúng ta gọi là nhà và các thành viên đều là anh em (chị em) với nhau, cùng nhau chia sẻ kinh nguyện, bác ái và vì cộng đoàn mà hy sinh những ích lợi thuộc về cá nhân mình và dưới quyền coi sóc của một bề trên hợp pháp, nhưng hơn hết vẫn là đặc sủng cộng đoàn mà Chúa ban cho họ là trung thành tuân giữ các lời khấn của mình vì Đức Ki-tô, bởi vì khi không còn tuân giữ các lời khấn nữa thì các tu sĩ sẽ làm xáo trộn cộng đoàn và trở nên gương mù gương xấu cho người khác. Vì thế, tu sĩ của bất cứ hội dòng nào cũng phải đi tìm chỉ một mình Thiên Chúa và phải liên kết với Ngài qua đời sống chiêm niệm và nhiệt thành truyền giáo, vì nhờ chiêm niệm mà họ kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và nhận ra thánh ý Chúa khi làm công việc truyền giáo[14].
Như thế, các tu sĩ và các linh mục của các dòng tu cần phải luôn đào sâu ơn gọi của mình là đời sống cộng đoàn, hay gọi là đời sống chung, vì đây chính là cốt lõi của đời sống tu dòng qua việc cùng nhau chiêm niệm và làm việc bác ái, kết hợp với Đức Chúa Giê-su Thánh Thể mỗi ngày. Đây là một ơn gọi, hay là một đặc sủng nhưng không mà Thiên Chúa ban cho người tu sĩ khi họ quyết tâm dấn thân sống theo các lời khuyên của Phúc Âm.

1/ Đức khiết tịnh貞潔的德行.
     Đức Chúa Giê-su nói: “Quả vậy, có những người là hoạn nhân vì từ lòng mẹ sinh ra đã như thế; có những người là hoạn nhân vì bị người ta hoạn; và có những người là hoạn nhân do họ tự ý sống như thế vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu”[15].
     Đức khiết tịnh được các thánh ví như nhân đức của các thiên thần, là một ân huệ cao quý của ơn thánh mà Thiên Chúa chỉ ban cho những ai mong muốn giải thoát khỏi những ràng buộc dục vọng và tình cảm thông thường của thế gian, bởi vì những người không có vợ thì chuyên lo việc Chúa và tìm mọi cách làm đẹp lòng Ngài[16].
     Đức khiết tịnh là cho người tu sĩ nổi bật giữa loài người, vì nơi con người họ phản ảnh lại sự thánh thiện của Thiên Chúa, là dấu chỉ đặc biệt của kho tàng trên trời và là phương tiện thích hợp cho các tu sĩ hiến thân phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân qua việc làm tông đồ của họ[17].
     Giữa một xã hội mà con người luôn làm băng hoại giá trị đạo đức bằng việc tự do luyến ái, coi thường luân lý và hưởng lạc, thì việc một thanh niên khỏe mạnh sống khiết tịnh là điều không thể và có khi trở thành trò cười cho thế gian, thế nhưng Giáo Hội qua hơn hai ngàn năm qua đã chứng minh cho thế gian biết rằng, sống tiết dục là giữ lại sự cân bằng cho một xã hội tục hóa và hưởng thụ.
Khi tự nguyện sống khiết tịnh thì người tu sĩ đã trở nên một chứng nhân hùng hồn cho thế gian biết rằng: Nước Trời là thực tại có thật và chỉ những ai dám khước từ tất cả để theo Đức Chúa Giê-su thì mới giành được mà thôi.
Không ai giữ đức khiết tịnh được nếu không có ơn Chúa, mà cái làm cho ơn Chúa chảy xuống trong tâm hồn họ chính lời cầu nguyện của họ, bởi vì chỉ có cầu nguyện mới có sức mạnh đối đầu với những cám dỗ của ma quỷ và xác thịt. Do đó, đời sống cộng đoàn rất cần thiết cho đức khiết tịnh, nó gìn giữ cho người tu sĩ khỏi cô đơn trong mệt mỏi giữa những cám dỗ mạnh mẽ về sự tiết dục, và sự kiêu căng cũng sẽ đánh ngã người tu sĩ vì ỷ lại vào sức riêng của mình.

2/ Đức khó nghèo神貧的德行.
     Thánh Công Đồng Va-ti-can II dạy: Tự nguyện sống khó nghèo để đi theo Đức Chúa Giê-su là dấu chứng cho việc theo Ngài rất được trọng vọng, nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà mức độ luân lý của con người được quy đổi bằng tiền bạc vật chất, thì người tu sĩ càng phải miệt mài trau dồi đức khó nghèo để làm chứng cho Đức Chúa Giê-su –Đấng đã giáng sinh và sống khó nghèo- đến nỗi không có chỗ để tựa đầu[18], và nhờ nhân đức này mà họ được chia sẻ sự nghèo khó của Đức Chúa Giê-su, Đấng tuy giàu có những đã trở nên nghèo khó vì chúng ta[19] để chúng ta được trở nên giàu có[20].
     Lời khấn khó nghèo làm cho tâm hồn người tu sĩ thanh thản, thong dong, tự tại và củng cố đức vâng lời trong đời sống tu trì của họ.
Thật vậy, một tu sĩ coi trọng tiền bạc của cải thì không thể có một tâm hồn mau mắn vâng lời bề trên, lại càng không nhạy cảm trước những biến cố chung quanh mình, bởi vì họ đang tận hưởng tạm bợ một hạnh phúc gió thổi mây bay trong sự giàu có của mình trái ngược với sự khó nghèo của Đức Chúa Giê-su là sinh ra trong khó nghèo, làm việc trong khó nghèo và chết trong khó nghèo trên thập giá.
     Sự khó nghèo không làm hạ giá phẩm cách của người tu sĩ, trái lại, nó nâng người tu sĩ lên cao đến các tầng trời, bởi vì không ai mang đồ nặng nề trên lưng mà nói rằng thoải mái khi leo núi, cũng chẳng ai muốn bay lên cao mà lại mang đầy những thứ vô ích cho cuộc bay, nó chỉ làm nặng nề thêm mà thôi. Cũng vậy, tiền bạc vật chất làm cho tâm hồn người tu sĩ trở nên nặng nề không nhanh nhẹn thanh thoát để thực hành đức ái, không thong dong khi bề trên sai phái và càng không để lòng trí ở trên thiên đàng “vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”[21].
     Tinh thần khó nghèo không chỉ hệ tại sử dụng vật chất, nhưng còn là trong cách sống giản dị và trong cách sử dụng vật chất, như là phương tiện để đạt tới mục đích chính là nên thánh của mình[22].

3/ Đức vâng lời服從的德行.
     Thánh Công Đồng Va-ti-căn II dạy: “Nhờ khấn giữ đức vâng lời, các tu sĩ tận hiến ý muốn mình như của lễ bản thân dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó họ được kết hợp với ý muốn cứu rỗi Ngài cách kiên trì và chắc chắn hơn”[23].
     Vâng lời là từ bỏ ý riêng của mình để nghe lời của bề trên hợp pháp trong những việc có liên quan đến hội dòng và liên quan đến cá nhân mình, cho nên đòi hỏi người tu sĩ cần phải có thái độ khiêm nhường và hợp tác. Đức vâng lời làm triển nở nhân cách khiêm tốn của người tu sĩ, bởi vì chính đức vâng lời này phản ảnh lại sự vâng phục của Đức Chúa Giê-su đối với Cha của mình, như thánh Phao-lô tông đồ đã nói:
-      “Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn tự hạ mình,
Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
Chết trên cây thập tự...”[24].
     Vâng lời là hủy mình ra không, tức là không để cho cái tôi của mình làm chủ lấy mình, nhưng là để thánh ý Chúa hướng dẫn qua những quyết định của bề trên theo giáo luật và hiến chương của hội dòng trong tinh thần tôn kính và yêu mến đối với thánh ý Chúa.
Vâng lời trong vui vẻ và dùng hết khả năng và trí tuệ của mình để thực thi mệnh lệnh của bề trên là điều mà mỗi tu sĩ trong một dòng tu phải có, không phải để lấy lòng bề trên, nhưng là để biết rằng mình đã đóng góp một phần vào công cuộc xây dựng thân thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô qua hội dòng của mình.
Vâng lời là nền tảng của đức khiết tịnh và đức khó nghèo, bởi nếu một tu sĩ không vâng lời là họ đã mở toang cánh cửa tâm hồn và mời gọi ma quỷ là nguyên nhân của kiêu ngạo đi vào trong tâm hồn của mình. Không thực hành đức vâng lời là vì quỷ kiêu ngạo đang trú ngụ và làm chủ nơi tâm hồn ấy, và nó sẽ không ngừng xúi giục người tu sĩ chống đối với những phán quyết của bề trên và những người có trách nhiệm trong dòng tu.

Kết luận結論:
     Ơn gọi làm linh mục triều hoặc làm linh mục dòng thì đều phải cần đặc sủng của Chúa ban cho, để trở nên “danh chính ngôn thuận”, tức là để cố định một phẩm trật được trao ban qua Giáo Hội của Đức Chúa Giê-su, và để các linh mục thi hành chức vụ của mình một cách công khai giữa trần gian này.
     Tuy nhiên, tùy theo nhu cầu truyền giáo của giáo phận –nơi hội dòng cư ngụ- mà khi giám mục địa phận yêu cầu bề trên của một hội dòng có thể phái tu sĩ (linh mục) đến để phục vụ giáo xứ trong giáo phận của các ngài, thì linh mục dòng cũng sẽ trở thành cha sở của một giáo xứ để làm công tác mục vụ như một linh mục triều, với các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản theo giáo luật ấn định...
     Có điểm cần thiết mà các linh mục dòng ra làm cha sở cần phải lưu ý là:
a/ Là cha sở của một giáo xứ, ngài cần phải chu toàn nhiệm vụ của một cha sở, nhưng đồng thời ngài cũng là một tu sĩ của một dòng tu có ba lời khấn dòng, cho nên ngài cũng phải tuân giữ luật dòng của ngài.
b/ Ngài không được xao nhãng việc tuân giữ luật dòng, lại càng không thể sống như một linh mục địa phận, tức là cần phải đào sâu tinh thần và tôn chỉ của dòng trong đời sống của một cha sở, để nhờ những suy tư và đào sâu ấy mà -Hội Thánh nói chung và giáo dân của mình nói riêng- được luôn bồi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể.

Câu hỏi gợi ý:
1.   Bạn có lúc nào do dự về ơn gọi tu dòng của mình không ?
2.   Với bạn ơn gọi nên thánh hệ tại những điểm nào ?

-------------------



Ngày thứ hai第二天:


“TOÀN HY SINH全犧牲

Cha Vincent Lebbe đã để lại cho hai hội dòng do ngài sáng lập một câu vè chín chữ rất đặc sắc nổi tiếng vang dội khắp cả Giáo Hội Trung Quốc, đó là: “Toàn hy sinh全犧牲”, “Thật yêu người真愛人” và “Luôn vui vẻ常喜樂”.
Câu vè chín chữ này đã trở thành linh đạo tu đức của hai hội dòng Tiểu Đệ thánh Gioan Tẩy Giả và hội dòng Tiểu Muội thánh Tê-rê-xa, là trung tâm đời sống tu đức của các tu sĩ nam nữ trong hai hội dòng ấy. Linh đạo này rất phù hợp với tinh thần của Phúc Âm mà cha Vincent Lebbe đã sống và thực hành nó trong cuộc sống truyền giáo tại Trung Quốc của mình. Phục vụ là một công việc của người tôi tớ, nhưng không phải ai cũng là người phục vụ tốt, mà lại có nhiều hạng người phục vụ. Tuy nhiên các tu sĩ, phó tế hoặc linh mục khi phục vụ thì không giống với người khác, họ nhìn thấy Đức Chúa Giê-su trên những người mà họ phục vụ. Khi phục vụ bàn thánh thì các phó tế càng nhận ra ân phúc mà Chúa đã dành cho họ, họ được phục vụ bàn thánh là để trở nên những người phục vụ tha nhân cách đắc lực nhất, do đó mà các phó tế càng nhận ra ”Toàn hy sinh” khi phục vụ, chính là trở nên như Đức Chúa Giê-su đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình, bởi vì khi cúi xuống để rửa chân cho các môn đệ là Đức Chúa Giê-su đã xóa mờ khoảng cách giữa thầy và trò, giữa chủ và tớ, để các môn đệ của Ngài nhìn thấy một tình yêu phục vụ nơi Thầy chí thánh của mình.
Phục vụ đòi hỏi hy sinh, không phải hy sinh một chút thời giờ hay một vài đồng tiền dư thừa của mình[25], nhưng là như cha Vincent Lebbe đã nói: “Vì người mà phục vụ” thì phải đem 100% khả năng sức lực chứ không chỉ xuất ra 99%”, nghĩa là ngài đòi hỏi chúng ta khi phục vụ người khác thì phải đem tất cả những gì mình có như sức lực, tài trí hoặc vật chất ra để phục vụ tha nhân mà không lưu giữ lại cho mình điều gì.

1.   Phục vụ là hy sinh服務就是犧牲的.
Đương nhiên đối tượng phục vụ của chúng ta là con người, như Đức Chúa Giê-su cũng đã từng phục vụ những người Do Thái cùng thời với Ngài, gần gủi Ngài nhất chính là các môn đệ của Ngài, và nổi bật nhất chính là trước bữa ăn cuối cùng[26] của Ngài với các môn đệ, Ngài đã cúi mình xuống để rửa chân cho các môn đệ của mình.
Trên danh nghĩa, theo truyền thống của Giáo Hội, các phó tế chính là những người phục vụ những phần tử đau yếu và thương tích trong cộng đoàn của mình, để qua sự phục vụ của mình, những đối tượng phục vụ ấy không cảm thấy mình bị bỏ rơi hoặc cô đơn trong một cộng đoàn mà nhờ đức tin trở thành một đại gia đình.
Hy sinh những gì ?

a.   Hy sinh cá nhân個人的犧牲.
Cuộc sống cá nhân có rất nhiều nhu cầu, bởi vì dù cho chúng ta là ai đi chăng nữa, thì nhu cầu ăn mặc, giải trí tinh thần hoặc những thú vui đam mê khác đều có. Nhưng khi trở thành một con người hiến dâng cho Thiên Chúa thì những nhu cầu xem ra chính đáng ấy lại có những thứ không cần thiết đối với họ, bởi vậy, cha Vincent Lebbe mới đem “Toàn hy sinh” đặt lên hàng thứ nhất trong “Cương lĩnh tinh thần tu đức” của mình là “Toàn hy sinh”, “Thật yêu người” và “Luôn vui vẻ”.
Cuộc sống của con người thời nay phần lớn là chạy đua với thời gian, và thời gian thì không chạy đua với ai cả, nó từ từ đi qua cuộc đời của mỗi người, nơi nó không có quá khứ mà chỉ có hiện tại và tương lai, và tương lai là điều mà con người muốn theo đuổi và hy vọng, thế nhưng con người càng nghĩ đến tương lai thì càng thấy mình mệt mỏi khi chạy đua với thời gian.

b. Hy sinh thời gian犧牲時間.
     Làm một linh mục, nhất là linh mục coi sóc giáo xứ thì có rất nhiều thời gian, nhưng có một thực tế mà không ai chối cãi, đó là khi có một giáo dân hỏi cha sở của mình là ngài có giờ để đi thăm người bệnh không, hoặc có thời giờ để đi đến thăm một gia đình nghèo được không, thì câu trả lời của phần nhiều cha sở là tôi bận lắm !!
     Hy sinh thời gian riêng tư của mình xem ra thật khó đối với một cha sở, nếu ngài không có một trái tim nhiệt thành truyền giáo, mà quan niệm của các cha sở thời nay phần nhiều là phải làm những việc to lớn thì mới là truyền giáo, chẳng hạn như xây dựng nhà thờ, xây dựng nhà xứ hoặc làm những việc mà người ta có thể thấy được cách hoành tráng thì mới là truyền giáo và phục vụ.
     Đa số các cha sở khi được hỏi các ngài bận việc gì, thì phần lớn đều nói là bận soạn bài giảng ngày chúa nhật, nhưng nếu chỉ soạn một bài giảng cho ngày chúa nhật mà không có thời giờ để làm công việc mục vụ thì thật là nên xét lại đời sống mục tử của các ngài, bởi vì một mục tử chân chính không phải chỉ là soạn bài giảng nhưng còn là thăm viếng giáo dân, bệnh nhân và an ủi những con chiên lạc, rồi lại phải là người dạy dỗ giáo dân hiểu biết về Thánh Kinh và phụng vụ...
Hy sinh những hưởng thụ của mình thì giáo dân sẽ thấy được sự cố gắng làm công tác mục vụ của mình, để mà “chạy theo cho kịp cha sở” trong việc truyền giáo.
Một ví dụ nho nhỏ nhưng đã xảy ra trong thực tế, đó là có những cha sở đã dành nhiều thời gian cho các đại gia: đi ăn cơm với đại gia, đi họp mặt xã giao với đại gia, đi bàn chuyện với đại gia.v.v... mà không thấy không nghe các ngài nói đi thăm giáo dân, không nghe ngài nói đi bệnh viện giải tội, đi đến nhà giáo dân thăm viếng, mà chỉ có sai phái các bà đạo đức đi thăm mà thôi. Nếu các ngài bỏ chút thời giờ hẹn ăn cơm với đại gia mà đi đến với giáo dân nghèo, thì chắc nhà thờ sẽ có thêm những khuôn mặt mới và sẽ có những nụ cười vui.
Một vị mục tử chân chính sẽ hy sinh thời gian nghỉ ngơi của mình để dành cho đàn chiên của mình, ông ta đi sửa lại cái máng nước cho đàn chiên, đi coi trong đàn có con nào bị đau ốm hay đói ăn.v.v…những công việc đó đòi hỏi phải hy sinh những giây phút thoải mái của người mục tử bên ly cà phê hay ngồi lướt web trên mạng, bởi vì sự cám dỗ nào cũng có cáí giá phải trả của nó, mà cái giá của người mục từ của Chúa phải trả đó là đối diện với vị mục tử nhân lành trên các mục tử là Đức Chúa Giê-su trong ngày phán xét, chắc chắn Ngài không đập bàn đập ghế để phê phán chúng ta không làm tròn trách nhiệm mục tử, nhưng Ngài sẽ buồn bả nói với chúng ta: tại sao con yêu thế gian hơn yêu Ta, thế gian và ma quỷ đâu có hy sinh mạng sống của mình để cứu chuộc con; thế gian và ma quỷ cũng không chọn con vào hang linh mục của Ta, nhưng chính Ta đã chọn con…

c.     Hy sinh những đam mê犧牲耽湎 (嗜好).
     Đã là con người thì ai cũng có những đam mê, có người mê chơi đàn, có người mê hát, có người mê điện tử, có người mê sưu tầm và có người thích uống rượu hút thuốc.v.v…

     Đam mê thứ nhất là thích ăn uống.
     Trở thành phó tế hoặc linh mục là trở thành hang giáo sĩ của Giáo Hội, cũng có nghĩa là trình độ tu đức của các vị ấy đã vượt qua giáo dân và hơn thế nữa, họ cũng trở thành những mục tử của Đức Chúa Giê-su để dẫn dắt đàn chiên của Ngài, cho nên đòi hỏi các ngài phải trỗi vượt trên mọi người về các nhân đức và hành vi ngôn ngữ trong cuộc sống của mình.
     Con người thời nay đang sống trong những đam mê của thế gian là tiền tài, danh vọng và dục vọng, ba cám dỗ đam mê này muôn đời trở thành hàng rào cản, làm cho chúng ta khó thi hành sứ vụ tông đồ mà Chúa đã trao phó cho chúng ta qua Giáo Hội.
Có những linh mục thích uống rượu nên hể có bạn bè đến chơi là nhậu, hoặc ăn cơm thì lúc nào cũng phải có rượu bia thì ăn mới ngon. Thật ra rượu bia không phải là tội, ăn cơm uống một vài lon bia hay một hai ly rượu nhỏ thì chẳng tội tình gì, nhưng đôi lúc đó cũng là một thói quen không tốt cho đời mục tử, bởi vì khi lên tòa giảng chúng ta khuyên giáo dân nên bỏ rượu, nên kềm chế mình khi cơn thèm khát rượu nổi lên, ấy vậy mà chúng ta không nhịn được khi ăn cơm mà không có rượu.
Biết kềm chế cái thích của mình là đã thắng cái tôi của mình, và trở thành một mục tử biết phục vụ cho đàn chiên của mình.
Ăn uống là việc làm cần thiết để có sức lực mà làm việc, cho nên người xưa đã nói “có thực mới vực được đạo”, tuy nhiên ăn uống cũng là một việc tế nhị đối với những người dâng mình làm tôi Chúa, bởi vì người ta sẽ đánh giá con người của linh mục hay tu sĩ qua cách ăn uống của họ.

Đam mê thứ hai là thích tiêu khiển.
Nói là đam mê nhưng thực ra chính là sở thích tiêu khiển của mình, có người thích tiêu khiển bằng cách đánh cờ tướng, có người thích chơi game, có người thích ngồi trước máy vi tính hoặc lướt điện thoại thông mình, có người thích coi phim.v.v...
Giải trí tiêu khiển thì không có gì là đáng ngại, nhưng đáng ngại nhất là đam mê quá đến độ quên mất bổn phận của mình.
Một linh mục mà đam mê lướt các trang mạng thì sẽ bị lôi cuốn vào màn hình không dứt ra được, thậm chí ngay cả giờ kinh phải đọc cũng bỏ qua; một cha sở mà ngày nào cũng đến nhà giáo dân để đánh cờ hay tiêu khiển thì chắc chắn việc truyền giáo sẽ không có kết quả khả quan, bởi vì khi một mục tử bỏ nhà xứ để đi tìm niềm vui cho mình, thì sẽ không còn tìm thấy niềm vui nới giáo xứ của mình phục vụ nữa; một cha sở thích đi du lịch, một năm tự mình tổ chức đi xuất ngoại với lý do là “hành hương” vài ba lần, thì chắc chắn các ngài sẽ nhận được những ánh mắt không mấy thiện cảm của giáo dân, bởi vì như thế chứng tỏ là mình không nhiệt thành trong việc mục vụ và gần gủi với giáo xứ, mà chỉ vì sở thích đi du lịch của mình mà thôi...
Một mục tử tốt lành thì luôn chăm sóc đàn chiên của mình, ông ta sẽ tìm những cánh đồng cỏ xanh tươi cho chiên ăn, ông ta sẽ để mắt đến những con chiên nhỏ, con chiên bị bệnh, ông ta dầm mưa dãi nắng vì đàn chiên của mình. Cũng vậy, sự hy sinh của các cha sở sẽ không uổng công, các ngài sẽ thấy ảnh hưởng rất to lớn của việc mình hy sinh tất cả cho đàn chiên của mình, đó là họ sẽ cùng cha sở chung tay xây dựng giáo xứ, họ sẽ hết mình vì giáo xứ và sẽ tích cực cộng tác với ngài dù cho hy sinh thời giờ quý báu của họ.
Một mục tử biết hy sinh thì sẽ có gấp mười giáo dân hy sinh vì giáo xứ; nhưng một mục tử chỉ biết hưởng thụ thì cả giáo xứ sẽ thuộc về quyền lực của sa tan, bởi vì người mục tử đang hưởng thụ giấc mộng dài trong chăn nệm ấm êm.

----------------------


Ngày thứ ba第三天:









KHIÊM TỐN CỦA TU SĨ
會士的謙遜









Khiêm tốn là thước đo sự tu đức của người dâng mình làm tôi Chúa nói chung và các tu sĩ nói riêng, bởi vị sự khiêm tốn là nền tảng của các nhân đức, cho nên một tu sĩ dù có tài giỏi đến mức độ nào chăng nữa, nếu không có sự khiêm tốn thì chỉ là xây nhà trên cát hoặc thành tựu của họ như gió thổi mây bay, nhất thời được ca tụng nhưng phút chốc tan tành mây khói.
Khi sống khiêm tốn thì người tu sĩ nhìn thấy được thánh ý Chúa qua mọi hoàn cảnh của cuộc sống, bởi vì “Thiên Chúa đã lựa chọn những gì yếu hèn trong thế gian để bêu xấu những gì mạnh mẽ”[27], do đó mà các tu sĩ luôn cần đến những ơn của Đức Chúa Thánh Thần trong đời sống tu đức cũng như trong đời sống hoạt động tông đồ của mình.
Sự khiêm tốn của các tu sĩ không hệ tại vào những giờ nguyện ngắm thiêng liêng, bởi vì có nhiều tu sĩ rất chuyên cần nguyện ngắm nhưng vẫn cứ không có đức khiêm tốn trong cuộc sống; sự khiêm tốn của các tu sĩ cũng không hệ tại vào sự đọc sách nhiều, bởi vì có những tu sĩ thông kim bác cổ nhưng vẫn cứ kiêu ngạo với tha nhân. Nhưng sự khiêm tốn đích thực chính là như lời của thánh Phao-lô tông đồ nói: “Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa”[28] nghĩa là khiêm tốn làm việc trong khi tìm xem điều gì đẹp lòng Thiên Chúa, mà điều đẹp lòng Thiên Chúa chính là thi hành bổn phận của mình cách vui tươi nhiệt thành phó thác và lắng nghe Thánh Thần nói qua cuộc sống của mình, hay nói cách khác sống giây phút hiện tại cách sống động với lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Là người tự nguyện dâng cả hồn xác mình cho Thiên Chúa để được tự do vâng phục thánh ý của Ngài qua đời sống cộng đoàn, cụ thể là đem cuộc sống của mình ràng buộc với một hội dòng nào đó, để nhờ ơn đoàn sủng của cộng đoàn mà gắn bó mật thiết với Đức Chúa Giê-su và Hội Thánh của Ngài, mà đức khiêm nhường như là nền tảng để đời sống cá nhân của tu sĩ trở nên phong phú hơn nhờ sự khiêm tốn vâng phục bề trên hợp pháp của mình, và xây dựng cộng đoàn ngày càng phát triển trong sự khiêm tốn của mình.

1.   Sự khiêm tốn đòi hỏi phải từ bỏ mình謙遜要求放棄自己。
Người tu sĩ được –qua Phúc Âm- được Đức Chúa Giê-su mời gọi: “Ai muốn theo tôi, thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”[29]. Lời mời gọi này được đông đảo nam nữ thanh niên quảng đại đáp trả, và trong vườn nho của Thiên Chúa có rất nhiều thợ gặt nhiệt tình và chăm chỉ làm vườn không quản ngại nắng mưa vất vả, vì họ biết rằng lời mời gọi từ bỏ mình có một giá trị siêu việt trội vượt trên tất cả lời mời mọc của thế gian.
Cũng vậy, đức khiêm tốn cũng mời gọi người tu sĩ phải từ bỏ đi ý riêng của mình để thi hành ý muốn của bề trên hợp pháp của mình, mà một khi vâng lời bề trên thì không phải vâng lời cá nhân của bề trên, mà là vâng lời hội dòng qua bề trên hợp pháp được toàn thể các thành viên trong hội dòng hay cộng đoàn bầu lên cách hợp pháp.
Cái từ bỏ trước tiên chính là từ bỏ cái tôi của mình, cái tôi kiêu ngạo muốn làm đầu anh em chị em. Từ cái tôi này phát sinh ra nhiều thứ tội khác và trở thành gương mù gương xấu cho người khác, nhất là cho các anh chị em trong cộng đoàn. Cha Vincent Lebbe –tổ phụ chúng ta đã nói: phải đánh chết cái tôi của mình, bởi nếu cái tôi không chết thì không thể nào thực hành sự khiêm tốn của Đức Chúa Giê-su –Đấng đã vì khiêm tốn mà vâng lời Đức Chúa Cha cho đến chết trên thập giá. Nếu cái tôi không bị đánh chết mà chỉ đánh nó bị thương mà thôi, thì sẽ có ngày nó sẽ chổi dậy cách mạnh mẽ hơn, và lúc đó việc thực hành đức khiêm tốn thì càng khó khăn hơn nữa.
Thánh Phao-lô tông đồ đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương khiêm tốn tột bực của Đức Chúa Giê-su, ngài nói:
“Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa ,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
Chết trên cây thập tự”[30].
Sự khiêm tốn của Đức Chúa Giê-su đã trở thành mẫu gương tuyệt vời cho những người hiến dâng cái tôi mình làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa, như Đức Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống của mình làm giá cứu chuộc cho nhân loại.
Đức Chúa Giê-su đã từ bỏ mình, trút bỏ vinh quang của ngôi vị Thiên Chúa của mình, để hủy mình ra không. Đó là sự khiêm nhường đích thực, và sự khiêm nhường này đã làm cho sự hiến tế càng thêm giá trị, bởi vì Đấng đã hủy mình ra không như hạt lúa mục nát trong lòng đất để sinh nhiều hoa trái mới.
Từ bỏ mình của người tu sĩ là tự nguyện vác thập giá với Đức Chúa Giê-su, thập giá trước hết là đánh chết cái tôi của mình như cha Vincent Lebbe của chúng ta đã dạy, không đánh chết cái tôi của mình thì sẽ không có từ bỏ, mà không có từ bỏ thì sẽ không sống khiêm tốn như một tu sĩ thực thụ.

2.   Vâng phục là kết quả của khiêm tốn服從就是謙遜的結果。
Thánh Phao-lô tông đồ đã minh chứng: “Vì một người không vâng phục mà muôn người hóa thành tội nhân, thì cũng thế, vì một Đấng phục tùng mà nhiều người được trở nên công chính”[31].
Các tu sĩ là những người phục vụ chứ không phải được phục vụ, cho nên hành vi khiêm tốn là thước đo lòng thánh thiện của người tu sĩ. Mặc dù ba lời khuyên Phúc Âm (vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh) không có nói đến sự khiêm tốn, nhưng chính đức khiêm tốn sẽ làm nền tảng vững chắc cho ba lời khuyên Phúc Âm ấy.
Thật vậy, dù là khấn vâng phục nhưng khi thi hành sự vâng phục mà không có sự khiêm tốn, thì sự vâng phục chỉ là giả tạo bên ngoài mà thôi, và đó chính là cánh cửa để cho ma quỷ thừa thắng xông vào làm cho tâm hồn bất an và sự kiêu ngạo càng gia tăng đến mức cần phải hành động, đó chính là phản đối bề trên và nguy hiểm hơn là lập phe nhóm riêng cho mình để đối kháng lại với các thành viên trong cộng đoàn, thực ra khi họ làm như thế thì chính họ đã chống đối ý Thiên Chúa qua bề trên của mình.
Khi một tu sĩ bày tỏ sự vâng phục cách vui tươi và thanh thản thì đó chính là kết quả của sự vâng phục, là hoa trái của Đức Chúa Thánh Thần, là sự ngọt ngào của tình yêu dâng hiến.
Không có sự khiêm tốn thì cũng sẽ không có sự vâng phục trọn vẹn, bởi vì vâng phục chính là một hành vi từ bỏ mình, là một thái độ rất khó khăn khi cúi xuống trước mặt một con người mà mình biết là thua kém mình. Cho nên như câu trả lời của Đức Chúa Giê-su với các môn đệ khi các ông hỏi Ngài ai là người lớn nhất trong Nước Trời, Ngài nói: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời”[32]. Chỉ có sự khiêm tốn mới làm cho chúng ta –người tu sĩ- trở nên như trẻ em, bởi vì khi đã “hủy mình ra không” thì đức Chúa Giê-su đã không giữ lại cho mình chút gì của thân phận Thiên Chúa, như trẻ em chẳng có gì ngoài việc phó thác tất cả trong tay mẹ mình, nhờ mẫu gương vĩ đại ấy của Đức Chúa Giê-su mà người tu sĩ dễ dàng vâng phục hơn.
Trong thực tế đã xảy ra, có những tu sĩ đã vì không có sự khiêm tốn đủ nên đã miễn cưỡng vâng lời và hậu quả là ma quỷ đã đi vào trong các hội dòng, làm cho hội dòng không còn được có tình yêu chân thành, không có sự thanh thản giữa các tu sĩ với nhau và nhất là tình yêu của Đức Chúa Giê-su đã biến mất giữa cộng đoàn vốn là thánh thiện này.
Muốn nhìn thấy sự khiêm tốn đích thực của một tu sĩ thì hãy coi sự vâng phục của họ !

3.   Khiêm tốn là sức mạnh của lời khấn dòng謙遜是發聖願的力量。
Trong thực tế có rất nhiều tu sĩ đứt gánh giữa đường không đi hết con đường tận hiến cho Thiên Chúa, ngoài những lý do chính đáng được bề trên xác nhận và những lý do không chính đáng theo luật dòng đã quy định, trong những lý do không chính đáng ấy là các tu sĩ không thực hiện các lời khấn mà mình đã khấn tạm hay khấn trọn.
Ma quỷ là kẻ thù dai dẳng luôn bám sát con người nói chung và những người dâng mình làm tôi tớ Chúa nói riêng, nó dùng tất cả mọi mưu mô chước quỷ để hạ gục chúng ta, nhất là các tu sĩ là những người con ưu tú của Chúa. Thông thường chúng ta hứa từ bỏ những gì thì ma quỷ sẽ dùng những thứ ấy để cám dỗ chúng ta, đó chính là sự xảo quyệt của ma quỷ và thế gian là những đồng lõa của nó.
-         Khi người tu sĩ khấn vâng phục thì ma quỷ sẽ dùng sự kiêu ngạo để cám dỗ và làm cho người tu sĩ không thực hiện được lời khấn của mình, bởi vì lời khấn vâng phục là một sĩ nhục cho ma quỷ, là một hành vi trực diện chống đối ma quỷ, vì Đức Chúa Giê-su đã vâng phục Đức Chúa Cha mà xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại tội lỗi và để giải thoát họ khỏi sự thống trị của ma quỷ. Do đó khi người tu sĩ thực hiện sự vâng lời với sự khiêm tốn thì chẳng khác gì ném nó xuống hỏa ngục lần thứ hai.
Do đó, chúng ta nhìn thấy thời nay có rất nhiều tu sĩ không vâng phục bề trên của mình với rất nhiều lý do, và tệ hại hơn nữa là phê bình chửi mắng bề trên cách công khai mà không cảm thấy lương tâm hổ thẹn hay áy náy cắn rứt…
-         Khi người tu sĩ khấn khó nghèo thì ma quỷ sẽ dùng tiền bạc vật chất để cám dỗ họ, nó sẽ vẽ ra viễn ảnh một chương trình đầy ắp tiền bạc để người tu sĩ thích thú. Thánh An tôn tu rừng đã bị ma quỷ cám dỗ cách nặng nề nơi thân xác, ma quỷ đánh đập ngài bầm dập bán sống bán chết, cuối cùng nó đã biến ra những đồng tiền vàng để cám dỗ lòng tham lam của ngài, nhưng là một con người quyết tâm dâng hiến đời mình cho Chúa ngài đã nhìn ngay những đồng tiền vàng mà nói tiền tài là của mày, trả lại cho mày, thế là những đồng tiền vàng biến mất[33], cũng vậy, thời nay ma quỷ cũng sẽ dùng tiền tài vật chất để cám dỗ chúng ta như đã cám dỗ thánh An tôn hoặc như bất cứ vị thánh nào.
Lời khấn khó nghèo là lời khấn làm cho người tu sĩ trở nên vĩ đại trước mặt người đời, và là sự khó chịu cho ma quỷ. Khi nhân loại mãi mê tìm kiếm tiền tài vật chất và chiến tranh với nhau vì của cải, thì các tu sĩ thanh thản với những gì mình có mà không lệ thuộc vào những mánh khóe kiếm tiền, bởi chính Chúa là gia nghiệp của họ, có Chúa là có tất cả, như lời của Đức Chúa Giê-su đã dạy: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”[34].
Có nhiều tu sĩ đã từ giã cuộc sống thân mật với Thiên Chúa trong tu viện, vì cuộc sống của họ quá nhạt nhẽo khi họ luôn nhìn thấy tiền bạc khi được bề trên sai phái công tác (coi sóc giáo xứ, trường học, bệnh viện.v.v…) và than vãn vì nơi mình sắp tới phục vụ quá nghèo, hoặc không có tiền bạc dồi dào như những nơi khác, thế là họ đã bị ma quỷ gắn vòng kim cô của tiền bạc vào trong tim trong trí óc của họ mà không thể nào dứt ra được.
-         Lời khấn khiết tịnh làm cho người tu sĩ trở nên giống các thiên thần hơn, và dĩ nhiên là Thiên Chúa rất ưa thích những tâm hồn trong sạch, Đức Chúa Giê-su đã nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”[35]. Không phải ngẫu nhiên mà Đức Chúa Giê-su yêu thương thánh Gioan tông đồ hớn các tông đồ khác, phải chăng vì thánh Gioan tông đồ là người độc thân không lập gia đình ?
Nhìn vào gia đình Na-gia-rét chúng ta thấy gì, chịu khó suy niệm sâu xa hơn chút xíu thì chúng ta sẽ thấy đây là một gia đình đồng trinh, một gia đình mà mỗi thành viên đều là mẫu mực cho những người dâng mình làm tôi tớ Chúa: thánh cả Giu-se là người bạn đời thánh thiện của Đức Mẹ Ma-ri-a và là người cha nuôi công chính của Đức Chúa Giê-su; Đức Mẹ Ma-ri-a là đấng đồng trinh vẹn sạch, Đức Chúa Giê-su chính là Con Chiên vẹn toàn không tì vết và là Đấng cứu độ trần gian.
Khi nguyên tổ phạm tội thì khuynh hướng dục tình ngày càng nặng nề trên con người ta, và sự dâm ô đó đã làm cho hai thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra bị hủy diệt.
Sự khiết tịnh của người tu sĩ đã nâng cao phẩm giá con người của họ, và người đời khi nghe đến các tu sĩ thì đều cảm phục và gọi họ là những anh hùng vì đã giữ mình thanh sạch giữa chốn bụi trần đầy những hưởng lạc và nô lệ cho dục tình chóng qua. Do đó, khi đọc lời khấn giữ mình khiết tịnh thì là lúc người tu sĩ tuyên chiến không những với ma quỷ mà cả với thế gian, bởi vì một thế gian đang mất phương hướng bởi vì xa lìa Thiên Chúa là Đấng chân, thiện, mỹ, thánh.
Điểm qua những nét trên là để cho chúng ta thấy rằng, khi chúng ta khấn hứa từ bỏ điều gì thì ma quỷ sẽ dùng những thứ ấy mà trở lại cám dỗ chúng ta.
Khi lễ nghi khấn kết thúc thì người tu sĩ cảm nhận được ơn thánh Chúa tràn trề trong tâm hồn, và ngất ngây cảm tạ ơn Chúa, nhưng hãy coi chừng, năm tháng dần trôi qua, nếu họ -các tu sĩ- không sống tiết độ và tỉnh thức để nhìn thấy ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé[36].
Ma quỷ dễ dàng làm cho chúng ta bị cám dỗ lỗi ba lời khấn mà chúng ta đã long trọng tuyên khấn trước mặt cộng đoàn nếu chúng ta không trông cậy vào ơn thánh của Chúa, nhất là trong thời đại ngày nay.
Đức khiêm tốn là nền tảng vững chắc để người tu sĩ xây dựng ba lời khấn, và dù cho có những lúc sa chước cám dỗ thì nhờ đức khiêm tốn này mà họ lại đứng lên và đi tới. Đức khiêm tốn không chỉ là nhìn nhận mình thấp hèn trước mặt Chúa và là người không đáng ăn mày các ân sủng của Ngài, nhưng đức khiêm tốn còn là đòn bẫy để bật dậy các cám dỗ ẩn sâu trong tâm hồn, mà khi gặp cơ hội thì nó sẽ trở thành tên nội công đánh chúng ta mạnh nhất, do đó mà chúng ta cần đến sự khiêm nhường để luôn đón nhận các ơn lành của Chúa ban, để chống trả với những cơn cám dỗ có thể làm cho chúng ta mất ơn gọi cao quý của mình.

------------------------

Ngày thứ tư第四天:


ƠN GỌI TẬN HIẾN
奉獻的聖召


     Thiên Chúa là Đấng thượng trí vô song, chính Ngài là Đấng đã tạo dựng nên muôn loài muôn vật, và cũng chính Ngài đã vì yêu thương mà làm cho khuôn mặt bị biến dạng của con người sau khi nguyên tổ phạm tội, trở thành hoàn hảo trước mặt Ngài nhờ chính sự tận hiến hoàn hảo của Con Một của Ngài là Đức Chúa Giê-su –hy sinh mạng sống- để cứu chuộc nhân loại tội lỗi.
     Không có sự tận hiến hoàn hảo nào của con người có thể đẹp lòng Thiên Chúa nếu sự tận hiến ấy không kết hợp với sự tận hiến của Đức Chúa Giê-su, bởi vỉ chỉ trong Đức Ki-tô chúng ta mới trở nên hoàn hảo trước mặt Đức Chúa Cha mà thôi.
     Trước hết chúng ta bắt đầu từ sự hiến dâng hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là sự kết hợp mật thiết hoàn hảo giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

1.   Sự kết hợp giữa Thiên Chúa Ba Ngôi天主聖三的結合。
Ba Ngôi kết hợp chính là sự tận hiến hoàn hảo giữa các ngôi vị với nhau, là sự kết hợp giữa tính thể Thiên Chúa với nhau, không như rượu hòa lẫn trong nước, hoặc các vật chất hòa với nhau, như thế là không trọn vẹn. Ba Ngôi Thiên Chúa kết hợp với nhau bằng chính tính thể là tính Thiên Chúa duy nhất nơi các ngôi vị không có lúc nào ngơi nghỉ, bởi vì nếu ngừng nghỉ thì tính thể Thiên Chúa bị ngừng, gián đoạn và như thế sẽ không còn là Thiên Chúa nữa[37]. Như lời kinh Tin Kính mà Giáo Hội tuyên xưng trong các thánh lễ trọng và ngày chúa nhật: tôi tin kính Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con yêu thương mà phát sinh ra Đức Chúa Thánh Thần, Ba Ngôi vị trong một Thiên Chúa duy nhất. Ý của Cha là ý của Con và ý của Con là ý của Thánh Thần, cho nên Đức Chúa Giê-su đã nói:
“Thật, tôi bảo thật các ông:
người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì,
ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm;
vì điều gì Chúa Cha làm,
thì người Con cũng làm như vậy”[38].
Và một nơi khác trong Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ, Đức Chúa Giê-su đã nói:
“…vì tôi tự trời mà xuống,
không phải để làm theo ý tôi,
nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi”[39].
Đức Chúa Giê-su không làm theo ý mình nhưng đã làm theo ý của Cha, bởi vì ý của Cha cũng là ý của Con và cũng là ý của Đức Chúa Thánh Thần. Sự tận hiến toàn vẹn này đã trở nên mức đồng hình đồng dạng như giáo lý của Giáo Hội dạy rằng: Đức Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Đức Chúa Con cũng vậy và Đức Chúa Thánh Thần cũng là Đấng tạo dựng như Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, qua hình ảnh ấy cho chúng ta biết rằng, Thiên Chúa Ba Ngôi mãi mãi muôn đời không tách lìa nhau, bởi vì sự tận hiến hoàn hảo đến mức trở thành một Thiên Chúa duy nhất mà thôi.
Đức Chúa Giê-su đã chứng mình Ngài với Cha là một khi nói: “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha”[40], Ngài không nói Cha là Cha mà Con là Con, nhưng nói Chúa Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Đây là sự xác nhận tính hoàn hảo của Ba Ngôi Thiên Chúa tận hiến cho nhau, bởi vì sự tận hiến liên lĩ này đã trở nên mẫu gương tận hiến và hiệp nhất trong Giáo Hội của Đức Chúa Giê-su là Giáo Hội được Ngài thiết lập trên nền tảng hiệp nhất của các tông đồ.
Sự tận hiến của những người làm tôi tớ Chúa nói chung và của các tu sĩ nam nữ nói riêng, cần phải bắt nguồn từ sự tận hiến toàn vẹn của Ba Ngôi Thiên Chúa.

2.   Tận hiến là tận tâm奉獻就是盡心盡力的。
Không một ai tận hiến mà lại không tận tâm, tận hiến là dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa, và tận tâm phục vụ Ngài qua một hội dòng hay một cộng đoàn nào đó bằng đời sống Phúc Âm, bằng luật dòng và việc tham dự bí tích Thánh Thể của mình.
Khi một tu sĩ đã tận hiến cho Thiên Chúa, thì chính cuộc sống của họ đều hoàn toàn phụ thuộc vào Thiên Chúa, là Đấng kêu mời họ từ bỏ tất cả những gì là của thế gian để đi theo Ngài, đó chính là tận hiến. Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, Ngài mời gọi những người có tâm hồn quảng đại qua Giáo Hội của Ngài ở trần gian này, đó chính là các dòng tu nam nữ hay những cộng đoàn tu hội sống giữa trần thế, đó chính là điều mà mỗi một tu sĩ đều phải biết để tận tâm với hội dòng hoặc với cộng đoàn tu hội đã thay mặt Chúa, qua Giáo Hội để dón nhận họ vào làm trong vườn nho của Chúa.
Nói đến tận hiến cho Chúa thì mỗi tu sĩ đều biết nên làm gì trong đời sống hiến dâng của họ, nhưng nói đến tận tâm trung thành với hội dòng hay cộng đoàn tu hội của họ thì lại là chuyện khác.
Tận hiến cho Thiên Chúa và tận tâm với cộng đoàn là hai bổn phận không thể tách nhau ra, nhưng là một thực tại hữu hình và vô hình như quyện với nhau nơi con người tu sĩ. Bởi vì có những tu sĩ đã nhiều năm ở trong hội dòng nhưng vì một lý do nào đó đụng chạm đến quyền lợi cá nhân, hoặc không thỏa mãn những nhu cầu đòi hỏi cho cá nhân mà hoàn tục hoặc xin nhập vào một hội dòng hoặc cộng đoàn khác. Tận hiến với Thiên Chúa thì không ai thấy được nếu người tu sĩ không bày tỏ ra bên ngoài, nhưng tận tâm với hội dòng của mình thì mọi người ai cũng có thể thấy được.
Vậy thế nào là tận tâm với hội dòng hay cộng đoàn của mình?
Câu chuyện thực tế:
     Năm 2005 khi tôi còn làm cha sở ở một giáo xứ lớn của giáo phận Taichung, Taiwan, sát bên nhà thờ là một nữ tu viện, trong tu viện phần nhiều các dì phước đều lớn tuổi. Một hôm có một dì phước của nhà dòng ấy đến gặp tôi và xin tôi giới thiệu cho dì với cộng đoàn bên Mỹ, tôi hỏi tại sao vậy, thì dì phước ấy nói rằng sẽ ra khỏi dòng vì không chịu nỗi tính khí của những chị em trong dòng !
     Tôi khuyên dì nên bình tĩnh suy nghĩ, cầu nguyện nhiều hơn để biết thánh ý của Chúa, chứ dì đã lớn tuổi rồi (60 tuổi) mà bỏ dòng ra đi thì thật là tiếc, mấy chục năm ăn cơm nhà Chúa, được nhà dòng đào tạo bằng cấp này chứng chỉ nọ, bây giờ với một lý do cỏn con ấy mà ra khỏi dòng. Nhưng dì ấy vẫn kiên quyết với ý định ra khỏi dòng của mình. Tôi khuyên bảo, chứng minh nhiều việc cho dì ấy biết bỏ nhà dòng ra đi thì thật không phải.
Cuối cùng dì phước ấy cũng bỏ dòng mà đi, bây giờ không biết dì ấy ở nơi nào !?
Qua câu chuyện trên đây, chúng ta thấy rằng, người tu sĩ một khi đã chọn hội dòng hay cộng đoàn tu hội làm gia đình của mình thì phải hết sức vun đắp theo khả năng để làm cho nhà dòng của mình ngày càng phát triển, hạnh phúc và yêu thương nhau.
Một khi thiếu cầu nguyện, tức là lơi dần việc tận hiến cho Thiên Chúa, thì người tu sĩ sẽ có rất nhiều lý do để trở thành kẻ vong ơn bội nghĩa với hội dòng của mình, và cuộc sống của họ tuy là ở trong hội dòng nhưng thiếu tận tâm tận lực để làm việc cho hội dòng và cũng là làm việc cho Chúa. Một khi người tu sĩ không còn phấn khởi trong việc cầu nguyện, không còn vui thích nguyện ngắm, không còn mau mắn vâng lời và tích cực làm việc, thì chính là họ đã trở nên công cụ gieo mầm độc hại cho hội dòng hoặc cộng đoàn tu hội của họ.
Người tu sĩ bị ràng buộc bởi ba lời khuyên Phúc Âm (ba lời khấn dòng) như cái cày ràng buộc với con trâu để người nông dân hướng dẫn nó cày lên những luống cày thẳng tắp đẹp đẽ. Nếu quên đi hoặc lơ là thực hành ba lời khấn ấy thì người tu sĩ sẽ đi trệch đường hướng của Thiên Chúa đã chọn cho mình.
Ngày xưa Gia Cát Lượng[41] nói: “Cung cúc tận tụy, đến chết mới thôi,” phong cách ấy của nó cũng đã đủ hùng tráng rồi, nhưng cha Vincent Lebbe vẫn còn thấy rằng chưa đủ triệt để nên đổi thành “đến chết không thôi”, quán triệt tinh thần ấy quả thật khiến cho người ta vỗ đùi khen hay[42]. Cha Vincent Lebbe của chúng ta vẫn chưa bằng lòng với cách nói tận tụy của Gia Cát Lượng, ngài nhấn mạnh đến chết cũng không thôi tận tụy, đó chính là nền tảng hy sinh của các tu sĩ thuộc hội dòng Tiểu Đệ thánh Gioan Tẩy Giả của chúng ta.
Tận tâm tận tụy với hội dòng là chúng ta hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa vậy.

3.   Tận hiến của tu sĩ 會士的奉獻.
Thiên Chúa chính là tác giả của các ơn gọi, và Thiên Chúa không sai lầm khi chọn người nào đó vào sống thân mật với Ngài qua mỗi dòng tu của Giáo Hội. Thiên Chúa cũng không bắt cóc bỏ dĩa như nhiều người thường nói, nhưng để chọn ai thì Ngài sẽ chuẩn bị cho họ trở nên nhạy bén với ơn kêu gọi của Ngài dành cho họ. Chỉ có con người với những kiêu ngạo và cám dỗ của ma quỷ và thế gian mới phá hỏng chương trình của Chúa nơi bản thân họ mà thôi.

a/ Đời sống cộng đoàn團體生活.
Tận hiến của người tu sĩ trước hết là đời sống cộng đoàn, trong cộng đoàn này họ được nên thánh và làm cho người khác nên thánh qua việc sống và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống của họ. Bởi vì như thánh công đồng Va-ti-căn II đã nói: “Đời sống chung được nuôi dưỡng bằng giáo lý Phúc Âm, phụng vụ và nhất là bí tích Thánh Thể phải được duy trì trong lời cầu nguyện, trong sự hiệp nhất cùng một tinh thần”[43]. Thật vậy, một hội dòng hay một cộng đoàn mà không được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và Thánh Thể, thì hội dòng và cộng đoàn ấy sẽ không bao giờ được mạnh khỏe và linh động, để trở thành chứng nhân cho Phúc Âm và lôi kéo mọi người về với Chúa.
Tận hiến cho Chúa qua đời sống cộng đoàn đòi hỏi người tu sĩ phải từ bỏ ý riêng của mình để vâng theo ý bề trên, phải dẹp cái ham muốn của mình để hoàn thành ước vọng cao sang của hội dòng, phải trở nên bé nhỏ giữa anh em để hội dòng được lớn mạnh giữa đời, “Ngài phải lớn lên” còn tôi phải nhỏ xuống để hoàn trở nên một phần tử nhỏ bé trong cộng đoàn.
Qua đời sống cộng đoàn, người tu sĩ cảm thấy được nâng đỡ giữa những anh em, và chỉ một tâm hồn, một tấm lòng đồng tâm nhất trí làm sáng Chúa qua ơn gọi tận hiến của mình. Và nhờ hiệp thông với Thánh Thể, người tu sĩ dần dần nhận ra mình không những là chi thể của Đức Ki-tô mà còn là được đồng hình đồng dạng với Ngài qua việc lãnh nhận Mình Máu Thánh của Ngài, đó chính là sự tận hiến trong tinh thần hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi, là sự tận tâm tận tụy phục vụ Chúa qua hội dòng hay cộng đoàn tu hội của mình.

b/ Tình yêu tận hiến奉獻之愛情.
     Nói đến tình yêu tận hiến của một tu sĩ trong một hội dòng hay một cộng đoàn tu hội, là nói đến hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi vì dù cho là tình yêu giữa vợ chồng hay tình yêu dâng hiến của đời sống tu trì, thì tình yêu đó phải luôn được xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, mất đi đặc tính tình yêu vừa là huyền nhiệm lại vừa là cốt lỏi ấy, thì sự tận hiến của người tu sĩ sẽ trở thành cái mã tô vôi mà thôi.
     Để tình yêu huynh đệ giữa các tu sĩ được ngày càng bền chặt hơn, thì trước hết mỗi một người trong hội dòng phải tự vấn lương tâm của mình trước mặt Chúa là mình đã hoàn toàn dâng hiến cuộc sống của mình cho Chúa chưa ? Đã quyết tâm hết lòng hết trí khôn yêu mến Chúa qua những anh em (chị em) trong hội dòng hay cộng đoàn tu hội của mình chưa ?
     Tại sao trong hội dòng vẫn còn đó những mâu thuẫn bất hòa giữa các tu sĩ với nhau ? Đáp án rất là dễ dàng, đó chính là mỗi người tu sĩ chưa hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa, họ vẫn đặt cái tôi của mình lên tất cả mọi ý kiến của các anh em khác, vẫn dung thứ cho sự kiêu ngạo và tự ái trú ngụ trong tâm hồn của mình, để rồi nó như tên nội công dần dần hủy hoại đời sống tu đức và lý tưởng tận hiến của mình mà chính mình cũng không ngờ tới.
     Nói đến tình yêu tận hiến là phải nói đến các thánh nam nữ trong Giáo Hội, các ngài đã tự nguyện làm của lễ toàn thiêu dâng lên Chúa để xin Ngài hướng dẫn họ đi trên con đường tận hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa. Bởi vì các thánh nam nữ hiểu rất rõ Lời Chúa nói “yêu mến là chu toàn lề luật”[44], cho nên các ngài đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết cả trí khôn và yêu tha nhân như chính mình vậy.
     Tình yêu huynh đệ trong cộng đoàn phải được phát triển cách mạnh mẻ và mật thiêt hơn, nhờ đó mà người tu sĩ biết được thế nào là tận hiến đời mình cho Thiên Chúa qua việc phục vụ anh em. Phục vụ anh em trong cộng đoàn không phải chỉ là chia sẽ những gì mình có mà thôi, nhưng sự đồng cảm với nhau trong bổn phận trách nhiệm và chia sẻ với nhau những gánh nặng truyền giáo mới là sự phục vụ to lớn nhất.
     Tình yêu tận hiến là cho đi mà không đòi lại, là chia sẻ mà không vì lợi dụng, là hy sinh đến cả thời gian và công việc của mình cho hội dòng và cho các huynh đệ trong cộng đoàn của mình, đó chính là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi là hiệp thông, chia sẻ và thông ban.

------------------------


Ngày thứ năm 第五天 :

“NGƯỜI PHẢI LỚN LÊN
CÒN TÔI PHẢI NHỎ LẠI”
祂應該興盛,我卻應該衰微
(Ga 3, 30)

Thánh Gioan Tẩy Giả -người dọn đường cho Chúa đến- đã không ngần ngại trả lời với những người Do Thái về Đức Chúa Giê-su như sau: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”[45], câu trả lời ấyđã nói lên tất cả con người của thánh Gioan Tẩy Giả, nói tất cả là nói đến các đức hạnh của ngài, đặc biệt là sự khiêm tốn, dũng cảm và nhiệt tình trong cuộc sống làm chứng và mở đường cho Đấng Mê-si-a đến.
Cha Vincent Lebbe trước khi thành lập hai hội dòng Tiểu Đệ thánh Gioan Tẩy Giả và hội dòng Tiểu Muội thánh Tê-rê-xa đã nghiên cứu và cảm nhận được tinh thần hy sinh và dũng cảm của thánh Gioan Tẩy Giả, tinh thần đó được cảm hứng từ Đức Chúa Thánh Thần “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”, nhỏ lại trong sự khiêm tốn của một tôi tớ đi dọn đường cho Đấng Cứu thế đến, nhỏ lại là tinh thần của một người luôn biết mình là ai với Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất…”[46]. Do đó, ngài đã chọn thánh Gioan Tẩy giả làm bổn mạng của hội dòng Tiểu Đệ thánh Gioan Tẩy Giả, và mong ước các tu sĩ của hội dòng cũng sống với tinh thần khiêm tốn “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.

1.   Tinh thần “phải lớn lên” của tu sĩ會士應該興盛的精神.
Con người ta ai cũng phải lớn lên, nhân tố làm cho thân thể lớn lên chính là dinh dưỡng, dinh dưỡng không kiếm ở đâu xa mà ngay trong những bữa ăn hằng ngày mà chúng ta dùng, nhưng rất ít khi chúng ta nghĩ đến các chất dinh dưỡng làm cho thân thể chúng ta khỏe mạnh lớn lên.
Cũng vậy, “phải lớn lên” như thánh Gioan Tẩy Giả nói chính là sự lớn lên trong Đức Chúa Thánh Thần của Đức Chúa Giê-su, bởi vì như ngài đã thấy và làm chứng:
-      “Có người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi,
vì có trước tôi”[47].
Thánh Gioan Tẩy Giả đã chứng mình là ngài có trước Đức Chúa Giê-su, nghĩa là ngài sinh ra trước và đi rao giảng trước Đức Chúa Giê-su, nhưng đức khiêm tốn đã chỉ cho ngài biết Đấng đến sau (sinh ra sau) ngài cao trọng hơn vì Đấng ấy chính là Mê-si-a mà muôn dân trông đợi, do đó mà thánh Gioan Tẩy Giả đã kinh ngạc và làm chứng:
-         “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì chính là Đấng là phép rửa trong Thánh Thần”, tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”[48].
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra dấu chỉ của Đấng Mê-si-a là Thánh Thần ngự xuống trên đầu của Đức Chúa Giê-su và trong đám mấy có tiếng xác nhận của Đức Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta, ta hài lòng về Người”[49].
Vì những dấu chỉ đó mà thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Đấng đến sông Gio-đan chịu phép rửa do chính tay của mình là Mê-si-a, vì vậy khi người Do Thái muốn tôn ngài trở thành thủ lãnh của họ, hoặc như một nhà giải phóng hoặc hơn thế nữa là đấng cứu thế, nhưng thánh Gioan Tẩy Giả đã khiêm tốn nói: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”[50], bởi vì ngài chỉ là tiếng kêu trong hoang địa kêu mời mọi người dọn tâm hồn để chờ Chúa đến.
     Qua những lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả trên, người tu sĩ cần phải “lớn lên” như thế nào để trở thành chứng nhân cho Đức Chúa Giê-su, có ba sự lớn lên trong đời sống tu sĩ:
a/ Lớn lên trong đức ái.
b/ Lớn lên trong khiêm nhường và hiền lành.
c/ Lớn lên trong trong hội dòng.

a/ Lớn lên trong đức ái在愛內興盛.
-      Thánh Thể và cầu nguyện聖體及祈禱
Đức Chúa Giê-su động lòng thương trước sự đau khổ của người đàn bà góa, bởi vì con trai duy nhất của bà đã chết; Đức Chúa Giê-su thương dân chúng đi theo Ngài để nghe giảng mà không có gì ăn; Đức Chúa Giê-su động lòng trắc ẩn trước lời cầu xin của hai người mù.v.v...và trong Phúc Âm rất nhiều lần Đức Chúa Giê-su động lòng trắc ẩn với những người bất hạnh, sự trắc ẩn đó xuất phát tự đáy lòng của một con người biết chia sẻ và cảm thông trước những bất hạnh của tha nhân, chúng ta gọi là đức ái.
     Người tu sĩ nếu không có lòng trắc ẩn, hay nói cách khác, nếu lương tâm không thổn thức trước những bất công, bất hạnh và đau khổ của người khác, thì quả thật họ không xứng đáng trở thành một người môn đệ của Đức Chúa Giê-su. Đức ái đòi hỏi người tu sĩ phải lớn lên từng ngày, không phải chỉ là một chút thương hại khi nhìn thấy người nghèo khó hay người bất hạnh, hoặc chỉ là động một chút từ tâm mà thôi, nhưng đức ái đòi hỏi người tu sĩ phải liên lĩ lớn lên bằng sự bồi dưỡng Thánh Thể và cầu nguyện.
Đức Chúa Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi mỗi lần nghỉ ngơi là Ngài luôn kết hợp với Cha trên trời, nhờ sự kết hợp đó mà Ngài luôn nhận ra thánh ý của Cha và làm đẹp lòng Cha.
Đức ái làm cho người tu sĩ biết rung động sâu sắc trước những đau khổ của con người, bởi vì khi người tu sĩ luôn kết hợp với Đức Chúa Giê-su Thánh Thể và cầu nguyện thì đức ái của họ được bồi dưỡng và thêm mạnh mẻ và lớn lên trong Đức Chúa Thánh Thần, không kết hợp với Đức Chúa Giê-su Thánh Thể và không cầu nguyện thì đức ái nơi người tu sĩ sẽ ngày càng teo lại, và cuối cùng sẽ trở nên chai đá trước những đau khổ của tha nhân. Lúc nào người tu sĩ nhìn thấy người đau khổ mà nhớ đến Đức Chúa Giê-su bị đau khổ, thì khi thực thi đức ái là họ thực thi bác ái với Đức Chúa Giê-su qua người anh em chị em đau khổ bất hạnh ấy.
Thánh Thể và cầu nguyện chính là nguồn dinh dưỡng tuyệt vời để cho đức ái của người tu sĩ ngày càng lớn lên vậy.

-      Lao động và chia sẻ勞動及分享
     Năm nhà tập của bất kỳ hội dòng nam nữ nào cũng đều có một hoặc hai giờ lao động trong ngày, giờ lao động này có khi làm làm vườn hoa, có khi là cắt cỏ, có khi là đào mương, có khi là trồng rau.v.v…nhưng những việc lao động ấy không phải làm ra sản phẩm đem đi bán, mà là để dạy cho các tập sinh biết giá trị của lao động chân tay và thành quả của lao động ấy, quan trọng hơn là để cho các tập sinh biết trân trọng những người lao động trên những cánh đồng, nhà máy, công xưởng.v.v…vất vả mệt nhọc như thế nào, để từ đó dạy cho các tập sinh biết yêu quý và giữ gìn những thành quả của lao động, nhất là gìn giữ của công nơi công cộng cũng như trong hội dòng hoặc tu hội cộng đoàn của mình.
     Lao động để có của cải nuôi sống bản thân và gia đình, là để chia sẻ với những người thiếu thốn bất hạnh hơn mình, đó là điều mà người tu sĩ phải hiểu và luôn nhớ lời của thánh Phao-lô tông đồ đã chỉ thị cho các tính hữu của giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn”[51], một chỉ thị nghiêm khắc khác thường, vì ngài đã từng lao động để tự nuôi mình và giúp đỡ tha nhân.
     Người tu sĩ một khi đã hiểu giá trị của lao động, thì sẽ biết cảm thông cho những người lao động chân lấm tay bùn, và biết chia sẻ với họ những gì có thể được, bởi vì không một tu sĩ nào có thể dửng dưng trước những đau khổ của tha nhân mà không biết chia sẻ với họ, nhưng nếu họ làm ngơ trước những đau khổ ấy thì trong ngày phán xét chính Đức Chúa Giê-su sẽ nặng nề lên án họ: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và sứ thần của nó…”[52]. Do đó, đức ái của người tu sĩ cần phải lớn lên trong từng môi trường hoạt động của mình, bởi vì người nghèo và người bất hạnh thì lúc nào cũng có chung quanh mình, đó là một hồng ân mà Chúa ban cho họ, không có những người nghèo thì chúng ta không có những ngân hàng tích lủy những bác ái của chúng ta.
     Lao động và chia sẻ là hai hành vi nội ngoại trong tinh thần tu đức của cha Vincent Lebbe, đó là “Toàn hy sinh”.
Lao động 勞動 là hành vi bên ngoài để chúng ta thông cảm với những nhọc nhằn phần xác của tha nhân; chia sẻ 分享là hành vi bên trong của tâm hồn được thôi thúc bởi lòng yêu mến Đức Chúa Giê-su nơi tha nhân mà thực hành đức ái.

b/ Lớn lên trong khiêm nhường và hiền lành在良善心謙內興盛.
     Cuộc sống của thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng cho chúng ta biết rằng ngài là con người rất khiêm tốn, thánh sử Mát-thêu đã nói về ngài như sau: “Ông Gioan mặc áo lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn”[53], ngài như một vị ẩn sĩ xuất hiện giữa công chúng đang mong đợi Đấng cứu thế đến, nói rõ ràng hơn là trông đợi Đấng Mê-si-a đến giải thoát họ khỏi sự đo hộ của người Rô-ma.
     Nhưng với lòng khiêm tốn biết mình là ai và làm gì, thánh Gioan Tẩy Giả đã phủ nhận mình không phải là đấng mà họ trông đợi, ngài chỉ là người dọn đường cho Chúa mà thôi.
     Người tu sĩ là người đã từ bỏ tất cả để theo làm môn đệ Chúa, sự khiêm tốn đích thực chính là ở đó, biết nhận ra mọi sự là của Chúa để rồi dâng lại cho Chúa với tất cả sự khiêm tốn của kẻ biết nhận mình là số không trước mặt Chúa, và khi họ làm như thế thì chính họ đã mở rộng tâm hồn mình để cho Chúa đến rồi lớn lên và chiếm trọn tâm hồn của họ, và biến họ thành những con người đi phục vụ người khác cách chân thành trọn vẹn. Nếu không để cho Chúa lớn lên và chiếm trọn tâm hồn thì người tu sĩ chỉ là “cái xác biết đi行尸走肉” mà không cảm nghiệm được Đức Chúa Giê-su đang hiện diện nơi tha nhân.
     Sự khiêm tốn của người tu sĩ sẽ làm cho nhiều người nhận ra khuôn mặt hiền lành của Đức Chúa Giê-su nơi họ, bởi vì một khi họ tự hạ mình xuống thì Đức Chúa Giê-su sẽ lớn lên trong suy nghĩ và trong cuộc sống của họ.
     Trong đời sống cộng đoàn sự khiêm tốn rất cần thiết, và hình như nó trở thành một tác nhân của sự  đoàn kết và yêu thương giữa các thành viên với nhau. Thật vậy, trong một cộng đoàn mà một ai đó khi được đề bạt lên làm chức vụ này nọ trong cộng đoàn, mà không có sự khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ là người bất toàn vô dụng, thì sẽ trở thành một người xa lạ với các thành viên trong cộng đoàn, tệ hơn nữa là có những thái độ chê bai và phê bình người khác trong cộng đoàn. Đức Chúa Giê-su sẽ không lớn lên được trong những người có tâm hồn đầy cả những cái tôi của mình, và đương nhiên là không có chỗ cho Chúa, thì làm sao để Ngài lớn lên được.
     Khiêm tốn thường đi đôi với hiền lành, bởi vì Đức Chúa Giê-su đã nói: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”[54], hãy học với Chúa sự khiêm nhường và hiền hậu thì tâm hồn sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng[55], đây là lời hứa và cũng là lời mời gọi của Đức Chúa Giê-su đối với tất cả mọi người, đặc biệt là những tu sĩ nam nữ là những người dâng mình làm tôi tớ Chúa.
     Khi một tu sĩ cứ sống theo cái tôi kiêu ngạo của mình, thì tu sĩ ấy không phản ảnh lại cuộc sống của Thầy chí thánh của mình, lại càng không phản ảnh khuôn mặt hiền lành và khiêm nhường của Chúa, và sa-tan có cớ để xâm chiếm tâm hồn của họ, bóp nghẹt ân sủng của Chúa trong tâm hồn họ và làm cho họ trở thành những người vô cảm trước những đau khổ của tha nhân...
     Khiêm nhường là nền tảng của các nhân đức và sự hiền lành là hoa quả của sự khiêm nhường; khiêm nhường là keo gắn chặt tình huynh đệ cộng đoàn và sự hiền lành làm cho tình huynh đệ triển nở dài lâu. Đức Chúa Giê-su sẽ lớn lên trong tâm hồn của người tu sĩ và cuộc sống của họ sẽ phản ảnh lại khuôn mặt của Đức Chúa Giê-su.
     Sống trong cộng đoàn hay làm việc giữa đời ai cũng mong muốn nhìn thấy một tu sĩ làm tấm gương sáng cho họ, bởi vì dù là sống trong cộng đoàn tu viện chăng nữa thì gương sáng của mình cũng sẽ ảnh hưởng đến các thành viên khác huống hồ là sống giữa đời, mà tấm gương sáng nhất chính là mẫu gương khiêm nhường và cuộc sống hiền lành của các tu sĩ vậy.

c.   Lớn lên trong hội dòng 在修會內興盛。
Trở thành một tu sĩ trong một hội dòng là tính từ khi họ vào nhà tập trở thành tập sinh với nghi thức mặc áo dòng, rồi từ đó trong hội dòng họ sẽ lớn lên với một vóc dáng mạnh khỏe cả tâm hồn lẫn thân xác, để trở thành chứng nhân cho Tin Mừng giữa trần gian.
Từ thời gian làm tập sinh học hởi những điều căn bản cho đời sóng tu đức và tìm hiểu luật dòng, cho đến khi khấn trọn trở thành một thành viên chính thức trong hội dòng, họ đã được sự chăm lo của hội dòng để như một cây con nho nhỏ bây giờ đã lớn lên mạnh khỏe, đến nỗi chim trời có thể đến làm tổ trên nó, tức là họ có thể gành vác những trách nhiệm mà hội dòng sẽ giao cho họ làm để sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân.
Người tu sĩ không phải tự nhiên mà lớn lên thành tu sĩ được, nhưng là nhờ sự dạy dỗ của Chúa qua hội dòng, họ sẽ không nhận một thứ gì từ Chúa nếu không tuân giữ luật dòng và nhận sự dạy dỗ chỉ bào của hội dòng, bời vì đặc sủng nơi mỗi hội dòng đều đến từ Thiên Chúa là Đấng yêu thương luôn mời gọi con người sống hiến thân và kết hợp với Ngài trong cuộc sống. Nhưng điều gì làm cho tu sĩ được lớn lên trong hội dòng, đó chính là hai điểm chính sau đây: Tha thứ và bao dung.
-      Tha thứ 寬恕:
Không ai có thể ở chung với nhau được nếu không có ơn Chúa và sự thích thú với đời sống cộng đoàn, đó chính là ân sủng, bởi khi gia nhập một hội dòng thì người tu sĩ mang luôn cả cá tính và những ưu khuyết điểm của mình vào trong hội dòng hoặc trong một cộng đoàn tu hội, cho nên chuyện giữa các tu sĩ với nhau có những xích mích, có những va chạm và có những bất đồng là điều không thể chối bò được. Nhưng nếu xét cho cùng thì tại sao các hội dòng hoặc các tu hội cộng đoàn vẫn cứ phát triển và tồn tại, câu trả lời là: vì các tu sĩ biết tha thứ cho nhau.
Quả thật, một cộng đoàn với rất nhiều cá tính và tính cách không giống nhau của mỗi thành viên, thì chắc chắc sẽ không tránh khỏi những lời qua tiếng lại, hoặc là những phê bình tranh chấp, nhưng trái lại các tu sĩ vẫn cứ sống vui vẻ với nhau, cộng tác với nhau để xây dựng hội dòng hoặc cộng đoàn tu hội của mình và để làm sáng danh Chúa.
Bí quyết để các tu sĩ tuy mỗi người một cá tính nhưng lại đoàn kết hiệp nhất với nhau chính là tha thứ, người biết tha thứ là bày tỏ một tâm hồn hiền lành và rộng lượng, là người biết nhận ra những khuyết điểm của anh em (chị em) thì cũng chính là khuyết điểm của mình, do đó mà dễ dàng tha thứ cho nhau. Đức Chúa Giê-su là Đấng hay thương xót và tha thứ, bởi vì Ngài đã mặc lấy thân phận của con người chúng ta là để cứu chuộc chúng ta, cho nên Ngài rất dễ dàng cảm thông với những bất hạnh của con người, và sẵn sàng tha thứ cho con người khi họ biết tỏ lòng thống hối ăn năn.
Tha thứ là thái độ lớn lên trong cộng đoàn của người tu sĩ, càng lớn lên trong đức mến thì càng gần gủi thiên đàng hơn, hay nói cách khác là gần gủi với Đức Chúa Giê-su hơn, bởi vì Đức Chúa Giê-su khi bị đóng đinh trên thập giá đã thấy tận tâm sự thống hối của người trộm lành mà nói với anh ta rằng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng”[56], và quả thật người trộm lành đã được ở bên Chúa hưởng trọn vẹn hạnh phúc trong Nước Trời.
Càng tha thứ cho nhau thì càng làm cho mình giống Thầy chí thánh hơn, càng tha thứ cho nhau thì càng thấy mình cần được tha thứ hơn, sự tha thứ này chỉ được nuôi dưỡng trong hội dòng hay một cộng đoàn tu hội nào đó, nhờ đặc sủng của Chúa ban cho mà các tu sĩ chung sống với nhau như anh em một nhà để dễ dàng tha thứ cho anh em khi họ đắc tội với mình.
Không một tu sĩ nào ở trong một dòng tu hay một cộng đoàn tu hội mà không biết tha thứ cho nhau, bởi nhờ tình yêu vào Đức Chúa Giê-su mà các tu sĩ –khi tha thứ- đã thấy mình được tha thứ[57] và  thấy mình ngày càng trưởng thành hơn trong tình yêu của Đức Chúa Giê-su.

-      Bao dung包容.
Baolà gói, đùm, bọc; dung là chứa đựng và cũng là tha thứ khoan dung.
Bao dung là hành động của người có tấm lòng độ lượng quảng đại, là người biết đem sự yêu thương và tha thứ của mình bao trùm gói trọn cái khuyết điểm của tha nhân, làm cho tha nhân cảm thấy được cuộc sống của họ rất có ý nghĩa, vì giữa một xã hội lừa dối bon chen đầy những tội ác, mà lại có những người có tấm lòng độ lượng bao dung. Quả thật như thế, sự bao dung có thể cảm hóa những người xấu và cũng có thể làm cho người thất vọng thấy cuộc sống có nhiều hy vọng hơn.
Trong một hội dòng hoặc cộng đoàn tu hội điều mà người ta nhìn thấy rõ ràng nhất nơi các tu sĩ chính là sự bao dung, ở nhà xứ người ta nhìn thấy sự bao dung của cha sở khi có những giáo dân làm ngài buồn phiền, hoặc có những phần tử chống đối ngài vì quyền lợi cá nhân của họ ở nhà xứ, nhưng sự bao dung của cha sở đã làm cho họ nhìn thấy Đức Chúa Giê-su nơi con người của vị mục tử của mình.
 Bao dung là thước đo lòng sự yêu thương và kiên nhẫn của một tu sĩ hoặc một linh mục, là sự trưởng thành trong đức ái mà tất cả mọi hội dòng, mọi đoàn thể của Giáo Hội đều đặt lên hang đầu trong hiến chương của mình, bởi vì các hội dòng, tu hội, cộng đoàn hoặc những tổ chức của Giáo Hội được lập ra là để phục vụ tha nhân, nhất là những người bất hạnh, cho nên đức ái chính là động cơ của việc thành lập các hội dòng, tu hội, cộng đoàn.v.v…
Người tu sĩ thấm nhuần Lời Chúa và luôn suy tư đến mầu nhiệm làm người của Đức Chúa Giê-su thì họ sẽ gần gủi với người nghèo và bất hạnh; Người tu sĩ luôn suy niệm về cuộc đời truyền giáo của Đức Chúa Giê-su thì họ sẽ đem tấm lòng yêu thương của mình để bao trùm lại những khuyết điểm của những thành viên trong hội dòng hay cộng đoàn tu hội của mình, bởi vì họ biết rằng con người ta không ai mà không có khuyết điểm, họ sẵn sàng dung yêu thương của mình để cảm hóa người an hem chị em của mình bằng cách gói trọn các khuyết điểm của họ vào trong trái tim yêu thương của mình, để rồi lấy hành động yêu thương, tha thứ, độ lượng để khuyên bảo khuyến khích những thành viên ấy trong hội dòng hoặc cộng đoàn tu hội của mình.
Bao dung là rộng lớn chứ không phải nhỏ như lòng ích kỷ của người ích kỷ, cho nên sự bao dung của người tu sĩ sẽ liên lĩ từng ngày để làm cho đời sống cộng đoàn ngày càng phong phú hơn trong sự hiệp nhất với Đức Chúa Giê-su.
Khi một tu sĩ biết bao dung cho các an hem (chị em) của mình là họ đã lớn lên trong tình yêu của Chúa, và qua hội dòng hay cộng đoàn tu hội của họ, họ được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể và Lời Chúa cùng sự nguyện ngắm để được lớn lên từng ngày trong ân sủng của Chúa.

---------------------------



Ngày thứ sáu第六天:



CHẤP NHẬN
接受


     Con người ta dễ dàng chấp nhận những gì có lợi cho bản thân mình và khó chấp nhận những gì không thuộc về mình, không có lợi cho mình, nhưng trong thực tế có những điều mình không thích thì nó đến, điều mình thích thì không tìm đâu ra, và thế là buộc phải chấp nhận trong miễn cưỡng với tâm trạng không có gì là vui vẻ. Với người đời thì họ sẵn sàng đánh đổi tất cả để được cái mà mình thích, và họ cũng sẽ làm tất cả những gì có thể được để từ chối hoặc tránh đi những điều mà mình không thích.
     Nhưng người tu sĩ thì không như vậy, đã dám từ bỏ tất cả tiền tài danh vọng để đi tu thì cũng có thể chấp nhận điều xấu hay tốt đến cho mình, đó chính là tinh thần tu đức bậc cao mà tất cả những người yêu mến Chúa, tin tưởng vào Chúa và phó thác cho Ngài thì mới có thể làm được.
     Chấp nhận là đón nhận những gì mình thích và những gì mà mình không thích, đó là thực hành ý của Chúa.
Hai mẫu gương biết chấp nhận thánh ý Chúa đã trở thành mẫu mực cho người tu sĩ:

1/ Cựu ước: thánh Gióp聖約伯.
     Được sự cho phép cùa Thiên Chúa ma quỷ đã cám dỗ và hành hạ thân xác của ông Gióp để coi ông còn tin tưởng vào Thiên Chúa nữa không, và nhất là để coi ông có nguyền rủa Thiên Chúa không, bởi vì ông Gióp là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lành xa điều ác[58]. Và ma quỷ đã ra tay hành động không thương tiếc để cho ông Gióp nguyền rủa Thiên Chúa và không còn nhận biết Thiên Chúa nữa.
     Khi nghe tin mười người con bị chết và tất cả tài sản bị cướp sạch, ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:
     “Thân trần truồng
     sinh từ lòng mẹ,
tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.
Đức Chúa đã ban cho,
Đức Chúa lại lấy đi;
xin chúc tụng danh Đức Chúa !”[59]
Ông Gióp đã chấp nhận những thử thách mà Chúa gởi đến cho mình, dù sự thử thách ấy quá sức tưởng tượng của ông, ông chấp nhận thử thách như của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa.
Nếu không có sự tin tưởng mãnh liệt vào Thiên Chúa thì ông Gióp sẽ buông lời oán trách Ngài; nếu không có sự phó thác vào Thiên Chúa thì ông Gióp sẽ nguyền rủa Ngài như những người không biết Thiên Chúa. Nhưng ông Gióp đã thốt lên lời ca ngợi Chúa trong cảnh khốn cùng của mình, vì ông ta biết mình sinh ra từ lòng mẹ chỉ là trần truồng, và trong cuộc sống Chúa ban cho ông rất nhiều và giờ đây Chúa lấy lại, ông đã xin vâng.
Người tu sĩ cần phải có tinh thần chấp nhận như ông Gióp: chấp nhận sự sai phái của bề trên, chấp nhận những góp ý của người khác, dù những góp ý đó không có lợi cho mình. Khi chấp nhận là người tu sĩ sẵn sàng đón nhận những nhát dao bén nhọn đâm vào tim mình, vì điều mình không muốn nhưng vì yêu Chúa mà mình phải chấp nhận. Ông Gióp đã nhờ đức tin soi sáng mà nhận ra sự thử thách của Thiên Chúa và ông càng tin tưởng vào Chúa hơn khi nói:
“Phúc thay người được Thiên Chúa sửa trị !
Chớ coi thường giáo huấn của Đấng Toàn năng.
Người gây thương tích, cũng chính Người băng bó,
đánh bầm dập xong, lại ra tay chữa lành”[60].
Chính sự tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa mà ông Gióp mới cảm nghiệm được quyền năng của Ngài trên bản thân của mình.
     Chấp nhận là sự việc đã và đang xảy ra khi con người chưa nghĩ tới hoặc không nghĩ tới, cho nên khó mà chấp nhận được những điều xảy tới mà không có chút gì là lợi cho bản thân mình. Người tu sĩ khi chấp nhận ý muốn của bề trên là chấp nhận ý muốn của cộng đoàn, và như thế là chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa.

2/ Tân ước: thánh Phao-lô tông đồ聖保祿宗徒.
     Thánh Phao-lô tông đồ, từ một người hăng say bắt bớ những người tin vào Đức Ki-tô bị treo trên thập giá, họ là những người Ki-tô hữu đầu tiên của một tôn giáo mới khác với tôn giáo của người Do Thái, ngài bị ngã ngựa bởi quyền năng của Đức Chúa Giê-su đang khi đi bắt bớ các tín hữu của Ngài[61]. Nhưng sau khi được rửa tội thì ngài thuyệt đối tin tưởng vào Chúa như thánh Gióp trong thời cựu ước, ngài đã chia sẻ cảm nghiệm của ngài về sự thương xót và nâng đỡ của Thiên Chúa, vì ngài đã xác tín rằng Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an[62]. Sự cảm nghiệm này đã khiến cho thánh Phao-lô càng thêm kiên quyết chấp nhận những gian nan thử thách xảy đến cho ngài trong các cuộc truyền giáo xa xôi, và vì yêu mến Phúc Âm, vì danh Chúa cả sáng mà ngài chấp nhận tất cả, để rồi sau đó ngài đã vui mửng chia sẻ quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa, ngài nói: “Thiên Chúa luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó”[63]. Sau đó thánh Phao-lô đã thuật lại những khốn khó gian nan mà ngài phải vượt qua, suýt bị chết vì Tin Mừng mà mình rao giảng.
     Sự chấp nhận thánh ý Thiên Chúa của thánh Phao-lô tông đồ khác với sự chấp nhận thánh ý của thánh Gióp trong cựu ước, bởi vì khi bị ngã xuống đất thánh Phao-lô đã được đối thoại với Đức Chúa Giê-su, mặc dù chỉ vài ba câu ngắn ngủi[64] nhưng đã làm cho cuộc đời của thánh Phao-lô biến đổi và tin vào Đấng mà mình đã đi lùng bắt những kẻ tin vào Ngài, cho nên ngài sẵn sẵn sàng chấp nhận đau khổ thử thách; trái lại thánh Gióp chưa hề nhìn thấy Thiên Chúa, mà chỉ cảm nhận được Thiên Chúa hiện hữu và quyền năng trong tâm hồn của mình và trong cuộc sống sung túc của gia đình, nếu không có Thiên Chúa thì ông và gia đình sẽ không được như thế, Chúa cho đi và Chúa lấy lại thì cũng xin chúc tụng danh Chúa.
Hai con người, hai thời đại và hai sự chấp nhận trong hoàn cảnh khác nhau, nhưng tất cả cùng quy về mục đích là làm sáng danh Thiên Chúa.
     Chấp nhận tất cả những gì ngoài ý muốn của mình là người tu sĩ đã trở thành chứng nhân cho Chúa, đó là biết đón nhận khuyết điểm của anh em chị em để cầu xin Chúa thánh hóa chúng, và rồi lại dâng cho Chúa như của lễ hiến tế đời mình. Bởi vì của lễ hiến tế với tâm hồn không vui vẻ thì chưa vẹn toàn, chưa đạt đến sự thanh thản của tâm hồn. Đức Chúa Giê-su đã chấp nhận tất cả những tội lỗi của thế gian với tâm tình khiêm tốn và yêu thương, để rồi nhân loại được trở nên cao quý trước mặt Thiên Chúa vì sự hy sinh của Đức Chúa Giê-su.
     Thánh Gióp và thánh Phao-lô tông đồ là hai mẫu gương chấp nhận thánh ý của Chúa nơi mỗi một người tu sĩ.

3/ Sự chấp nhận của người tu sĩ會士的接受.
     Như đã nói ở trên, các tu sĩ là những người đã từ bỏ thế gian để chấp nhận cuộc sống phiêu lưu hào hứng với lời mời gọi của Thiên Chúa, cuộc phiêu lưu này có định hướng rõ ràng là theo Chúa, là có chương trình của hội dòng hoặc của cộng đoàn tu hội hẳn hoi, và cứ thế mà đi. Nhưng sự chấp nhận từ bỏ này đôi lúc chỉ là sự chấp nhận tiêu cực làm cho người tu sĩ dễ dàng bị hấp dẫn bởi những ưu đãi mà giáo hội cũng như giáo dân dành cho họ, để rồi sự chấp nhận này nảy sinh ra hai khuynh hướng mà họ -có lúc nào đó- bày tỏ ra nơi thái độ bất phục tùng của mình.

a.   Chấp nhận làm theo ý của mình按照自己的作法.
Khi còn là tập sinh (nếu là tu dòng) hoặc năm tu đức ở trong đại chủng viện (nếu là tu triều) thì những tập sinh hoặc chủng sinh này có một khuynh hướng rất rõ rệt là muốn trở thành một linh mục tốt lành trong tương lai, cho nên trong thời gian thụ huấn (học hành) hoặc thời gian tập sinh, khấn tạm, thì các thầy luôn bày tỏ một thái độ vâng phục, chấp nhận những mệnh lệnh, những nội quy rất hoàn hảo; nhưng cũng có một vài chủng sinh hay các thầy dòng vì mục đích của mình chưa đạt tới, nên họ chịu “lép vế” để nhẫn nhịn, chấp nhận “chịu thua” hoặc “chịu đấm ăn xôi” để được các bề trên không khiển trách mà lại còn được khen ngợi là khiêm tốn...
Nhưng như cha Vincent Lebbe đã nói, cái tôi của mình chỉ có đánh chết thì nó mới không ngóc đầu dậy, bằng không thì dù cho đánh nó bị trọng thương thì vẫn có ngày nó sẽ bật lên rất mạnh và khó mà chế ngự nó được. Cũng vậy, chấp nhận để đạt mục đích thì khi mục đích đã nắm trong tay rồi, thì sự chấp nhận này không những là một tai họa cho bản thân người tu sĩ, mà còn là gương xấu cho giáo dân và thiệt hại cho Giáo Hội là chuyện đương nhiên không chối cãi được.
Sự chấp nhận đó gọi là chấp nhận làm theo ý riêng của mình. Quả thật như thế, có những giáo xứ mà cha sở chẳng khác gì giám mục, bởi vì ngài thích thay đổi phụng vụ cho hợp ý của mình và thị hiếu của giáo dân, mà không tuân theo lời chỉ dẫn của Giáo Hội; ngài thích bày ra nhiều tiết mục trong thánh lễ rất không phù hợp với phụng vụ thánh, ngài không thích nghe ai góp ý, ngài không chấp nhận sự góp ý đúng đắn của giáo dân và chỉ chấp nhận làm theo ý của mình, đó là sự chấp nhận làm nghèo nàn tu đức của bản thân và ngày càng làm cho mình và giáo dân xa cách Thiên Chúa là Đấng luôn hướng dẫn các ngài qua sự soi sáng của Thánh Linh, khi chấp nhận làm theo ý của mình, thì chẳng khác chi các ngài đã tiếp tay cho sa-tan đánh phá Giáo Hội qua những suy nghĩ phá hoại của ma quỷ.
Đức Chúa Giê-su trong vườn Cây Dầu cũng đã muốn làm theo ý của mình, vì Ngài thấy khó mà chấp nhận chén đắng (tội lỗi nhân loại và sự chết) mà Ngài phải uống, nhưng rồi Ngài đã can đảm chấp nhận chén đắng và uống cho đến giọt cuối cùng là phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha[65]. Đức Chúa Giê-su đã không muốn làm theo ý mình, vì Ngài không muốn phá vỡ tương quan giữa sự vâng phục và hy sinh, đó là sự hổ tương làm cho đời sống tu đức của người tu sĩ càng thêm phong phú hơn.
-      Khi một tu sĩ chỉ biết chấp nhận mình mà không chấp nhận người khác, thì là một tu sĩ kiêu ngạo.
-      Khi một tu sĩ chỉ biết chấp nhận ý kiến của mình mà bác bỏ ý kiến của người khác, thì là một tu sĩ chưa trưởng thành trong đức ái.
-      Khi một tu sĩ chỉ biết chấp nhận những gì thuộc về mình mà không chấp nhận những gì thuộc về người khác, thì là một tu sĩ ích kỷ.

b.   Chấp nhận làm theo ý Chúa按照天主的旨意.
Đức Chúa Giê-su đến thế gian không phải để làm theo ý mình, nhưng là để làm theo ý của Chúa Cha[66], cũng vậy, tu sĩ là người luôn chú ý để nhận ra thánh ý của Chúa trong cuộc sống của mình, đó là đôi tai phải tập nghe cho xa cho rõ để nghe lời than vãn của giáo dân với cha sở; đôi mắt phải nhìn chính xác để phân biện đâu là thánh ý của Chúa và đâu là ý của thế gian; đôi tay phải cứng để nắm bắt lấy Lời Chúa; đôi chân phải mạnh để đứng vững giữa phong ba của cuộc đời, và một tâm hồn nhạy bén trước mọi biến cố để nhận ra thánh ý của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình.
Một tu sĩ mà không nhạy bén trước những thách đố của thế gian, thì khó mà nghe được tiếng Chúa để mà chấp nhận, khi tâm hồn đã đầy đủ thỏa mãn những điều mà thế gian ưa thích thì khó mà bén nhạy với ý muốn của Thiên Chúa.
Qua ba giai đoạn này mà người tu sĩ cần phải chú ý để lắng nghe và biết ý muốn của Thiên Chúa :
-      Khi còn là tập sinh thì nên suy tư nhiêu về đời sống tu trì của mình, rồi sẽ thấy được ý muốn của Chúa qua đời sống cộng đoàn để chấp nhận hoặc không chấp nhận.
-      Khi đã khấn thi người tu sĩ như được chấp cánh để bay lên cao trong bầu khí tu đức và sự quảng bác của kiến thức, không như chim đại bàng tuy bay cao nhưng vẫn cứ chăm chú đảo mắt tìm mồi ở mặt đất, nhưng người tu sĩ càng được nhiều ơn sủng của Chúa thì càng nhìn lên trời cao và không tìm kiếm những gì thuộc về thế gian.
-      Khi đã trở thành một phần tử chính thức trong hội dòng, thì người tu sĩ sẽ trở thành một người thợ gặt trên cánh đồng truyên giáo, ở đây họ sẽ một mình đối diện với những chước cám dỗ, những xa hoa của thế gian, và cũng tại giao đoạn này (làm cha sở, học hành bên ngoài, làm mục vụ ở ngoài xã hội.v.v...) các tu sĩ càng bị cám dỗ nhiều hơn nữa, và có khi họ cảm thấy mình khó mà chấp nhận được thánh ý của Chúa vì những điều ấy không có lợi cho bản thân mình, không thỏa mãn được những đòi hỏi riêng tư của mình.
Có một vài tu sĩ linh mục vì nhu cầu mục vụ mà đi làm cha sở, với rất nhiều tiện nghi và ưu đãi khi ở giáo xứ, cá nhân sinh hoạt như một linh mục triều và lâu dài thì quên mất mình là một linh mục dòng với luật dòng phải tuân giữ. Cho nên khi được phái đi làm công tác mục vụ khác thì oán trời phê bình anh em và có khi phê bình cả bề trên, họ không nhận ra được ý Chúa để chấp nhận, mà chỉ biết ý mình là không muốn điều không hợp với mình xảy ra, thế là chấp nhận ý muốn của mình mà không chọn lựa và chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa.
Không chấp nhận thánh ý Chúa thì trước sau gì cũng thất bại trong công việc của mình, bởi vì Chúa thà để công việc bị thiệt thòi hơn là để cho sự kiêu ngạo làm chủ tâm hồn người được Ngài tuyển chọn, Chúa sẵn sàng nhìn thấy một tu sĩ thất bại hơn là thành công mà không biết chấp nhận thánh ý của Ngài.
Nhìn qua đời sống của các thánh nam nữ chúng ta thấy rất rõ điều này: không một thánh nhân nào mà không phục tùng và chấp nhận ý Chúa, dù cho hoàn cảnh đổi thay, dù cho đau khổ trùng điệp, dù cho khó khăn ngập đầu. Tóm lại hể là thánh nhân thì sẵn sàng chấp nhận thánh ý Chúa vượt qua ý riêng mình.
     Chính Đức Chúa Giê-su Đấng đã kêu mời các tu sĩ nam nữ bước đi theo Ngài đã làm gương sáng cho chúng ta khi Ngài thưa với Đức Chúa Cha: “Này con xin đến để thực thi ý Cha”[67], “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con,nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện”[68].
Tu sĩ là người đem cuộc sống thánh hiến của mình đặt vào trong tay quan phòng của Thiên Chúa, và đi cao hơn bậc nữa là tín thác đời tu của mình cho Chúa, cho nên điều Chúa muốn thì cũng là điều người tu sĩ muốn, bởi vì chấp nhận theo Chúa là phải chấp nhận từ bỏ ý riêng của mình để được Chúa, như lời của cố hồng y Phan-xi- cô Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình, thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con đã bỏ trước”[69], bỏ tất cả chính là chấp nhận từ bỏ những gì cho phù hợp với thân phận của một người Ki-tô hữu hay một tu sĩ hoặc một linh mục, đó chỉ là từ bỏ bên ngoài như từ bỏ những thứ mình thích cách nhất thời mà thôi.
Từ bỏ chính mình là chấp nhận theo thánh ý của Chúa, tức là đánh chết cái tôi của mình, khi cái tôi đã bị đánh chết thì người tu sĩ sẽ không còn nghĩ đến những gì mà mình đã từ bỏ, nhưng nếu cái tôi chưa bị đánh chết thì người tu sĩ sẽ quơ lại tất cả những gì mình đã từ bỏ trước đó.

------------------------------

Ngày thứ bảy第七天:



PHÓ TẾ
執事

Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, vì công việc mục vụ cho người nghèo, người góa bụa bị bỏ quên, vì để quản lý tài sản.v.v…mà các thánh tông đồ đã thành lập nhóm “Bảy người”[70], tức là những người phụ tá cho các tông đồ, nổi bật nhất trong nhóm bảy người là thánh Stê-pha-nô, người đầy lòng tin và khôn ngoan của Đức Chúa Thánh Thần, là vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội. Họ là những người được chọn trrong số những người tin vào Chúa với tiêu chuẩn mà các thánh tông đồ đặt ra, như thánh Phê-rô tông đồ đã nói: “Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa”[71].
Do đó mà Giáo Hội trong hiến chế về Giáo Hội đã nói như sau về chức vụ Phó Tế: “Ở bậc thấp hơn của hàng giáo phẩm có các phó tế, những người đã được đặt tay “không phải để lãnh nhận chức vụ linh mục, nhưng là để phục vụ”[72].
Ơn gọi làm linh mục trước hết là mời gọi người thanh niên phải được chuẩn bị đầy đủ và xác định ơn gọi của mình là phục vụ Chúa qua Giáo Hội, và nhất là qua những con người mà Giáo Hội thay mặt Chúa trao phó cho họ coi sóc trong chức vụ linh mục. Tuy nhiên, tùy theo hoàn cảnh mà các phó tế cũng được giám mục giáo phận giao cho trọng trách trông coi một cộng đoàn Dân Chúa, như thế các phó tế sẽ dễ dàng dùng đặc sủng ngôn sứ được lãnh nhận qua sự đặt tay để phục vụ Lời Chúa và các linh hồn. Thánh công đồng Va-ti-căn II nhấn mạnh: “Thực vậy, được ân sủng bí tích bồi bổ, các Phó Tế trong sự hiệp thông với giám mục và linh mục đoàn, phục vụ dân Thiên Chúa bằng việc phụng vụ, giảng dạy và bác ái”[73].

-      Phục vụ服務.
Công việc chính yếu của ơn gọi của Phó tế là giảng dạy và làm việc bác ái, tức là phục vụ
Sống ơn gọi ngôn sứ của mình chính là nhận thức được mình đang dấn thân trên con đường phục vụ Chúa như các ngôn sứ xưa trong cựu ước và các tông đồ trong tân ước.
Phó tế là phục vụ, tuy rằng phó tế chuyển tiếp chỉ làm đúng bổn phận của mình từ sáu tháng hoặc một năm theo giáo luật, nhưng những tháng ngày ấy đã dạy cho các phó tế những bài học thích đáng cụ thể, để sau này khi trở thành linh mục thì họ trở nên những mục tử nhân hậu nhiệt thành và can đảm hơn.
Thánh công đồng Va-ti-căn II cũng khẳng định rằng các phó tế được thánh hiến để lo việc bác ái và việc quản trị, phó tế phải nhớ lời nhắn nhủ của thánh Polycarpo: “Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành và hãy bước theo chân lý của Chúa, Đấng đã làm tôi tớ mọi người”[74]. Lịch sử giáo hội ngay từ thuở ban đầu đã có những phó tế xuất sắc vì tha nhân mà chịu chết như thánh phó tế Lô-ren-sô đã quản lý tài sản của Giáo Hội, trong thời Giáo Hội bị bách hại ngài đã đem tài sản của Giáo Hội phân phát cho người nghèo, và trước mặt quan tổng đốc tham lam và tàn ác, ngài đưa tay chỉ những người nghèo và : “Đây là tất cả tài sản của Giáo Hội”. Chỉ có những người yêu mến Thiên Chúa mới hết lòng phục vụ Ngài qua Giáo Hội, nhất là qua người nghèo, phó tế là như thế, biết nhận ra ơn gọi phục vụ của mình và làm đúng trách nhiệm của mình mà Giáo Hội đã trao phó. Một phó tế không phục vụ là một phó tế quan liêu và không làm danh Chúa tỏa sáng qua việc phục vụ tha nhân. Theo dòng thời gian, các phó tế của Giáo Hội được phục vụ bàn thánh nhiều hơn so với việc phục vụ bên ngoài xã hội.
-      Phục vụ bàn thánh:
+ Giúp linh mục chủ tế trên bàn thờ khi cử thánh lễ.
+ Là thừa tác viên trao Mình Thánh Chúa.
+ Cử hành các á bí tích.
+ Trao Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân.
+ Chủ sự nghi thức hôn phối và an táng (khi không có linh mục hiện diện).
+ Giảng và dạy giáo lý.v.v...
.......................
Hành trình của các ngôn sứ của thời Tân Ước là đi loan báo tin mừng Đấng Ki-tô đã chết và đã sống lại, lên trời và ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và làm cho người khác vững mạnh trong đức tin[75], họ được Thần Khí của Chúa soi sáng và sai đi phục vụ với tư cách là người của Giáo Hội, một đặc sủng để trở thành phát ngôn chính thức Lời Chúa giữa mọi người, cho nên trong nghi thức truyền chức phó tế, đức giám mục sẽ trao cho họ sách Phúc Âm và nói:
 “Con hãy nhận lấy sách Phúc Âm Đức Ki-tô mà con đã trở thành người rao giảng, và con hãy biết là phải tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy.
Không như là những các linh mục được truyền chức để tế lễ Thiên Chúa nhân danh Giáo Hội, phó tế là những người phụ giúp ở bàn tiệc thánh bên cạnh linh mục và phân phát lương thực hằng sống cho cộng đoàn dân Chúa. Và như thế là quá rõ, phó tế là người vừa phục vụ bàn thánh vừa rao giảng Lời Chúa cho mọi người.

-      Học tập學習.
Ở một vài đại chủng viện, sau khi chịu chức phó tế thì được sai phái đi các giáo xứ thực tập mục vụ và cứ mỗi tháng một lần phải trở về đại chủng viện để được tiếp tục trau dồi tu đức và những học tập khác của chức vụ phó tế.
Học tập rất là quan trọng, đừng bao giờ nghĩ rằng mình đã được chịu chức thánh rồi thì khỏi lo gì nữa cả: khỏi lo thi, khỏi lo ôn luyện và khỏi lo sợ bề trên đuổi về.v.v...nhưng tích cực hơn đó là học tập và không ngừng rèn luyên tri thức và thân thể. Được ra các giáo xứ hay ngoài các cơ sở của giáo hội hay dòng tu để thực tập là một điều may mắn và quý hóa, cho nên thầy phó tế phải luôn tìm cơ hội và tạo cơ hội để mình luôn được tiến bộ trên đường tu đức và nhân bản cũng như trí thức.
Có hai việc mà các thầy phó tế phải học tập không ngừng, đó là:
-      Nhân bản.
-      Giáo lý, kinh thánh.

1.   Nhân bản.
Sau năm 1975, các đại chủng viện ở miền nam Việt Nam bị chính quyền đóng cửa, đuổi các cha giáo và các thầy đại chủng sinh về quê quấn, về lại gia đình của mình, tán loạn, buồn bả, thất vọng và các thầy thấy tương lai của mình mờ mịt như đi trong đường hầm đen tối không ánh sáng...
Từ khi các đại chủng viện được cho mở lại, đây là niềm vui cho Giáo Hội Việt Nam, nhưng trong cái vui đó cũng có những buồn và ưu tư của các nhà đào tạo linh mục, nhất là các cha giáo trực tiếp huấn luyện chủng sinh. Vui là từ nay việc đào tạo linh mục không bị ngăn trở nữa, ưu tư là vì các đại chủng sinh vào chủng viện không phải tất cả đều đơn thuần là hiến dâng cuộc sống mình cho Chúa, bởi vì có những đại chủng sinh vì áp lực gia đình mà đi tu, có một số đại chủng sinh vì quen thân chính quyền.v.v...
Hình như môn học nhân bản bị quên lãng trong chủng viện vào thời đó, có lẽ vì phải phấn đấu để các thầy học các môn chính thức như thánh kinh, thần học, triết học (có cả triết học Marx-Lenin) mà không chú ý đến việc dạy nhân bản cho các thầy, do đó mà khi ra ở giáo xứ, có một số linh mục này đối xử rất không đúng với thân phận của một linh mục với các giáo dân của mình, các ngài làm cho giáo dân hụt hẩng vì thái độ vô lễ và trịch thượng với những giáo dân lớn tuổi, cuộc sống thì ăn to nói lớn như người chưa được đào tạo bài bản trong đại chủng viện...
Vài năm trở lại đây, việc huấn luyện nhân bản trong các đại chủng viện đã được chú ý, bởi vì dù cho thông thạo các môn học nhưng việc đối xử giữa người với nhau mà không có nhân bản, thì việc truyền giáo sẽ bị chậm lại và có khi bị dậm chân tại chỗ. Bởi vì khi nhìn thấy một linh mục không kính trọng người già cả, không lễ phép với người đáng tuổi cha ông, hoặc không lịch sự với phụ nữ thì ai có thể nhìn thấy một mục tử nhân hậu nơi các ngài được chứ, khi đã không nhìn thấy cha sở là mục tử tốt lành thì chắc chắn họ cũng sẽ không nhìn thấy Chúa nơi cha sở của mình.
Khi đang còn là phó tế đi thực tập mục vụ, các thầy có nhiều cơ hội tiếp xúc với giáo dân, và qua đó các thầy sẽ thấy được giáo dân rất là tinh mắt và nhạy bén với những cử chỉ và lời nói của cha sở hoặc cha phó, nói cách khác là của những người đi tu. Học tập nhân bản là học làm con người của mọi người, tức là cần phải có kiến thức về nhân bản, bởi vì trước khi là linh mục thì các tu sĩ là những giáo dân sống giữa đời và sống với cộng đoàn, mất đi tính nhân bản trong đời sống của tu sĩ thì là một lỗ hổng trong đời sống tu đức của họ, bởi vì không một mục tử hay tu sĩ nào thánh thiện mà không có tính nhân bản trong cách sống của họ, cũng không có một giáo dân nào thích tiếp chuyện với mục tử hay tu sĩ thiếu tính nhân bản trong cách sống của họ.

2.   Thánh kinh, giáo lý.
Phó tế là những đại chủng sinh đã tốt nghiệp thần và triết học, là người đủ khả năng để giảng dạy và lãnh đạo, nói chung là đã trưởng thành trong cung cách sống và gương mẫu trong tu đức.
Học hỏi thì không bao giờ cho đủ, học nữa, học mãi và học mọi nơi mọi lúc, nghĩa là tranh thủ học học trong cuộc sống, học nơi mọi người, nơi giáo dân, học trong sách, học trong giới tự nhiên.v.v...
Nhưng chuyên môn của các tu sĩ và những người dâng mình làm tôi tớ Chúa chính là Kinh Thánh và giáo lý, bởi vì từ trước đến nay không một tu sĩ linh mục nào mà không hiểu giáo lý hoặc Kinh Thánh, nói như thế không có nghĩa là các thầy phó tế hoặc các linh mục hay các tu sĩ đều đã thông thạo Kinh Thánh, mà thực ra, sự học thì vô hạn, dù đã tốt nghiệp rồi nhưng vẫn phải cứ học liên tục, và học cách nào thì mỗi người nên có phương pháp riêng của mình để nắm bắt được thời đại và có ích cho công việc mục vụ của mình.
Theo kinh nghiệm cá nhân tôi xin đề nghị như sau:

a.   Mở lớp kinh thánh và giáo lý trong giáo xứ.
Hiện nay Giáo Hội khuyến khích giáo dân đọc kinh thánh và sống Lời Chúa, các phó tế nên giúp cha sở mở các lớp giáo lý và kinh thánh, như thế thì rất có lợi cho các thầy. Những gì các thầy phó tế học trong đại chủng viện thì chỉ là căn bản mà thôi, nhưng nếu khi ra giúp xứ, làm cha sở hay làm một công viêc mục vụ nào đó thì chắc chắn rằng ít khi các thầy phó tế hoặc cha sở nghiêm túc đọc kinh thánh và suy tư, ngoại trừ khi chuẩn bị bài giảng.
Cho nên, mở các lớp kinh thánh và giáo lý cho người lớn là phương pháp hay nhất để cho các thầy phó tế hoặc cha sở (cha phó) ôn lại đào sâu về khả năng kính thánh và giáo lý của mình. Thật vậy, ngoài việc dạy dỗ cho giáo dân biết kinh thánh và giáo lý, thì các thầy phó tế hoặc cha sở (cha phó) lại có dịp tự mình tìm hiểu sâu xa hơn về kinh thánh và giáo lý khi soạn giáo án. Đừng bao giờ dạy theo thói quen, nghĩa là bổn cũ soạn lại, nghĩa là đừng dạy máy móc theo kiểu thuộc bài, nhưng cần phải nghiêm cứu từng câu từng chương kinh thánh, biết tự mình dự liêu các câu hỏi mà học viên sẽ hỏi và niết trả lời cho những câu hỏi đó với chứng cứ rõ ràng trong kinh thánh...
Trong giáo xứ dù cho đã có đủ hướng dẫn viên giáo lý, hoặc có các thầy hay các dì phước đứng lớp, thì thầy phó tế và cha sở nên chịu trách nhiệm đứng một lớp, đừng khoán tất cả cho các anh chị giáo lý viên hay các thầy các dì phước. Cần phải đứng một lớp kinh thánh hoặc giáo lý cho người lớn, để với trình độ tri thức của các học viên lớn này mà thầy phó tế hoặc cha sở đứng lớp sẽ tìm hiểu sâu rộng hơn về bài học mà mình soạn thảo.
Khi trả lời một số câu hỏi của các học viên là chúng ta đã có một mớ kiến thức rồi vậy.

b.   Thành lập các nhóm chia sẻ Lời Chúa.
Ngoài việc dạy kinh thánh và giáo lý cho người lớn, thì việc thành lập các nhón chia sẻ Lời Chúa tại giáo xứ là việc rất cần thiết, bởi vì khi tập họp được một vài giáo dân lại để cùng nhau chia sẻ Lời Chúa thì đó là một thành công của các thầy phó tế hoặc của cha sở, bởi vì khách quan mà nói, không có gì khô khan cho bằng việc học kinh thánh và chia sẻ Lời Chúa trong kinh thánh, nếu không có một sự hấp dẫn từ Lời Chúa qua việc nhanh nhẹn nắm bắt những tâm tình của người chia sẻ, thì chắc chắn sẽ rất ít người tham dự các nhóm chia sẻ Lời Chúa.
Cũng như đứng lớp dạy kinh thánh hoặc giáo lý cho giáo dân, các phó tế và linh mục cũng cần phải chuẩn bị cho buồi chia sẻ, và điều làm cho giáo dân tích cực tham gia nhóm chia sẻ Lời Chúa chính là cách chia sẻ thực tế mà mình đã cảm nghiệm được trong Phúc Âm. Một nhóm chia sẻ Lời Chúa do thầy phó tế hoặc cha sở đảm trách thì giáo dân sẽ thấy “an tâm” nhiều, và nhất là họ cảm thấy rất gần gủi với Lời Chúa qua vị cha sở của mình.
Lập nhóm chia sẻ Lời Chúa cũng là một cách để các thầy phó tế hoặc cha sở ôn lại kinh thánh, và những gì mà mình đã học hồi còn ở trong đại chủng viện vậy.

Taiwan, ngày 27.1.2017
Giao thừa năm Đinh Dậu

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.




[1] 1 Cr 12, 4-7.
[2] 1 Cr 12, 27-30.
[3] Ep 2, 19-20.
[4] Ep 3, 5.
[5] Cđ Vat II, sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục, chương 1.
[6] 1 Cr 14, 29-33.
[7] Dt 5, 1.
[8] Cđ Vat II: sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục, chương 3.
[9] Dt 7, 17.
[10] Dt 7, 26-27.
[11] Dt 9, 12.
[12] Dt 9, 14.
[13] Cđ Vat II: Sắc lệnh “Canh tân thích nghi đời sống dòng tu”, số 2.
[14] Cđ Vat II: Sắc lệnh “Canh tân thích nghi đời sống dòng tu”, số 5.
[15] Mt 19, 12.
[16] 1Cr 7, 32.
[17] Cđ Vat II: Sắc lệnh “Canh tân thích nghi đời sống dòng tu”, số 12.
[18] Mt 8, 20.
[19] Cđ Vat II: Sắc lệnh “Canh tân thích nghi đời sống dòng tu”, số 13.
[20] 2Cr 8, 9.
[21] Mt 6, 21.
[22] Luật dòng (bản dịch mới) điều 82 mục 1.
[23] Cđ Vat II: Sắc lệnh “Canh tân thích nghi đời sống dòng tu”, số 14.
[24] Pl 2, 6-8.
[25] Lc 21, 4.
[26] Tiệc ly.
[27] 1 Cor 1, 27.
[28] Ep 5, 10.
[29] Mc 8, 34b.
[30] Pl 2, 6-8.
[31] Rm 5, 19.
[32] Mt 18, 2-4.
[33] Hạnh thánh An-tôn.
[34] Mt 5, 1.
[35] Mt 5, 8.
[36] 1 Pr 5, 8.
[37] “Lý tưởng toàn hiến” của linh mục Gioan Phạm Kim Xuyến.
[38] Ga 5, 19.
[39] Ga 6, 38.
[40] Ga 10, 38b.
[41] Chú thích của người dịch: quân sư của Lưu Bị thời tam quốc.
[42] “Cương lĩnh tinh thần tu đức” của cha Vincent Lebbe. Tác giả linh mục Alexandre Tsao, csjb. Bản dịch Việt ngữ Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
[43] Cđ Vat II: Sắc lệnh canh tân thích nghi đời sống dòng tu, chương 15.
[44] Rm 13, 10.
[45] Ga 3, 30.
[46] Ga 3, 31.
[47] Ga 1, 30.
[48] Ga 1, 32-34.
[49] Mt 3, 17.
[50] Ga 1, 20.
[51] 2 Tx 3, 10.
[52] Mt 25, 41.
[53] Mt 3, 4.
[54] Mt 12, 29.
[55] Mt 12, 29b.
[56] Lc 28, 43.
[57] Kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô Át-xi-xi.
[58] G 1,1.
[59] G 1, 20-21.
[60] G 5, 17-18.
[61] Cv 9, 3-19.
[62] 2 Cr 1, 3.
[63] 2 Cr 1, 4-5.
[64] Cv 9, 3-7.
[65] Mt 26, 39-42.
[66] Tv 39, 8-9.
[67] Tv 39, 8-9.
[68] Mt 26, 42.
[69] Đường Hy Vọng, Ra đi 3.
[70] Cv 6, 1-8. Tiền thân của chức Phó Tế hôm nay.
[71] Cv 6, 3-4.
[72] Cđ Vat II: Hiến chế Giáo Hội, chương 29.
[73] Cđ Vat II: Hiến chế Giáo Hội, chương 29.
[74] Cđ Vat II: Hiến chế Giáo Hội, chương 29.
[75] Cv 15, 32-33.