管美芬主編
阮仁才 神父 翻譯
CÂU CHUYỆN NHỎ
ĐẠO LÝ LỚN
Tổng hợp các câu
chuyện hài hước ngắn, nhưng có tính giáo dục rất lớn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
Lời ngỏ :
Kho tàng truyện cổ Trung Quốc rất
phong phú, có thể qua mỗi câu chuyện kể, mỗi câu truyện cười, những câu truyện đố
vui hay câu đối có chọn lọc, đều có thể phản ảnh cuộc sống nhân sinh của con
người.
Chúa Giê-su Ki-tô khi rao giảng
tin mừng Nước Trời, Ngài cũng dùng những dụ ngôn rất đời thường, để hướng dẫn
người nghe hiểu được lời Ngài rao giảng.
Hy vọng những câu chuyện hài hước đầy
tính triêt lý đông phương này, sẽ giúp chúng ta hiểu được có sự liên kết giữa
văn hóa đông phương với nhân bản Ki-tô giáo của chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
--------------
1.
CÙNG NHAU KHOE
KHOANG
Có người mua một cái giường mới, trên
thành giường khắc những hoa văn rất đẹp, do đó mà rất muốn thông gia nhìn thấy
mới gọi là không mai một cái giường mới. Thế là ông ta giả bị bệnh nằm trên giường,
để khi thông gia đến thăm thì chóa mắt bởi cái giường của mình.
Vừa vặn
lúc ấy thông gia của ông cũng may một cái quần mới, cũng muốn khoe với thông
gia của mình, thì đột nhiên được biết thông gia của mình bị bệnh, thì cho rằng
đây là cơ hội tốt bèn lập tức đi đến nhà thông gia.
Ông ta vừa
vào trong nhà của thông gia thì bèn tìm một nơi sáng nhất mà ngồi, bắt tréo hai
chân, rồi lại vén vạt áo dài, vỗ vỗ phủi phủi trên cái quần mới. Sau khi làm
xong nhiều động tác thì ông ta mới bắt đầu hỏi thăm bệnh tình của thông gia:
-
“Ông sui bị bệnh gì vậy, mấy ngày
không gặp mà thân hình gầy vậy à ?”
Thông
gia nằm trên giường, sau khi nhìn thấy thông gia của mình vào nhà thì cứ khoe
cái quần mới của mình, mà không để ý đến cái giường mới mua của mình, cho nên mới
trả lời:
-
“Ông sui vừa đến thì tôi mới biết,
hóa ra tôi với ông sui có cùng một tâm bệnh”.
Suy tư 1:
Khoe
khoang là một tâm bệnh, nếu nặng hơn thì
sẽ trở thành bệnh kiêu ngạo khó mà chữa được, do đó mà Giáo Hội dạy con cái
mình rằng, tất cả những gì mình có được hôm nay như: sức khỏe, tiền tài, danh vọng,
tri thức, địa vị.v.v...đều do Thiên Chúa ban cho, chứ không phải do mình mà có.
Thánh
Phao-lô tông đồ chỉ khoe những yếu đuối của mình mà thôi, vì ngài rất cần những
ân sủng của Chúa ban cho để làm việc tông đồ.
Có
một vài người Ki-tô hữu giàu có hay khoe khoang sự giàu có của mình khi đi tham
dự thánh lễ, họ mang vòng vàng thật nhiều, mở túi xách xoẹt xoẹt rút ra tờ giấy
bạc trăm ngàn đưa cao bỏ vào giỏ xin tiền; có một vài người dâng mình làm tôi
Chúa thường hay khoe khoang công việc truyền giáo thành công của mình, nào là:
nếu không có tớ thì giáo xứ làm gì được như thế; nào là nếu không có tớ thì
giáo dân làm gì biết sinh hoạt hội đoàn...
Khoe
khoang và chia sẻ kinh nghiệm của mình cho người khác thì khác nhau, nhưng nó cách
xa kiêu ngạo chỉ một khoảng cách rất ngắn mà thôi, nếu không có ớn Chúa và cầu
nguyện, thì chia sẻ kinh nghiệm sẽ trở thành sự khoe khoang và kiêu ngạo vậy.
Ai
hiểu thì hiểu...
2.
LA HÁN VÀNG
Trương
Tam đào được một pho tượng la hán bằng vàng, sau đó dùng ngón tay gõ gõ vào
trán của pho tượng la hán bằng vàng ấy. Có người hỏi ông ta làm gì mà gõ vào
trán pho tượng la hán hoài vậy ? Trương Tam trả lời:
-
“Tôi muốn hỏi ông ta còn mười bảy pho tượng
la hán bằng vàng kia ở đâu ?”[1]
Suy tư 2:
Lòng tham của con người thì vô đáy, được một pho
tượng bằng vàng rồi, thì muốn được thêm mười bảy pho tượng vàng còn lại, nhưng
may mắn thì không có thể đến hai lần
cùng lúc. Con người ta thường lấy sự may mắn làm của mình, cứ ngỡ may mắn là trời
dành cho mình, nên làm những chuyện kỳ quặc để được sự may mắn lần thứ hai.
Con
người ta ai cũng thích sự may mắn đến với mình, nhưng sự may mắn chỉ đến khi
chúng ta nổ lực lao động làm việc, may mắn chỉ đến khi chúng ta biết dùng trí
óc và tài năng để nắm bắt thời cơ mà thôi, bởi vì may mắn thì không dành cho
riêng ai cả, nhưng ai biết nắm lấy cơ hội thì sẽ được.
Hãy
ham thích những chuyện trên trời có ích cho linh hồn, đó là: ham thích đọc kinh
cầu nguyện, ham tham dự thánh lễ, ham thích làm việc thiện, ham thích đọc sách
thánh, ham thích phục vụ người khác.v.v...
3.
TUỔI SỬU
Quan huyện
mừng sinh nhật, một quan lại trong phủ nghe nói quan huyện tuổi tý, bèn đúc một
con chuột bằng vàng tặng quan huyện mừng lễ thọ.
Quan huyện
nhận lễ vật là con chuột bằng vàng ròng, nhưng không khen quan lại là thông
minh tài cán, chỉ nói với viên quan lại:
-
“Ông có biết ngày sinh nhật của
quan bà chứ, cũng sắp đến rồi đó. Nhưng quan bà nhỏ hơn ta một tuổi, quan bà tuổi
sửu”.
Suy tư 3:
Người
ta nói đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, bởi vì đồng tiền đi trước là để dọn
đường cho các âm mưu, mưu đồ, mánh mung, là đồng tiền có thể thay trắng đổi
đen, là đem sự đau khổ đến cho người khác, bởi vì nếu không có những đồng tiền
đi trước, thì chắc chắn sẽ không có những bất công xảy ra.
Quan
ông tuổi tý, quan bà tuổi sửu thì nhân viên thuộc hạ sẽ sạt nghiệp, vì bao
nhiêu vàng sắm sửa cả đời đều đúc hình con trâu để tặng quan bà.
Người
nghèo và người đau khổ trong xã hội còn nhiều, cái nghèo và cái đau khổ của họ
cũng có khi do những người vì nồi cơm của mình mà “nộp thuế” cho cấp trên, để rồi
vơ vét lại của người nghèo trong xã hội để bù lại.
Đem
tiền bạc của mình để giúp đỡ người nghèo bất hạnh, thì họ sẽ đúc trái tim bằng
vàng để tặng lại mình, và trên trời tên của họ nhất định sẽ được ghi bằng vàng
ròng. Hạnh phúc thật.
4.
HÙN HẠP NẤU
RƯỢU
Ông Giáp
hẹn với ông Ất hùn với nhau để nấu rượu, ông Giáp nói với ông Ất:
- “Ông xuất gạo, tôi xuất nước”.
Ông Ất nói:
-
“Gạo đều là do tôi bỏ ra, nhưng
sau này làm sao mà tính sổ sách ?”
Ông Giáp
nói:
-
“Tôi là người tuyệt đối không chiếm
món béo bở của người khác, này nhé, đợi khi rượu nấu xong thì chỉ cần trả nước
cho tôi là được rồi, tất cả những thứ còn lại đều là của anh ?”
Suy tư 4:
Có
những người tuyên bố mình không hề hám lợi, không hề vì lợi riêng mà làm thiệt
thòi cho người khác, nhưng chính họ lại tìm cách ăn chận những người nghèo khó, chính họ lại là những người
rất tính toán hơn thiệt trong khi giúp đỡ người khác làm việc từ thiện.
Hùn
hạp để làm ăn với nhau là để cùng nhau hưởng lợi, tôi có của anh có công, đó là
lẽ công bằng trong hùn hạp làm ăn, chứ không phải gian manh giành cho mình tất
cả.
Thiên
Chúa là Đấng rất công bằng, Ngài ban cho người này có tài năng này, người kia
có tài năng kia là để bổ túc cho nhau và cùng xây dựng một cuộc sống hài hòa;
Ngài ban cho người này có tiền bạc người kia có trí óc là để tương thân tương
trợ lẫn nhau, và từ trong sự tương thân tương trọ ấy, mà người ta dần dần nhận
ra được khuôn mặt yêu thương của Thiên Chúa. Đó chính là cách hợp đồng làm ăn
trong tình thần yêu thương tương trợ lẫn nhau vậy.
Con
người ta nếu không sống tương thân tương trợ thì không thể phát triển được, bởi
vì khi sống cô lập một mình thì sẽ trở thành lạc hậu, cố chấp, thành kiến và rất
dễ dị ứng với hoàn cảnh hiện tại.
5.
MÀI DAO
Lão Tiền
là người thích chiếm những món béo bở của người khác, nếu nhìn thấy tài sản của
người khác mà không chiếm dụng một ít thì trong lòng không vui, do đó, mà những
người trong phố đều không dám mang những thứ gì có chút giá trị đi ngang qua
nhà của ông ta.
Một hôm,
Vương Tiểu Nhị xách một cục đá mài lòng tự nghĩ không sao đâu, dù cho bị ông ta
nhìn thấy thì ông ta cũng không thể gặm được. Thế là không thèm đi trở lại, cứ
thản nhiên đi ngang qua cửa nhà ông ta.
Lão Tiền
vừa nhìn thấy, bèn kêu Vương Tiểu Nhị đợi chút xíu, vội vàng chạy vào nhà lấy
con dao thái rau đến đặt trên cục đá mài, mài lui mài tới, sau đó nói với Vương
Tiểu Nhị:
- “Mày có thể đi được rồi !”
Suy tư 5:
Con người ta không phải lúc nào cũng xấu, dù
cho người đó có tiếng là không tốt, bởi vì khi con người ta chưa mất đi lương
tâm của mình, thì vẫn còn có cơ hội làm lại cuộc đời, có cơ hội làm việc tốt.
Lương
tâm thì khó mà chết được bởi vì nó không phải làm bằng vật chất, nhưng nó có thể
chết khi con người ta cố chấp sống trong kiêu ngạo, không muốn cải quá tự tân để
chấp nhận ơn lành của Chúa.
Hay
nghi ngờ người khác đa phần là những người được coi là đạo đức thánh thiện, tại
sao vậy ? Thưa:
- Vì họ thường đi lễ nên nghi ngờ
người khác tội lỗi không yêu mến Chúa nên không đi lễ.
- Vì họ thường hay bố thí cho người
khác, nên khi thấy người khác không làm việc từ thiện như mình, thì nghi ngờ
người ấy sống ích kỷ.
- Vì họ thường hay đến nhà thờ làm
việc này việc nọ, nên nghi ngờ ngưởi khác không yêu mến nhà thờ nhà xứ.
- Vì họ thường hay giúp đỡ cha sở tiền
bạc vật chất, nên nghi ngờ người khác không yêu mến ơn gọi thiện triệu.v.v...
Đi lễ hằng
ngày, bố thí giúp đỡ cho các đấng bậc, làm việc từ thiện nhiều.v.v...nhưng
trong lòng hay nghi ngờ người khác thì có ích chi, công đức ấy sẽ bị mai một mất
đi, nếu trong lòng vẫn cứ nghi ngờ người khác thế này thế nọ.
Nghi ngờ
là đệ tử ruột của quỷ ghen ghét, và từ nghi ngờ đến chia rẻ chỉ cách nhau một sợi
tóc mà thôi. Mà sợi tóc thì quá nhỏ, ha ha ha...
6.
GIẢ TẠO
QUÁ ĐÁNG
Có một
cô gái mặc một cái váy lụa đi trên phố, vì sợ người khác không nhìn thấy mình
mang váy đẹp, nên nhún nhún vai mà đi, cứ như thế mà đi rất lâu. Sau đó cô ta
nhìn thấy một em bé, bèn hỏi:
- “Có ai nhìn thấy chị không ?”
Em bé nhìn
quanh rồi nói:
- “Ở đây không có người”.
Cô ta
nghe nói không có người, mới không nhún nhún vai nữa mà đi bình thường, sau đó
tự nói một mình:
-
“Đã không có người, thì ta thôi
không nhún nữa vậy”.
Suy tư 6:
Ở
đời có những người sống hai mặt: một mặt thật và một mặt giả. Mặt thật thì ở
nơi vắng người hay trong gia đình thì chửi chị đánh em, bất hiếu với cha mẹ; mặt
giả thì ở nơi công cộng, tập thể, thì cười cười nói nói, uốn lưỡi dẻo quẹo,
lăng xăng chạy tới chạy lui phục vụ mọi người...
Ở
đời có những người luôn trang bị cho mình hai cái mặt nạ: cái mặt nạ dễ thương
và cái mặt nạ khó chịu. Cái mặt nạ dễ thương thì tử thái độ cho đến lời nói rất
đơn sơ không biết gì khi ở nơi đông người, để được cảm tình của mọi người; cái
mặt nạ khó chịu thì chửi chồng đánh vợ bạt tai con cái khi về nhà.
Giả
tạo quá đáng sẽ bị người ta phát hiện và phát hiện nhanh, chẳng hạn khi người
ác giả tạo làm người hiền thì sẽ bị lộ tẩy, bởi vì tâm của họ không có sự nhân
ái bao dung; khi người kiêu ngạo giả tạo làm người khiêm tốn thì sẽ bị người ta
phát hiện, bởi vì trong tâm họ không có sự khiêm tốn thật, nên lời nói và hành
động của họ trở nên gượng ép ngượng ngùng...
Sống
chân thật với những gì mình có là hay nhất, và người ta cũng dễ dàng thông cảm
hơn với những khuyết điểm của mình hơn.
7.
MUA THỊT
Có người
đứng trước cổng nhà nhìn thấy một người gánh thịt đi bán, bèn kêu lại nói:
- “Cắt miếng thịt”.
Người bán
thịt hỏi:
- “Ông muốn mua bao nhiêu cân ?”
Người mua
thịt nói:
-
“Chúng tôi ở đây đợi người nhà, hỏi
bao nhiêu cân để làm gì ? Ông lấy cái đùi thịt cân cho tôi”.
Người bán
thịt cân xong thì nói:
- “Này ông, cái đùi thịt này là chín cân bốn lạng”.
Người mua
thịt nói:
-
“Được , ông lấy chín cân thịt ấy
đi bán, còn thừa lại thì để cho tôi”.
Suy tư 7:
Ở đời có
những người ỷ mình có tiền nên khi đi mua hàng thì hay hạch họe nhân viên bán
hàng, nào là tôi có tiền tôi mua, cô cứ việc bán đừng hỏi nhiều chuyện; nào là
“cô không biết khách hàng là thượng đế sao ?” Có tiền có thể mua được tất cả,
nhưng có một thứ mà không thể dùng tiền bạc vật chất để mua, đó là nhân phẩm,
nhân cách và danh dự của con người.
Nhân
cách của con người được thể hiện trong cuộc sống, nhất là trong cách tiếp xúc,
giao thiệp, buôn bán, mà nhân cách lớn nhất chính là biết tôn trọng người khác,
dù họ là ai, làm bất cứ nghề nghiệp gì.
Người
mua và người bán đều có nhân cách, nhân phẩm và danh dự của mình, tôn trọng lẫn
nhau là làm cho xã hội văn minh, hòa bình và phồn vinh vậy.
8.
HAI ANH EM NÓI DỐI
Người
anh nói: “Hôm qua thật rét, huynh nhóm lò
sưởi, củi vừa mới bén lửa thì một chập sau đông lại thành cột lửa, huynh vừa
đưa tay chạm nó, nó cứng như gì và lạnh ngắt”.
Người
em nói: “Tối hôm qua đệ đang ngủ thì nghe
bên ngoài có tiếng chân bước đi, trong lòng nghĩ phải chăng là kẻ trộm ? Đệ lập
tức ngồi dậy coi, quả nhiên một tên trộm mở cửa nhà em ăn cắp cái giếng nước rồi
bỏ chạy.Đệ lập tức đuổi theo. Nó vác cái giếng chạy trước mặt, đệ cầm cái gậy
chạy đuổi theo sau, khi nó thấy đệ sắp đuổi kịp, thì tên trộm ấy quăng cái giếng
xuống đất đứt thành ba đoạn, nước giếng cũng đổ tràn mặt đất, em phải bỏ mất
nhiều thời gian mới đem được nước chuyển vào trong giếng lại”.
Người
anh nói:
- “Đệ nói vu vơ, làm gì có chuyện ấy chứ ?”
Người em trả
lời:
-
“Huynh nói ngọn lửa vừa nhúm lên
thì đông thành một cột lửa rất cứng, lẽ nào đó là sự thật sao ?”
Suy tư 8:
Anh nói dóc em nói láo thì huề cả làng, sao lại
bắt bí em mình, bởi vì không có gió thì làm sao cành lá lung lay ? Thượng bất
chính hạ tắc loạn, bởi vì làm anh mà ăn nói không thành thật, bịa đặt dối trá,
thì làm sao em út không nói dối gian lận ?
Xã
hội ngày càng phát triển, con người ta ngày càng tìm tòi học hỏi và hiểu biết
càng nhiều hơn qua mạng internet, trong đó có những người Ki-tô hữu. Khi họ
ngày càng hiểu biết về Kinh Thánh, về giáo lý, về phụng vụ.v.v...thì các chủ
chăn cần phải đào sâu hơn về đời sống tu đức cũng như kiến thức trong cuộc sống
hằng ngày của mình, bởi vì không thể nói trăng nói cuội mà không có bằng chứng,
bởi vì không thể sống hời hợt như mục tử chăn thuê, đến tháng lãnh lương của
ông chủ mà không hề quan tâm đến tinh thần tu đức của mình và đời sống thiêng
liêng của đàn chiên mà mình coi sóc.
Giáo dân hay nói dối là vì
cha sở hay nói ba hoa và khoe khoang kiêu ngạo; giáo dân hay nói ba hoa khoe
khoang là vì cha sở không có đời sống nội tâm, cho nên khi giảng dạy thì không
đánh động được lòng giáo dân.
9.
TIÊN NỮ
GIÁNG PHÀM
Đổng
Vĩnh luôn giữ trọn hiếu thảo, nên ngọc hoàng đại đế bèn ra lịnh cho một tiên nữ
giáng phàm để kết hôn với Đổng Vĩnh, các tiên nữ đều đến tiễn biệt.
Mọi người
đều nhao nhao nói với tiên nữ ấy:
-
“Lần này chị xuống trần gian, nếu
mà nghe được ở đâu có người thực hành hiếu thảo, thì tiên vàn nhớ báo tin cho
chúng tôi nhé”.
Suy tư 9:
Điều
răn thứ tư của đạo Đức Chúa Trời là thảo
kính cha mẹ. Tại sao lại phải thảo kính cha mẹ mà không thảo kính Thiên
Chúa ?
Thưa
là vì Thiên Chúa đã trao quyền sinh sãn, nuôi dưỡng và giáo dục con cái cho cha
mẹ, do đó mà con cái phải có bổn phận thảo kính cha mẹ mình, và khi thảo kính
cha mẹ thì chính là thảo kính Thiên Chúa rồi vậy. Bởi vì ai không thảo kính cha
mẹ thì chắc chắn cũng không yêu mến Thiên Chúa, bởi vì khi con cái thảo kính
cha mẹ cũng sẽ làm cảm động Thiên Chúa và các thánh nam nữ trên trời, bởi vì
Chúa Giê-su đã vâng lời và thảo kính cha mẹ mình khi ở trong gia đình Na da
rét, và các thánh nam nữ cũng là những người đã thảo kính cha mẹ mình khi còn ở
thế gian này.
Thánh
Phao-lô tông đồ trong thư gửi cho tính hữu Ê-phê-sô đã dạy rằng: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh
thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ
nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất
này”[2].
Câu
chuyện ngọc hoàng thượng đế đem tiên nữ thưởng cho người con có hiếu ở trần
gian trên đây, tuy là không có, nhưng cũng dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa rất
yêu mến và chúc lành cho những ai có hiếu với cha mẹ của mình, khi các ngài còn
sống cũng như khi đã qua đời.
10. KHÔNG KHÓC
Một cô
gái xuất giá, khi lên kiệu hoa thì cứ khóc mãi, khóc rất thê thảm, khóc đến nỗi
các người khiêng kiệu cũng cảm thương. Do đó, kiệu phu bèn nói:
-
“Cô vẫn cứ khóc như thế, hay là
chúng tôi khiêng cô trở về lại nhà ?”
Cô gái ấy từ
trong kiệu hoa nói vọng ra:
- “Không cần, tôi không khóc là được rồi”.
Suy tư 10:
Con gái đi lấy chồng là phải bỏ cha mẹ để ở với
chồng, và coi cha mẹ anh chị em bà con bên nhà chồng như cha mẹ và anh chị em
bà của của mình, do đó không lạ gì mà các cô gái khi lên xe hoa thì khóc như
đám ma...
Con
gái đi lấy chồng thì bị ràng buộc bởi tam tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử; nghĩa là khi còn ở nhà thì theo cha mẹ, khi lấy chồng thì
theo chồng, chồng chết thì theo con. Tam tòng này dù người con gái không học
hành cũng hiểu được đạo lý của nó, do đó mà khi lên xe hoa về nhà chồng cảm thấy
vừa vui vừa buồn mà khóc rồi cười chăng ?
Hôn
nhân là việc quan trọng cả đời người, do đó lên xe hoa mà khóc hay cười là chuyện
không đáng nói, cái đáng nói là trong đời sống hôn nhân của họ có trọn vẹn nụ
cười không, hay chỉ là ngậm nước mắt mà cười !
11. MUA NỒI
Người
bán nồi thiết, cầm cái nồi thiết đưa lên trời gõ kêu “xèng xèng”, để quảng cáo
cho người ta biết là nồi thiết của ông ta rất chắc chắn. Người đến mua nồi thiết
cũng cầm nồi thiết thử thả rơi xuống đất, lại làm va chạm đến nỗi thủng nồi thiết.
Người
bán nồi thiết vội vàng nhặt lấy nồi thủng và nói:
-
“Giống như cái nồi thiết này, thì
tôi sẽ không bán cho ông”.
Suy tư 11:
Người
ta nói quảng cáo nói láo ăn tiền, cái nồi thiết bị thủng thì dứt khoát không thể
bán cho ai được cả, chỉ có cách là đem về tái chế.
Đời
sống tâm linh của người Ki-tô hữu cũng thế, ma quỷ thường đem những thứ giả dối
ra để cám dỗ con người ta: nào là rượu này ngon lắm không uống thì uổng cả đời;
nào là đời người chỉ có một lần phải hưởng thụ kẻo sau này hối hận; nào là tuổi
thanh xuân không bao giờ trở lại, phải chơi cho xả láng; nào là chức vụ chỉ có
bốn năm ngắn ngủi phải lo bày tỏ quyền hành của mình.v.v...thế là con người ta
đắm mình trong sự giả dối triền miên bởi hưởng thụ vật chất và những thứ hay mất
do ma quỷ đem lại.
Có
những lúc quảng cáo là công cụ và là tay sai đắc lực của ma quỷ, ít người biết
rõ điều đó. Hãy cẩn thận...
12.
QUAN ÂM
NGÀN TAY
Người mặt
rỗ Vương Nhị mới học hớt tóc, khi hớt tóc cho người ta, thoáng cái làm người ta
có vết xước, anh ta vội vàng lấy tay đè mạnh. Nhưng sau đó anh ta khi hớt tóc lại
gây ra nhiều vết xước khác, năm ngón tay không đủ để đè hết các vết thương, thế
là anh ta than trời, nói:
-
“Ái dà, té ra hớt tóc thật là khó,
cần phải sinh thành phật Quan Âm có ngàn tay mới được”.
Suy tư 12:
Mới
học việc thì chắc chắn sẽ vụng về khi thực tập, không ai mới học nghề mà lại
thành thạo như thợ lành nghề được, do đó mà cần phải có sự chăm chỉ và nhẫn nại.
Có
một vài người Ki-tô hữu mới học được vài môn học về Kinh Thánh, thế là về đến
nhà xứ thì cãi tay đôi với cha sở về câu này câu nọ trong Kinh Thánh, to tiếng
khoe khoang với mọi người là mình học lớp này lớp nọ của linh mục này linh mục rất
nổi tiếng.v.v...
Học
hỏi Kinh Thánh là học hỏi Lời Chúa và để sống Lời Chúa cho tốt hơn trong cuộc sống,
chứ không phải để cãi tay đôi với cha sở, chứ không phải để khoe khoang với mọi
người. Họ như người mới học hớt tóc muốn trở thành thợ giỏi trong tức khắc, cho
nên làm chảy máu khách hàng của mình khi hớt tóc. Cũng vậy, họ cũng làm chảy
máu trong tim của cha sở vì tính kiêu ngạo của họ, họ cũng làm các giáo dân
khác cảm thấy đau trong lòng khi họ cãi chày cãi cối với cha sở mà họ mới bập bẹ
học vài thứ căn bản thiếu đầu thiếu đuôi.
Khiêm
tốn và nhẫn nại là nền tảng cho sự thành công của người mới học việc, chứ không
phải trở thành phật Quan Âm ngàn tay mới giỏi. Học Kinh Thánh càng phải có lòng
khiêm tốn và đức tin mới có thể đạt ngộ Lời Chúa trong đó, chứ không phải chỉ ỷ
lại vào trí thông minh mà thôi.
13. QUAN MỚI ĐẾN HỎI THÔNG LỆ
Quan huyện
mới đến nhậm chức, hỏi thư ký của mình:
-
“Làm việc của quan thì sự thể phải
như thế nào ?”
Thư ký trả
lời:
-
“Năm đầu nên thanh liêm, năm thứ
hai có thể thanh liêm một nửa, năm thứ ba thì có thể lẫn lộn”.
Quan huyện
nghe xong, thở dài nói:
-
“Ái dà, làm sao ta có thể chịu đựng
được ba năm chứ !”
Suy tư 13:
Làm quan thì có nhiều loại quan: có loại quan
thanh liêm, có loại quan tham ô, có loại quan tham nhũng, có loại quan dê cụ,
có loại quan ăn chơi trác táng.v.v...
Quan
thanh liêm thì rất ít, bởi vì họ làm quan là vì hạnh phúc của bá tánh và vì sự phồn
vinh của xã hội, cho nên họ để lại nhiều tiếng tốt cho đời. Còn lại các quan
khác như quan tham ô tham nhũng, quan dê cụ, quan ăn chơi.v.v...là những người
làm quan không vì dân, mà vì bản thân và gia đình hoặc phe cánh của mình mà
thôi, cho nên khi họ đang làm quan thì đục khoét công quỷ, lấy tiền công quỷ để
bao gái, để nhậu nhẹt, và quyền lợi thì chỉ dành cho mình, cho gia đình mình,
cho nên khi họ chết đi thì tiếng xấu để lại khó mà rửa sạch.
Càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan.
Các linh mục cũng là những người được gọi là “công hầu
khanh tướng” của Chúa Giê-su Ki-tô, nếu các ngài không sống đúng với chức vụ và
bổn phận của mình, không làm gương tốt để dẫn dắt đoàn chiên theo đường lối của
Chúa, thì trên thiên đàng không có chỗ của ngài, trong luyện ngục cũng không có
chỗ của ngài, và chỗ của ngài chắc chắn là ở tầng thứ mười tám của địa ngục (nếu
địa ngục có 18 tầng).
Ghê sợ
thật, đúng là càng cao danh vọng càng nhiều gian nan.
14.
SAI NHA THỀ
Sai nha, vì nhận hối lộ của người ta nên bị giam trong
tù, sau đó may mắn gặp dịp đại xá nên được phóng thích.
Tên sai nha này khi được phóng thích thì ghi nhớ những
đau khổ ở trong tù nên rất hận và thề rằng: “Sau
này nếu ta mà nhận tiền hối lộ của ai, thì trên tay ta sẽ mọc cái mụn nhọt thối
tha”.
Sau đó không lâu, có một người đi kiện cáo lại đến tìm
anh ta, tay cầm tờ giấy bạc gấp lại, vừa nói vừa trực tiếp nhét vào trong tay
anh ta.
Sai nha đột nhiên nhớ lại lời thề độc của mình: nếu lấy
tiền hối lộ của người ta thì tay sẽ bị ung nhọt thối ta. Thế là vội vàng rút
tay ra. Nhưng, nhìn thấy tờ giấy bạc gấp đôi thì trong lòng thực ra rất muốn lấy,
bèn cười ha ha nói:
-
“Ái dà,
anh thật là người thành khẩn làm cho tôi không nỡ chối từ. Vậy thì anh đem nó
nhét vào trong ống giày của tôi đây”.
Suy tư 14:
Lòng tham thì không thể lường được, muốn trở
thành một người liêm chính -nhất là những người làm quan- thì khó thật, bởi vì
dù mình không muốn nhận hối lộ nhưng người khác đem tiền bỏ trước mặt thì khó
mà không cầm…
Các linh mục địa phận (giáo dân có thói
quen gọi là linh mục triều) chỉ có một lời hứa, đó là: vâng phục giám mục và
người kế vị giám mục của mình, nhưng có một vài linh mục không thèm nghe lời
giám mục của mình khi giám mục muốn đổi các ngài đi giáo xứ khác. Có vị thì viện
cớ hộ khẩu đã đăng ký ở giáo xứ nên không muốn vâng lời giám mục, có vị thì coi
thường giám mục của mình còn trẻ, có vị thì ỷ công lao mình quá nhiều nên không
muốn vâng lời giám mục, lại có vị vì thì xúi giục giáo dân làm đơn xin giám mục
cho mình ở lại.
Tuy đó không phải do lòng tham mà không giữ
lời hứa, nhưng là do kiêu ngạo và sự cám dỗ của ma quỷ và tình cảm chóng qua của
con người mà thôi.
Đã hứa đã thề thì phải giữ, nhất là thề hứa công khai
trước mặt Chúa và cộng đoàn, không giữ thì có tội và chắc chắn là lương tâm
không bình an khi lỗi lời hứa.
Lương
tâm chính là tiếng Chúa hối thúc chúng ta phải giữ lời mình đã hứa với Ngài, dù
lỗi lời hứa không ai biết, nhưng Thiên Chúa biết và lương tâm sẽ không bình an
vậy.
15.
CƯỜI CHỦ
NHÂN KEO KIỆT
Một nhà giàu đãi khách, trên bàn tiệc chỉ có một chút
thịt vụn, trong bàn tiệc có một người khách kể một câu nguyện tiếu lâm, để cười
nhạo chủ nhà, câu chuyện như sau:
-
“Có một
người rất là hiếu thuận, một hôm ông tía bị bệnh, anh ta bèn cắt thịt ở bắp vế mình
nấu cho tía ăn, ông tía ăn thì cảm thấy mùi vị thơm ngon, nhưng không biết là
con trai cắt thịt mình cho ông ta ăn, nên thường thích ăn loại thịt ấy.
Con trai bèn cầm dao nói với phụ thân:
-
“Hôm trước
thịt mà tía ăn đó, là thịt bắp vế chân của con, bây giờ con cắt một chút để tía
ăn nhé ?”
Mới xẻo một miếng, thì luôn miệng nói:
-
“Đau chết
được”. Thế là ông tía nhăn mặt nhíu mày nói:
“Nếu sớm biết mày cắt thịt đau đớn như thế, thì tao cũng không ăn mấy thứ của
mày”.
Suy tư 15:
Đã có lòng mời khách thì mời cho ra trò, đừng
để khách vui vẻ đến dự rồi thất vọng đi về với cái mặt không vui miệng lẫm bẩm
chửi: giàu mà keo.
Bí tích Thánh Thể là tiệc Nước Trời ngay tại
trần gian, mà Chúa Giê-su đã vì yêu thương mà ban cho Giáo Hội của Ngài nếm trước
hạnh phúc thiên quốc. Bữa tiệc này ăn uống rồi thì không còn phải đói khát, đã
nếm rồi thì cứ thích mãi không thôi, vì Máu Thịt ấy chính là Mình và Máu Thánh
của Chúa Giê-su, là lương thực của các thiên thần, là nguồn sinh lực vô biên của
những người đi tìm điều thiện hảo trong ân sủng của Chúa…
Mỗi ngày, người Ki-tô hữu được mời gọi tham
dự vào bàn tiệc thiên quốc ấy, đó chính là do lòng nhân hậu và yêu thương bao
la của Thiên Chúa, chứ không phải dùng tiền bạc để được vào tham dự, nhưng dùng
đức tin và lòng yêu mến Chúa để tham dự, đó chính là hạnh phúc cao cả của những
người môn đệ của Đức Ki-tô.
Thiên Chúa rất đại lượng mà tâm hồn con người
thì nhỏ hẹp, nên có những người Ki-tô hữu coi thường Mình Thánh Chúa và có những
lúc xúc phạm đến Thánh Thể.
Đó chính là lý do khiến chúng ta phải chết đời đời vậy.
16.
GIẤY BIÊN
NHẬN
Có người mượn bạn tiền, người bạn nói với anh ta:
-
“Không cần
viết giấy biên nhận, vẻ một tấm hình anh cười là được rồi”.
Người ấy hỏi rõ lý do tại sao, người bạn nói:
-
“Để sau
này khi tôi đến đòi nợ thì tôi có thể nói cho anh biết, mặt anh phải như thế
này”.
Suy tư 16:
Khi mượn
được tiền thì hớn hở vui mừng, nhưng khi có tiền thì không muốn trả nợ liền,
khi chủ nợ đòi thì cái mặt bí xị không cười vui giống như khi mượn tiền, đó
chính là tâm trạng của những người chỉ biết mình mà không biết đến người khác.
Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa –bởi tội nguyên tổ và tội mình phạm- và
chúng ta không có gì để trả cả để được hưởng phúc Nước Trời. Nhưng chúng ta có
Đấng trả nợ thay cho chúng ta, đó chính là Chúa Giê-su Ki-tô, nhờ sự khổ nạn,
chịu chết và phục sinh của Ngài mà Thiên Chúa đã tha tội và hứa phúc thiên đàng
cho chúng ta. Và phần còn lại là chúng ta có muốn cộng tác với Ngài để hưởng
phúc thiên đàng hay không mà thôi.
Thiên
Chúa muốn chúng ta vui cười hớn hở trong ngày chung kết cuộc đời này, Ngài muốn
ngày đó các thiên thần đến đón rước chúng ta vào vinh quang Nước Trời, chứ Ngài
không muốn chúng ta mặt mày đau khổ, vì phải lìa xa nhan thánh của Ngài vĩnh viễn
trong hỏa ngục...
Vừa
sinh ra đời thì em bé nào cũng khóc oa oa, đó là “quy luật” của con người,
nhưng mĩm cười hân hoan để từ giã cõi đời này là “quy luật” của người Ki-tô hữu.
Giấy
biên nhận của người Ki-tô hữu không phải là để trả nợ, nhưng là để vào Nước Trời,
đó chính là “Hoàn toàn hy sinh, chân thành yêu người và luôn luôn vui vẻ” vậy.
Ai hiểu
thì hiểu.
17.
KHẨU HIỆU
LỚN
Một vị tân thái thú mới đến nhiệm sở, người ta bỏ ra
ba ngày để hoan nghênh ông ta ở hiện trường, người phụ trách nghi lễ xướng lên
khẩu hiệu: “Vì báo quan dân phải chúc mừng,
vận xấu qua đi vận tốt tới”.
Tân thái thú nghe vậy thì trong lòng rất vui, bèn hỏi
ai làm ra câu đó, người dẫn lễ nghi trả lời:
-
“Đó là truyền
thống cũ của huyện mình ạ !”
Suy tư 17:
Vận xấu
qua đi tức là quan xấu đã bị đổi đi nơi khác, vận tốt tới tức là quan mới tới.
Mỗi khi có quan mới đến thì bá tánh đều hô to khẩu hiệu như thế mà quan mới
không hiểu được ý nghĩa của nó, lại còn vui mừng nữa chứ.
Năm cũ
qua đi năm mới đến, người ta chúc nhau trong năm mới được nhiều may mắn, lộc
tài phúc đều có, đó là lời chúc truyền thống và có ý nghĩa, lời chúc đem lại hy
vọng cho mọi người.
Người
Ki-tô hữu có thói quen rất tốt lành mỗi khi năm mới đến, đó là chúc nhau năm mới
tràn đầy ân sủng của Thiên Chúa và tình thương của Đức Mẹ Maria, đó là lời chúc
rất đặc biệt mà chỉ có những người Ki-tô hữu mới có mà thôi. Đó không phải là
khẩu hiệu, mà là lời chúc chân thành và đẹp nhất phát xuất từ trong tâm hồn của
họ.
Lời chúc
thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.
18.
GIẢI THÍCH
TRỰC TIẾP
Có một
thầy giáo dạy trường tư, khi giảng đến ba đoạn “trống trận nổi lên, binh đao
giao tiếp, bỏ giáp kéo vũ khí mà chạy” trong sách “Mạnh tử, thì nói:
- “Tùng tùng tùng, sát sát sát, chạy chạy chạy”.
Suy tư 18:
Bổn phận của thầy giáo là dạy học trò, dạy tức
là phải giải thích, phải chứng minh, phải nói rõ ràng, để học trò nghe và hiểu
bài. Với học trò tiểu học thì không thể giải thích cách cô đọng; với học trò
trung học thì không thể giải thích nửa chừng; với các sinh viên thì không cần
giải thích nhiều, nhưng cần cô đọng.
Các
linh mục là những thầy dạy giáo dân (và cả những người khác) về đàng nhân đức,
nên không những phải giải thích rõ ràng, mà còn phải lấy đời sống đạo đức của
mình để chứng minh, có như thế giáo dân mới hiểu được Lời Chúa và sống Lời Chúa
cách thoải mái hơn.
Giải
thích trực tiếp –tức là không cần nói nhiều- mà hiệu nghiệm nhất chính là đời sống
gương mẫu của mình.
19. TẤU KHÔNG NỔI
Có anh
Giáp đi thi văn chương, nhọc công suy nghĩ tìm câu cú. Đầy tớ của anh ta đứng đợi
ngoài cổng trường thi, nhìn thấy rất nhiều người đã lên nộp bài và đi ra khỏi
trường thi, mà trời cũng gần tối rồi, anh ta cảm thấy rất bực bội, bèn hỏi đầy
tớ của anh Ất:
-
“Không biết làm một bài văn đại
khái cần bao nhiêu chữ ?”
Đầy tớ của
anh Ất nói:
-
“Bất quá khoảng chừng năm sáu trăm
chữ chứ gì ?”
Đầy tớ của
anh Giáp nghe như thế thì càng cảm thấy lạ, bèn lẩm bẩm nói:
-
“Lẽ nào trong bụng không có năm
sáu trăm chữ sao ? Nếu có thì tại sao giờ này vẫn chưa đi ra ?”
Đầy tớ của
anh Ất an ủi anh ta:
-
“Anh không nên sốt ruột, mặc dù
trong bụng của ông chủ anh có năm sáu trăm chữ, chẳng qua là nhất thời tấu
không lên mà thôi”.
Suy tư 19:
Thời
xưa có những thí sinh đi thi nhưng trong bụng không có chữ nào, những thí sinh ấy
thường là những công từ chỉ biết gái và rượu mà thôi.
Ngày
nay, có những học sinh trung học đi thi đại học nhưng trong bụng thì không có
chữ nào, đến nỗi phải đem theo tài liệu vào phòng thi; thời nay có những ông
quan đi thi lớp tại chức mà trong bụng không có chữ nào, đến nỗi phải nhờ người
khác đi thi hộ cho mình…
Có một
vài người Ki-tô hữu khoe mình có cả một bụng kinh sách, nhưng đi nhà thờ thì
không thấy mở miệng đọc kinh; có một vài giáo dân khoe mình có cả một bụng kinh
thánh, nhưng lại sống như những không không hề biết đến kinh thánh là lời của
Thiên Chúa.
Chúa
Giê-su Ki-tô nói hể trong lòng có thế nào thì miệng mới nói ra thế ấy.
Nhưng những
học trò ấy, những quan đi thi tại chức ấy, những người Ki-tô hữu ấy, thì trong
lòng họ có gì đâu mà “tấu cho nổi”. Ha ha ha...
20. SÁCH THẤP
Tú tài nọ
vì để chuẩn bị lên kinh thi cử, nên mượn nhà chùa một gian phòng để ôn thi,
nhưng vẫn cứ chưa khổ công ôn bài thi. Một chiều nọ, đột nhiên kêu tiểu hòa thượng
đem sách đến, tiểu hòa thượng đem đến một quyển “văn tuyển”, tú tài chê là thấp.
Tiểu hòa thượng lại đi lấy “Hán thư”, anh ta cũng chê là thấp, do đó bèn đi lấy
quyển “sử ký”, tú tài vẫn cứ chê là sách thấp.
Lão hòa
thượng đi ra nói:
-
“Ba bộ sách này, bất kỳ bộ nào nếu
mà học thuộc thì có thể cho là một học giả, tại sao anh đều nói là “thấp” chứ
?”
Tú tài trả
lời:
-
“Thực ra tôi chỉ muốn dùng sách để
làm gối kê ngủ mà thôi”.
Suy tư 20:
Tứ thư, ngũ kinh là những quyển sách thánh hiền
thời xưa ở Trung Quốc, các tử sĩ đi thi thì chỉ cần thuộc lòng là có thể đỗ cao
làm trạng nguyên, hoặc là làm tiến sĩ.
Có
những quyển sách dày (cao) và có những quyển sách mỏng (thấp), nhưng dày mỏng
thì không quan trọng, quan trọng là nội dung của nó, bởi vì có những quyển sách
rất dày nhưng nội dung vô bổ, trái lại có những quyển sách mỏng nhưng nội dung
rất có ích cho mọi người. Chỉ có những người làm biếng đọc sách, không thích đọc
sách, thì mới cho là “sách thấp” mà thôi.
Có
những người Ki-tô hữu không thích đọc sách Thánh Kinh, không muốn cầm đến quyển
Thánh Kinh vì cho là nó dày, đọc mỏi mắt, đọc chán quá, nhưng họ lại quên cả ăn
uống, quên cả ngủ nghỉ vì đọc quyển tiểu thuyết dày cộm; có những người Ki-tô hữu
dùng sách Thánh Kinh để làm gối kê ngủ, nhưng không lấy sách Thánh Kinh làm
sách “gối đầu giường” của mình, cho nên trong cuộc sống họ thường không tôn trọng
sách Thánh Kinh và Lời Chúa chứa đựng trong đó...
Không
có sách thấp sách cao, mà chỉ có suy nghĩ cao và thấp mà thôi, người có suy
nghĩ cao thì quyển sách nào đối với họ cũng đều có ích lợi, người có đầu óc suy
nghĩ thấp thì quyển sách nào đối với họ cũng chán ngấy.
Ai
thích đọc sách thì hiểu, và ai không thích đọc sách thì...cũng hiểu điều ấy. Ha
ha ha...
21.
NGHIẾN
RĂNG
Có một mẹ chồng cùng với nàng dâu cả hai đều góa bụa,
mẹ chồng thường hay dạy con dâu: “Làm quả
phụ cần phải nghiến răng cho chặt mà sống qua ngày”.
Không lâu sau đó, mẹ chồng tư thông với người khác,
con dâu bèn dùng câu nói ấy để trách cứ mẹ chồng, mẹ chồng há to miệng cho nàng
dâu nhìn, rồi nói:
-
“Con coi,
nếu mẹ có răng thì mới nghiến được chứ !”
Suy tư 21:
Cũng có một
câu chuyện cười như sau:
“Cha
sở giải thích tình trạng trong hỏa ngục, ngài nói: những người phạm tội ở trong
hỏa ngục phải nghiến răng khóc lóc suốt đời”.
Có một bà già móm mém
nói với cha sở: thưa cha, như vậy thì con không sợ vào trong hỏa ngục ạ, bởi vì
con không có răng để nghiến…!”
Mẹ chồng không có răng để nghiến cho chặt, nên bà tư
thông với người khác phạm tội dâm dục, nhưng “hàm răng” của lễ giáo thì sẽ nghiến
bà suốt đời; bà già móm mém không sợ vào trong hỏa ngục, vì bà không có răng để
nghiến, nhưng những “hàm răng” đau khổ thiếu vắng tình thương của Thiên Chúa sẽ
nghiến bà đời đời trong hỏa ngục.
Tuy là câu truyện cười, nhưng là nụ cười của
con dao cắt xé tâm can của người công chính, và cười ra nước mắt của người biết
suy tư về đời sau…
22.
CÓ CHÚT LO
SỢ XẤU HỔ
Đầu năm Nguyên Hựu, Tô Đông Pha có qua lại ăn tết với
một quan cai ngục, có chút bị hố. Không lâu sau đó, Đông Pha được triệu vào
viên ngoại lang bộ lễ, một lần nọ, đột nhiên gặp lại viên quan cai ngục ấy,
nhìn thấy sắc mặt ông ta rất xấu hổ. Đông Pha bèn cười nhạo ông ta:
-
“Có một
con rắn cắn chết người, quan âm phủ truy tìm kết quả và tuyên án tử hình. Con rắn
khóc và nói:
-
“Con thật
có tội nhưng cũng có công, có thể chuộc tội được”. Âm phủ bèn nói: “mày có công
trạng gì ?”
Con rắn trả lời:
-
“Con có xà
huỳnh có thể trị bệnh, đã cứu không biết là bao nhiêu người”
Thế là âm phủ tha tội
cho nó.
Rất lâu sau đó, lại
có một con bò đến nói với âm phủ. Âm phủ nói:
-
“Cái sừng
của mày giết người đáng tội chết”.
Con bò khóc rống lên,
nói:
-
“Con có
ngưu hoàng, có thể trị bệnh, đã cứu rất nhiều người rồi”.
Thế là con bò được
tha tội chết, không lâu sau đó, ngục sứ dắt đến một người và nói với âm phủ:
-
“Người này
khi còn ở trên dương thế thường giết người, bây giờ nên đền mạng”.
Người ấy bèn nói mình
cũng có “hoàng”, quan âm phủ nghe được thì nổi xung, lớn tiếng chửi:
-
“Xà hoàng,
ngưu hoàng có thể làm thuốc trị bệnh, người trong thiên hạ ai cũng đều biết,
mày là “nhân hoàng” có công lao gì chứ ?”
Người ấy lúng túng cực
độ lẩm bẩm nói: “Con không có những “hoàng” khác, chỉ có một vài “xấu hổ” mà
thôi”.
23.
GẢ CHO NGƯỜI
KHIẾT ĐAN
Mùa đông
năm tân tị đời Thiệu Hưng, Nữ Chân đến xâm phạm bờ cõi, Mễ Trung Tín vâng mệnh
giải quyết vụ án Chuẩn Nam Thiết, lấy được một rương nhỏ vốn là từ núi Yến mà đến,
bên trong có hơn mười bức thư, phần lớn là của các bà vợ bị bắt làm tù binh gởi
cho chồng đang ở trong quân. Giáo thụ Đường Trung Hữu nhìn thấy trong tấm bản đồ
vuông ở Xu Liêu một bức thư nhưng không viết gì cả, nhẵn trụi chỉ có một bài
thơ:
“Thùy dương truyền lời đến San Đan,
Chàng đến Giang Nam rất gian khổ
Ở đó, chàng tìm vợ đất Nam
Ở đây, thiếp lấy chồng Khiết Đan”.
Suy tư 23:
Từ
xưa đến nay, cuộc chiến nào cũng là mất mát, đau thương và đổ vỡ; từ xưa đến
nay cuộc chiến nào cũng đem lại bất hạnh cho con người: vợ chồng lìa nhau, cha
mẹ mất con, bạn bè ở hai đầu giới tuyến, anh em cầm gươm đao sung đạn bắn vào
nhau. Chiến tranh là tàn khốc.
Thời
nay tuy không có chiến tranh nhưng người ta ly dị nhiều hơn cả thời chiến
tranh, bởi vì người ta không sống cho tình yêu mà chỉ muốn hưởng thụ vật chất
xác thịt; người ta không muốn sống trọn vẹn cho tình yêu, nhưng người ta chỉ muốn
tình yêu nửa vời phá hoại hạnh phúc gia đình và vui cười ích kỷ trên đau khổ của
con cái khi ly dị nhau.
Vợ
chồng ly dị nhau thì không giải quyết được gì cả, chỉ đem lại đau khổ cho con
cái và sự dằn vặt lương tâm mà thôi.
24.
NGỦ
Một ông
chủ hay ngủ, không ngờ mình lại mời một người khách say ngủ đến nhà.
Khách đến
thấy chủ nhân chưa xuất hiện thì ngồi trên bệ mà ngủ ngáy khò khò, chủ nhân xuất
hiện nhìn thấy khách ngủ thì không dám kinh động, ngồi đối mặt mà ngủ. Phút chốc
khách tỉnh, thấy chủ nhân ngủ, thì ngủ lại; lát sau chủ nhân tỉnh, thấy khách
còn đang ngủ thì lại ngủ tiếp; khách lại tỉnh, trời đã về chiều rồi, nhưng chủ
nhân vẫn chưa tỉnh.
Thế là
khách bỏ về, rồi chủ nhân thức dậy, không nhìn thấy khách. Khách về nhà, chủ vô
phòng, trời đã tối rồi mỗi người lại đi vào giấc ngủ ngon.
Suy tư 24:
Chúa Giê-su Ki-tô đã nói người mù mà dẫn người
mù thì cả hai ắt sẽ đi xuống hố. Cũng vậy, người hay ngủ mà mời người thích ngủ
đến làm khách nhà mình, thì chắc chắn cả hai sẽ không nói với nhau được lời nào
vì...bận ngủ.
Có
những người thích ngủ trong tội lỗi, nên họ không thích đánh thức ai đang ngủ
trông tội như họ, và họ cũng không thích ai đánh thức họ dậy lúc họ ngủ trong tội
lỗi; có những người thích ngủ trong những đam mê quyền lực của thế gian, nên họ
không sáng suốt để nhìn thấy những bất công xảy ra trong xã hội; có những người
thích ngủ trong danh vọng của thế gian, nên họ luôn bị những danh vọng ấy ôm ấp
ấm áp mà không muốn mở mắt tỉnh dậy, để thấy danh vọng chẳng qua chỉ là nay còn
mai mất...
Người
thích ngủ kết bạn với người hay ngủ thì giống như người mù dắt người mù, cả hai
sẽ thay nhau ngủ không tỉnh mà quên mất thiên đàng hỏa ngục. Ha ha ha...
25. MỘT MÙI ĐỦ RỒI
Nhà nọ mời
thầy giáo đến và chủ nhân thiết tiệc tiếp đãi, trên bàn dọn lên một món thịt ngỗng.
Khi rượu uống được tám phần say, thì thầy giáo nói với chủ nhà:
-
“Về sau những ngày làm phiền ngài
còn dài, việc ăn uống của tôi tất cả đều tiết kiệm, chẳng hạn như thế này thì
thật an tâm”. Nói
đến đây, thuận tay chỉ con ngỗng trong dĩa, rồi nói tiếp: “Mỗi ngày chỉ cần một mùi vị như thế này là đủ rồi, những thứ còn dư
khác thì bất tất phải dọn ra”.
Suy tư 25:
Bổn
phận của thầy giáo trước hết là dạy dỗ kiến thức cho học trò, là dạy học trò
cách sống làm người tốt, do đó mới có câu” thầy giỏi thì ắt có trò hay”, chứ
không phải trước hết là đòi ăn uống mỗi ngày một món thịt ngỗng.
Thầy
giáo biết tận tâm với nghề nghiệp thì nhất định sẽ có những học trò biết chăm
chỉ học hành; nhưng nếu thầy giáo chỉ biết đến tiền công tiền học phí của học
trò mà thôi, thì học trò sẽ không biết tôn sư trọng đạo với thầy, bởi vì không
có lửa làm sao có khói.
Khi
cuộc sống chỉ vì đồng tiền thì tất cả nghề nghiệp đều không còn cao quý nữa, bởi
vì người ta chỉ dùng đồng tiền để đổi chát mua bán với nhau, người có tiền đi
mua thầy giáo, thầy giáo đem kiến thức của mình đi bán, bác sĩ chữa bệnh chỉ vì
đồng tiền nên phân biệt bệnh nhân giàu có và bệnh nhân nhà nghèo, chứ không vì
bệnh tình của người bệnh.v.v...
Khi
người ta biết đem tinh thần Phúc Âm vào trong nghề nghiệp của mình, thì nghề
nghiệp sẽ có giá trị đem hạnh phúc đến cho mọi người mà không phân biệt người
giàu người nghèo, bởi vì mọi người đều dùng tài năng nghề nghiệp của mình để phục
vụ Chúa Giê-su trong mọi người.
26. SINH TRƯỚC CHẾT TRƯỚC
Trong
nhà ông Trương mời một thầy giáo đến dạy cho con học, thầy giáo này tính tình lưu
manh.
Một hôm,
bà chủ nhà đang ngồi gãi ngứa trước hàng hiên, thầy giáo nhìn thấy thì lòng tà
tâm nổi lên bèn đưa ra câu đối để học trò đối:
-
“Gãi gãi ngứa ngứa, ngứa ngứa gãi gãi,
không ngứa không gãi, không gãi không ngứa, càng gãi càng ngứa, càng ngứa càng
gãi”.
Học trò
nghĩ lui nghĩ tới, nghĩ không ra cách đối như thế nào, bèn đi hỏi mẹ mình, bà mẹ
vừa nhìn thấy câu đối, trong lòng nghĩ ông thầy giáo này quá xảo trá lưu manh,
không cho ông ta một bài học thì không được, bèn nói với con một câu đối, học
trò đến trước mặt thầy giáo đối đáp:
-
“Sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh,
không sinh không tử, không tử không sinh, sinh trước tử trước, tử trước sinh
trước.”
Thầy
giáo nghe xong thì rất chi là không vui, nhưng đó là tự mình làm để người ta chửi,
hơn nữa lại không có cách gì khác nên chỉ biết buồn buồn không vui mà thôi.
Suy tư 26:
Thầy giáo là nhà mô phạm cho học sinh, mô phạm
tức là người gương mẫu tốt lành, đạo đức và nghiêm túc, chứ không thể lưu manh
xảo trá được, bởi vì thầy giáo chính là những người “trồng người” cho xã hội
tương lai.
Ở
thời nào người ta cũng kính trọng các thầy cô giáo, nên mới có câu “tôn sư trọng
đạo”, nhưng có những nơi học trò và phụ huynh đều có tôn sư trọng đạo, nhưng
chính các thầy cô giáo lại không xứng đáng để được danh dự ấy, bởi vì họ -ngoài
giờ lên lớp ra- thì sống như những con người không biết chữ nghĩa, nghĩa là sau
khi xuống lớp thì các thầy cô giáo này đi uống rượu, đi hát karaoke, đi cà phê
đèn mờ, mất đi tư cách nhà mô phạm nơi các thầy giáo ấy.
Nếu
thầy giáo không vì lòng tà tâm mà đưa ra câu đối lưu manh, thì chắc chắn sẽ
không có câu đối chửi mắng ông ta “tử trước sinh trước, sinh trước tử trước”.
Mỗi
một người Ki-tô hữu là một nhà mô phạm gương mẫu yêu thương để mọi người bắt
chước, bởi vì chính họ được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, để trở nên những chứng nhân
cho Chúa Giê-su trong cuộc sống của mình.
27.
XƯƠNG CỦA
NƯỚC
-
“Chữ “pha”
à, là “da皮” của “đất土” chứ gì !”
Thế là Tô Đông Pha ứng khẩu nói:
Kinh
công hết lời để đối đáp.
Suy tư 27:
Đất không có da thì nước cũng không có
xương, nếu đất có da thì nước cũng sẽ có xương, đó là cách chơi chữ của những
người có học thức ngày xưa, họ đem thực tài của mình ra để đối đáp trang nhã với
nhau, và giữ tình bạn bè với nhau.
Thời nay, cũng có những người kiến thức
–như người ta nói- là không bằng ngọn lá mít, nhưng đi đâu cũng khoe khoang
mình đi nước ngoài học trường này trường nọ, nhưng thực chất là những câu đối
thoại thường nói bằng Anh ngữ cũng không biết, thì làm sao đậu bằng tiến sĩ này
thạc sĩ nọ được, họ thích nói mạnh để che giấu cái lỗ hổng to lớn kiến thức của
mình.
Người ta nói đó là người tự ti mặc cảm, mà
người tự ti mặc cảm thường có hai thái độ:
-
Một là luôn tỏ ra mình có quyền hành và hiểu biết hơn
người khác, nên trong cách hành xử hành quyền đều hách dịch, kiêu căng và nóng
nảy.
-
Hai là người luôn an phận ai biểu gì làm nấy, hoặc
khôn ngoan hơn thì cứ cười hì hì cho qua chuyện, gọi là ta biết nhưng ta không
thích làm, không kiên quyết, không quả đoán khi quyết định, số đông sao ta vậy…
Nước không có xương nên nước rất mềm rất nhu, không có
kẻ hở nào mà không thấm qua được; đất không có da nên đất trở nên màu mỡ tốt
tươi, biến hóa theo bốn mùa xuân hạ thu đông để trở nên chỗ dựa của con người.
Người khiêm tốn và khôn ngoan thì mềm như nước và cứng
như sắt, mềm để hiểu lòng dạ đối phương và cứng để đứng lên trong khó khăn gian
nan. Ha ha ha, ai hiểu thì hiểu.
28. TRẢ NỬA GIÁ
Người nọ
muốn mua hàng hóa ở Tô Châu, có người mách với ông ta: “Người Tô Châu quen dùng hai loại giá, anh có thể trả giá, đại khái là
trả nửa giá thì có thể mua được hàng rồi”. Người ấy ghi nhớ trong lòng.
Đi đến
tiệm bán tơ lụa, phàm là chủ tiệm nói giá hai lượng bạc thì anh ta trả giá một
lượng, ra giá một lượng rưỡi thì anh ta trả giá bảy đồng năm phân, chủ tiệm thấy
anh ta trả giá như thế thì lấy làm bực bội nói với anh ta:
-
“Như các khách hàng khác, bất tất
phải mua gì cả, bổn tiệm dứt khoát tặng cho ông hai tấm vải là được rồi”.
Người ấy lập
tức xua tay nói:
-
“Không dám, không dám, tôi chỉ lấy
một tấm là được rồi”.
Suy tư 28:
Không
hiểu thì hỏi, đó là việc của người nhanh nhạy, nhưng nghe rồi suy nghĩ là chuyện
của người khôn ngoan, bởi vì có lúc hỏi một đường mà người ta trả lời một nẻo,
hoặc trả lời không thành thực thì có khi mang họa vào thân nếu không suy nghĩ kỷ
càng trước khi hành động.
Thận
trọng là việc làm của người khôn ngoan, thận trọng trong lời nói, thận trọng
trong hành động, thận trọng trong phán quyết, thận trong trong cách cư xử với mọi
người, bởi vì Chúa Giê-su đã dạy chúng ta phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói,
để lời nói của chúng ta không làm tổn thương đến người khác, cũng như không làm
hại mình.
Hàng
hóa nào cũng có giá của nó, hàng càng cao cấp thì giá càng cao, đó là luật mua
bán. Nhưng có một thứ hàng mà không một ai ra giá cho nó được cả, bởi vì chính
Thiên Chúa là chủ của món hàng ấy, đó là đức tin, món hàng cao cấp này không
bán với giá hai lượng hay trăm lượng bạc, nhưng chỉ ban tặng cách nhưng không
cho những ai thành tâm tìm kiếm Nước Trời, tức là tìn kiếm Chúa Giê-su.
Đức
tin không rao giá bao nhiêu vì nó vô giá, nhưng Thiên Chúa sẽ rất vui lòng ban
tặng cho những ai thành tâm tìm kiếm Ngài. Hạnh phúc thật.
29. SỢ VỢ
Có một
người bị vợ đánh cho chịu không thấu bèn chui trốn dưới gầm giường. Vợ vẫn
không chịu ngừng tay, lớn tiếng nói: “Mau
chui ra đây !”
Người
chồng núp dưới gầm giường chậm rãi thư thả nói:
-
“Đại trượng phu nói không chui ra
là không chui ra !”
Suy tư 29:
Đã
là đại trượng phu thì nhất định làm một người chồng tốt, đã là đại trượng phu
thì chắc chắn không để vợ ăn hiếp, đã là đại trượng phu thì nhất định không bị
vợ đánh cho đến nỗi phải chui dưới gầm giường…
Có một
vài người Ki-tô hữu vỗ ngực xưng mình là người Công Giáo, nhưng cuộc sống của họ
không như là một Ki-tô hữu, họ không coi trọng thánh lễ là trung tâm cuộc sống
tâm linh của mình, họ không coi gia đình là nơi hạnh phúc nhất mà mình phải xây
dựng, họ cũng không tha thiết đến tương lai của con cái mình là những món quà tặng
đẹp nhất mà Thiên Chúa ban cho họ. Do đó mà họ trở thành những kẻ yếu hèn khi
trốn tránh bổn phận làm chồng làm cha của mình trong gia đình, để tìm vui thú
ích kỷ trong rượu chè cờ bạc...
Đại trượng phu là người biết coi trọng lễ
nghĩa, bao gồm nghĩa phu thê, cũng có nghĩa là biết làm người chồng tốt trong
gia đình, biết quan tâm đến gia đình của mình, nuôi dạy con cái trở thành người
tốt có ích cho xã hội và cho Giáo Hội.
30. DƯ XƯƠNG
Nhà nọ mời
thầy giáo đến nhà dạy cho con, cơm ba bữa rất đạm bạc.
Một hôm
trời mưa lớn, thằng nhỏ trong nhà đưa cơm trưa tới, chỉ mấy lát thịt mỏng rất
thê thảm, thầy giáo chửi tại sao đem cơm đến trể, thằng nhỏ nói: “Trời mưa đường lại trơn”.
Thầy
giáo nói: “Mày nói đường trơn thì có thể
viết chữ “trơn” để ta coi, thì ta sẽ không đánh mày”.
Thằng nhỏ
bèn nói:
Suy tư 30:
Giận
cá chém thớt là do lòng dạ nhỏ nhen của con người, lòng dạ nhỏ nhen tức là ích
kỷ chỉ biết mình mà không biết người.
Thời
nay có những thầy giáo giận cá chém thớt, tức là khi phụ huynh chưa đóng kịp học
phí thì chì chiết “đì” học sinh (con cái của phụ huynh), khi phụ huynh khất hẹn
đóng học phí, thì thầy giáo cho học sinh nghĩ học.v.v...đó là giận cá chém thớt,
mà cái thớt ấy chính là học sinh và là tương lai của đất nước.
Khi
con người ta đặt bổn phận và trách nhiệm lên hàng đầu trong cuộc sống của mình,
thì xã hội và đất nước như được chấp cánh bay cao trong bầu trời hạnh phúc và ấm
no.
Nhưng hạnh
phúc và ấm no của đất nước và xã hội càng bay cao hơn, khi con người ta đặt yêu
thương vào trung tâm của cuộc sống của mình. Yêu thương chính là quả tim của bổn
phận và trách nhiệm.
Ai hiểu
thì vui vẻ thực hành...
31. CẬN THỊ
Nhà nọ
làm tiệc thiết đãi bạn bè, trong bàn tiệc có hai người, một người bị mù mắt
trái, một người bị mù mắt phải. Một lúc sau có một khách mắt bị cận thị đến đi
thẳng vào trong bàn tiệc, nhìn kỷ rất lâu, nhịn không được bèn hỏi nhỏ người
cùng bàn:
- “Anh bạn mặt to ngồi bàn trên đó là ai vậy ?”
Suy tư 31:
Cận
thị thì thấy gần mà không thấy xa, viễn thị thì thấy xa mà không thấy gần, đó
là cái khổ của người cận thị và viễn thị. Nhưng con người ta khổ nhất là cái
tâm bị cận thị, khi cái tâm bị cận thị thì chỉ thấy mình và gia đình mình mà
thôi, tức là chỉ thấy gần mà không thấy xa, tức là không thấy người khác, nhất
là những người có quyền có thế thì cái tâm lại càng bị cận thị nặng nề hơn:
- Khi cái tâm bị cận thị thì thấy
nhu cầu của mình nhiều hơn của người khác, thế là tìm cách cho mình có nhiều
quyền lợi, mặc cho người khác thiệt thòi.
- Khi cái tâm bị cận thị thì chỉ thấy
con cái mình cần cái này cái nọ, thế là tìm mọi cách để con cái mình có đặc quyền
đặc lợi, bất chấp những người khác có điều kiện hưởng những quyền lợi ấy.
- Khi cái tâm bị cận thị thì tất cả
những tư tưởng suy nghĩ của họ, đều quanh quẩn ở gia đình, ở bản thân mà thôi,
do đó mà nơi công ty cơ quan của họ không tài nào phát triển được, bởi vì cái
tâm tư tưởng của họ bị cận thị quá nặng...
Con mắt
bị cận thị thì mang kiếng cận, con mắt bị viễn thị thì mang kiếng viễn thị,
nhưng cái tâm bị cận thị thì không thể nào mang kiếng cận được, nhưng chỉ có thể
dùng tâm hồn yêu thương để nhìn thấy những bất hạnh của người khác vì cái tâm bị
cận thị của mình mà chịu đau khổ, oan ức...
Vô phúc
cho cộng đoàn tập thể nào mà có vị lãnh đạo bị cận thị tâm hồn. Khó mà tưởng tượng
ra cái khổ cái oan của họ. Ha ha ha...
32. ĐI THẲNG HÀNG NGANG
Có một
tân binh lần đầu tiên đến trong doanh trại, sĩ quan phụ trách tân binh vì cần
tiền nên dùng rất nhiều cách để làm khổ anh ta. Trước hết sĩ quan để anh ta đi
phía trước, khi tân binh đi phía trước thì viên sĩ quan chửi, nói:
-
“Mày đi như thế, thì tao là kẻ hầu
cận của mày sao ?”
Tân binh
nghe nói như thế thì vội vàng đi tụt lùi phía sau, sĩ quan lại chửi:
-
“Coi mày đi như thế, thì tao sẽ thành
kẻ gọi loa dẹp đường cho mày sao ?”
Tân binh
đi trước đi sau gì cũng bị chửi, nên quỳ xuống cầu khẩn:
- “Đại nhân kêu tôi đi như thế nào mới đúng ?”
Sĩ quan
nói:
-
“Nếu mày đưa cho tao ít tiền, tao
sẽ cho mày đi thẳng hàng ngang”.
Suy tư 32:
Không
phải Rửa Tội trước hay Rửa Tội sau là được vào Nước Trời, nhưng cần phải thực
hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình.
Không ai
bắt người Ki-tô hữu đi trước hay đi sau cả, nhưng Giáo Hội dạy con cái mình phải
sống trọn vẹn ngày hôm nay, tức là thực hiện giây phút hiện tại cho đẹp lòng
Chúa. Trong thực tế có những người Ki-tô hữu không đi trước mà cũng không đi
sau trong đời sống thiêng liêng của mình, tức là họ không nhiệt tâm với việc đi
dâng thánh lễ hoặc tham dự các bí tích, hoặc tham gia các công việc của giáo xứ,
họ lừng khừng giữa cái nóng và cái lạnh của tín ngưỡng của mình, họ dửng dưng
giữa sự nhiệt tâm và lạnh lùng của niềm tin của mình, họ nói rằng giữ đạo cũng
thế mà không cũng thế, miễn là đừng làm sự ác là được rồi, thế là họ không muốn
đi trước để vào Nước Trời và cũng chẳng muốn đi sau để xuống hỏa ngục, họ chỉ
muốn đứng chơi vơi giữa ngã ba đường mà thôi.
Chúa
Giê-su nói: “Ta biết các việc ngươi làm:
ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi !
Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng
Ta”[6].
Đi
trước hay đi sau trong đời sống thiêng liêng thì chưa chắc đã nên thánh, nhưng
chỉ có những ai thực hành ý Chúa trong giây phút hiện tại là có thể nên thánh rồi
vậy.
33. MỜI THẦN Ở XA
Một nhà
giàu bủn xỉn, trong nhà có chuyện nên mời đạo sĩ đến thay ông ta cầu thần đến bảo
hộ. Đạo sĩ niệm thần chú: mời thần ở Đông kinh, mời thần ở Tây kinh.
Người
giàu có bủn xỉn hỏi:
- “Tại sao ông thay tôi mời thần ở xa quá vậy ?”
Đạo sĩ trả
lời:
-
“Bởi vì thần ở gần đều biết rõ về
ông, nói ông mời họ, họ cũng sẽ không tin”.
Suy tư 33:
Người
ta nói “gần chùa gọi bụt bằng anh” là bởi vì quá “quen than” rồi đi đến nhờn mặt
không còn kính trọng bụt thần nữa.
Có
một vài giáo dân rất lo ra, có khi bực mình, khi thấy cha sở làm lễ nhanh như
chớp, nghĩa là từ đọc các lời nguyện cho đến cử chỉ thái độ khi cử hành thánh lễ
không đoan trang nghiêm túc, mà giống như làm lễ cho nhanh kẻo có người đợi. Do
đó mà có giáo dân đã phát biểu: ông cha làm lễ nhanh như bị ma đuổi. Tại sao vậy
?
Thưa
là vì cha sở ngày nào cũng làm lễ, ngày nào cũng lập đi lập lại những động tác
cử chỉ ấy, thì quả thật cũng có khi nhàm chán, do đó mà các ngài không mấy
nghiêm trang khi cử hành thánh lễ.
Nhà
thờ khác nhà chùa, bởi vì trong nhà thờ có Chúa Giê-su Thánh Thể ngự trong nhà
tạm; thánh lễ khác với việc thờ cúng, bởi vì thánh lễ là diễn tả lại hy tế trên
Thánh Giá của Chúa Giê-su Ki-tô; lời nguyện trong thánh lễ khác với lời tụng
kinh, bởi vì mỗi một lời nguyện là thay mặt cho toàn thể Giáo Hội dâng lên
Thiên Chúa toàn năng nhờ danh thánh của Chúa Giê-su. Do đó mà không thể nói
nhàm chán được, không thể nói là không nghiêm trang được, không thể nói chỉ là
biểu diễn mà thôi.
Cha
sở không “gần chùa gọi bụt bằng anh” thì giáo dân nhất định sẽ càng yêu mến
Chúa Giê-su Thánh Thể hơn; cha sở yêu mến Chúa Giê-su Thánh Thể khi cử hành
thánh lễ, thì chắc chắn thái độ lời nói của ngài sẽ làm cho giáo dân múc lấy rất
nhiều ơn sủng của Chúa Giê-su trong thánh lễ mà ngài cử hành...
Chúa
Giê-su không ở xa trên trời hay ở đông kinh tây kinh, nhưng ở với chúng ta mọi
ngày cho đến tận thế. Đó chính là lời hứa của Ngài chứ không phải của ai khác.
34. TẢNG ĐÁ
Có một tảng
đá đột nhiên có thể nói chuyện, trong xóm có ông Trương Tam nhìn thấy kỳ tích
như thế, bèn vội vàng chạy đi báo cho quan biết, quan sứ bèn ra lệnh cho anh ta
đem tảng đá ấy đến. Sau khi Trương Tam đem tảng đá đến, quan sứ hỏi hai ba lần
nhưng nó không trả lời.
Quan
sứ nổi giận, nói Trương Tam là kẻ lừa dối cấp trên nên phạt đánh mười trượng,
và ra lệnh ông ta đem tảng đá đi về.
Trên
đường về nhà, gặp người quen hỏi: “Báo
quan kết quả ra sao ?”
Trương
Tam nổi giận chửi:
-
“Vì cái oan gia này mà tôi bị quan
đánh năm trượng”.
Tảng đá đột
nhiên nói:
-
“Mười trượng, tại sao ông nói dối
giấu đi năm trượng”.
Suy tư 34:
Con
người ta ai cũng có sĩ diện cả, sĩ diện chính là coi cái tôi của mình quá lớn,
lớn đến nỗi phải nói dối để che lấp cái sĩ diện của mình.
Càng
làm lớn, càng có chức vụ và danh tiếng thì sĩ diện càng lớn, cho nên những người
này khi nói dối thì sự tác hại càng lớn có hại cho người khác và cho tập thể, cộng
đoàn, bởi vì họ đặt cái tôi của mình trên ích lợi của người khác.
Tảng đá
biết nói là chuyện lạ, nhưng càng lạ hơn là khi nó chỉ nói sự thật với những
người nói dối. Cũng vậy, lương tâm của mỗi người chính là “viên đá góc tường”
luôn nói sự thật, luôn lên tiếng cảnh cáo khi chúng ta nói dối, làm sự ác, sống
vô luân và bất công với anh chị em đồng loại của mình. Lương tâm không phải là
tảng đá lăn lóc bên vệ đường biết nói, nhưng là viên ngọc quý mà Thiên Chúa đặt
để trong tâm hồn của mỗi người, để nó trở thành người lính canh gác sự thật khi
chúng ta nói dối và lừa dối tha nhân.
Càng cao
danh vọng quyền thế thì càng phải trau dồi đức tính sự thật, bằng không thì
lương tâm trong sáng sẽ không còn nữa, và như thế sẽ có một ngày thân xác và
linh hồn của chúng ta sẽ bị ném vào lửa hỏa ngục đời đời không hề tắt...
35. CON MUỖI LỚN
Có một
thương nhân đi buôn bán bên ngoài trở về nhà, khoác lác nói mình đi ra bên
ngoài được nhìn qua rất nhiều gương mặt cuộc đời, nói:
-
“Qua khe hoàng ngưu, muỗi lớn giống
như con vịt; qua sông thiết ngưu, con loăng quăng lớn như con ngỗng”.
Vợ anh ta
nói:
-
“Tôi không tin, làm gì mà có loại
muỗi lớn như thế chứ ?”
Thương nhân
nói:
-
“Tôi nói dối bà làm gì, một đêm nọ
tôi đang ngủ thì nghe thấy một con muỗi bay đến, khi nó đang muốn đậu trên người
tôi, tôi liền chụp ngay cổ nó. Con muỗi ấy vỗ cánh muốn bay đi, nhưng đến chết
tôi cũng không thả nó ra. Kết quả, hai cánh nó quạt tôi suốt đêm thật mát”.
Vợ nói:
-
“Ông đã chụp được cổ nó, sao không
đem về nhà làm thịt ăn ?”
Thương nhân
nói:
-
“Chà, nó không ăn tôi là được rồi,
bà lại còn muốn ăn nó !”
Suy tư 35:
Con
muỗi lớn bằng con vịt và con loăng quăng lớn bằng con ngỗng thì thật là khoác
lác hết chỗ nói, đó là tâm trạng của những người được đi đông đi tây nhiều,
nhưng vẫn không bỏ cái tính cố hữu của mình: kiêu ngạo và khoác lác.
Đức cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận đã dạy: “Dù có ra khỏi nhà, đi phương xa vạn dặm mà
cứ mang theo tất cả tật xấu, cả con người cũ, thì có khác gì ở nhà đâu ?”[7]
Cũng
có một vài người dâng mình làm tôi Chúa được bề trên cho đi học nước ngoài,
nhưng vẫn không học được cái khiêm tốn cái phục vụ của người ta, cho nên khi trở
về thì càng kiêu ngạo, càng cho mình là người ưu tú mà coi thường những anh chị
em đồng đạo khác. Họ đi đông đi tây học được nhiều kiến thức, mắt được nhìn thấy
những điều hay cái tốt, nhưng họ không nhìn thấy được tâm hồn của mình cần học
những gì...
Khoác
lác là một tật xấu vì nó sẽ làm cho người khác mất đi sự tín nhiệm nơi chúng ta,
và nguy hiểm hơn, đó là sự nói dối, là lời phát ngôn của ma quỷ.
36.
QUÀ RA MẮT
CỦA MÔN SINH
Một quan lớn đến địa phương mới để nhậm chức, có một học
trò đem năm mươi đồng tiền đến yết kiến ông ta, trên danh thiếp viết: “Kính một lễ (lễ mừng) năm mươi đồng, môn
sinh đàn em cúi đầu trăm lạy”.
Quan lớn này viết một tấm danh thiếp để trả lời: “Bớt đi năm mươi lạy, bù đủ một trăm đồng tiền,
thế nào hở ?”
Có một người thay mặt cho môn sinh trả lời:
-
“Tình nguyện
lạy một trăm năm mươi lạy, ngay cả năm mươi đồng cũng miễn luôn, ngài thấy thế
nào hở ?”
Suy tư 36 :
Có những người vì muốn lấy lòng cấp trên mới
đến nhậm chức, nên khi quan chưa đến thì đã cho người đem “bao thư dày” và tấm
danh thiếp gởi đến; lại có người thì đến tận nhà cấp trên để yết kiến và làm
quen, với những bao thư lễ vật và những bữa tiệc tại các nhà hàng bốn năm sao…
Có
những quan liêm khiết thì cũng có những quan tham nhũng hối lộ.
Quan
liêm khiết thì khi đến cũng như khi đi với tâm hồn thảnh thơi vui vẻ, mà quan
tham nhũng hối lộ trước khi đến thì tay đã nhúng chàm, và trước khi đi thì đi
không nổi vì gia tài nặng nề tiền hối lộ và tâm hồn thì đầy những tham lam.
Linh mục
không phải là chức quan để cai trị hay để tham nhũng hối lộ, nhưng là một tôi tớ
vô dụng phục vụ Chúa qua đoàn chiên mà Chúa đã trao phó cho mình, cho nên tâm hồn
của các ngài thảnh thơi, vui vẻ và khiêm tốn khi đến giáo xứ mới, cũng như thảnh
thơi vui vẻ khi rời khỏi giáo xứ ấy, bởi vì nơi các ngài không có “năm mươi
quan tiền” làm quen, và cũng không có một “trăm năm mươi lạy” để nịnh bợ.
Quà ra mắt của linh mục mới nhậm chức với Chúa
Giê-su chính là: khiêm tốn, hy sinh, vui vẻ và phục vụ; quà tặng khi ngài rời
khỏi giáo xứ là tấm lòng bình an thảnh thơi với tất cả sự quý mến của mọi người...
37.TƯỢNG THẦN
Ở ngã tư
đường trong thôn có một cái miếu, thần để thờ cúng là một bức tượng gỗ.
Có một
người muốn qua khe nước, bèn đem tượng thần quăng vào trong khe nước làm điểm tựa
để lót chân bước qua, người phía sau bước tới nhìn thấy như thế thì chịu không
được, bèn ôm bức tượng thần đứng dậy đem bỏ vào trên bệ như trước, vị thần này
đối với ông ta mà nói nếu không đốt nhang niệm kinh, thì bệnh đau đầu lập tức
giáng xuống trên người ông ta.
Tiểu quỷ
phán quan bẩm cáo với thần: “Người đạp
trên thần bước qua khe suối thì không bị gì cả, còn người ôm ngài thì phải
giáng tai họa cho nó, tại sao lại có chuyện như thế ?”
Vị
thần trả lời: “Chuyện này thì các ngươi
không biết đâu, có lý do của nó: “người tốt thường bị bắt nạt” đó mà”.
Suy tư 37:
Có
một thực tế như thế này: người hiền lành thường bị kẻ khác ăn hiếp bởi vì họ
không thích đôi co không thích cãi cọ với người khác; người tích cực làm việc
thì thường bị cấp trên chửi, bởi vì cấp trên không dám nạt nộ to tiếng với người
hung dữ, mà chỉ muốn nạt nộ chửi mắng các cộng sự viên hiền lành mà thôi…
Có
một vài cộng đoàn mà cấp trên chỉ biết “đì” và sai khiến những thành viên hiền
lành không tranh cãi, không tranh giành ảnh hưởng, không chia bè chia nhóm. Còn
những thành viên ăn nói như những bọn côn đồ, chửi mắng cấp trên như những kẻ
không học hành, chia bè chia nhóm, thì họ lại không dám đá động đến.
Khi
người ta ăn hiếp bắt nạt những kẻ hiền lành thì Thiên Chúa luôn bênh vực và đứng
về phía họ, bởi vì Ngài là Đấng công bằng, công minh và công chính, cho nên
Ngài mới dạy chúng ta: “Phúc thay ai hiền
lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp…”[8]
Ai thường
ăn hiếp bắt nạt kẻ hiền lành thì hãy coi chừng, Thiên Chúa luôn luôn đứng về
phía họ, sẽ vì họ mà đòi lại sự công bằng.
38.
NÓNG NẢY
Ở bến đò có một người tính tình nóng nảy, vợ ông ta
thường nói:
-
“Coi ông
tính nóng nảy như thế thì thế gian có một không hai, sẽ có ngày tôi đi tái giá”.
Một hôm, người nóng nảy đi vào quán bún hoành thánh,
chưa ngồi yên đã vội vàng lớn tiếng nói: “Tại
sao không nhanh đem bún đến ?”
Nói chưa xong cũng không kịp ngồi xuống thì chủ quán
đem tô bún lớn đến, không đợi bỏ tô bún xuống thì lập tức đổ tô bún hoành thánh
trên bàn, nói: “Mau nuốt nè, để tôi rửa
bát !”
Người ấy trở về nhà, sợ hãi trách vợ mãi không thôi,
nói:
-
“Còn có
người tính nóng hơn tôi nữa đó, trừ phi tôi lập tức chết đi, bằng không thì
không nhanh bằng ông ta”.
-
“Vậy thì
tôi phải đi bước nữa”, người vợ nói xong thì lập tức đi vào trong
thành tái hôn với người chủ quán ấy.
Qua một đêm, trời vừa mới sáng, người chồng mới của
người đàn bà vừa mở mắt bèn nói: “Ly hôn”,
người đàn rất kinh ngạc, nói: “Tôi có gì
là xấu ?”
-
“Kết hôn đến
hôm nay, tại sao bà không sinh ra một đứa con ?”
Suy tư 38:
Nóng nảy thường là đi đôi với kiêu ngạo, bởi
vì khi người khác làm sai ý mình, hoặc mình thấy người khác làm việc không được
như mình, nên không vui không thích, rồi lên tiếng chỉ bảo này nọ, rồi nóng nảy
to tiếng.v.v…
Người
có tính nóng nảy thường ít có người cộng tác, bởi vì không ai thích cộng tác
làm việc với người có tính nóng nảy, và cũng chẳng ai thích người thường hay la
lối thóa mạ.
- Cấp trên mà có tính nóng nảy thì cấp
dưới chỉ đứng xa mà nhìn, và trong lòng thì oán ghét.
- Thường hay nóng nảy với bạn bè thì
sẽ trở thành người cô độc, bởi vì không ai thích kết bạn với người nóng nảy.
- Giáo dân mà có tính nóng nảy thì
khó mở miệng nói lời yêu thương, dù trong lòng họ vẫn có cảm tình.
- Linh mục mà có tính nóng nảy thì
giáo dân chỉ đứng xa xa mà nhìn coi ngài như ông thần Kim Cang giữ nhà thờ, và
trong lòng thì nghĩ thầm: cha cố gì mà nóng nảy, không giống như Chúa Giê-su hiền
lành khiêm nhượng, và trẻ em thì coi ngài như ông kẹ...
Tính
nóng nảy thì ai cũng có, nhưng đừng để tính nóng nảy cản trở mình đem Chúa
Giê-su đến cho mọi người, và cũng đừng vì tính nóng nảy mà trở thành tảng đá cản
đường người khác đến với Chúa, đừng vì tính nóng nảy mà làm xấu khuôn mặt hiền
hậu nhân từ của Chúa Giê-su nơi mình.
39.
MIẾNG THỊT
NHÂN DUYÊN
Có người
rất là bủn xỉn, hơn nữa buồn vui thất thường.
Một hôm
đột nhiên mua bốn lạng thịt đem về kêu vợ
đi nấu canh. Canh vừa nấu xong nhưng những miếng thịt thì lại lặn bên dưới, bên
trên thì nỗi những ráng mỡ, ông chồng bủn xỉn thấy như thế thì lớn tiếng chửi vợ,
nói:
-
“Mày với tao là oan gia kiếp trước,
mau cút cho khỏi mắt tao !”
Ông chồng
bủn xỉn vừa chửi vừa lấy đũa khuấy trong nồi canh thì mấy lát thịt từ dưới nỗi
lên trên, thế là vừa cười vừa nói với vợ:
-
“Ái dà, anh với em trước đây năm
trăm năm đã là kết đôi vợ chồng rồi !”
Suy tư 39:
Thời
nay, thanh niên nam nữ yêu nhau thì rất dễ dàng, chỉ cần lên mạng “chát” là con
thể làm quen với nhau và hẹn nhau đi nhà nghỉ, chỉ cần tham gia một vài sinh hoạt
của nhóm của nhà trường là có thể quen nhau rồi yêu nhau.v.v…nhưng những tình
yêu như thế thì có thể nói là như gió thoảng mây bay, hết tiền hết sắc hết chịu
chơi là tình cũng hết luôn.
Có
những thanh niên nam nữ yêu nhau sáu tháng rồi cưới, nhưng sáu tháng sau thì ra
tòa ly dị với một lý do duy nhất: không hợp nhau.
Có
những đôi vợ chồng cưới nhau đã mấy chục năm, con cái đùm đề, vậy mà cũng làm
đơn ly dị với lý do duy nhất: không hợp nhau.
Có
những đôi vợ chồng già có cháu có chắt rồi, vậy mà cũng làm đơn ly dị với lý do
duy nhất: không hợp nhau.
Hôn
nhân là việc đại sự của đời người, cho nên cần phải có thời gian tìm hiểu nhau
rất lâu, phải hiểu cái ưu điểm và khuyết điểm của đối tượng mà mình muốn tiến đến
hôn nhân: ưu điểm thì dể dàng chấp nhận, mà khuyết điểm thì nên dùng tình yêu
chân thành của mình để thăng hoa và kiên nhẫn chấp nhận để người yêu mình sửa
chữa…
Vì
không thấy miếng thịt mà ông chồng bủn xỉn đã chửi mắng vợ, đó là ích kỷ, khi
thấy miếng thịt thì lại cười vui khen vợ, đó chính là không tôn trọng tình yêu
của vợ mình…
Chửi
vợ mắng vợ là chửi mắng chính mình, bởi vì khi đã nên vợ chồng rồi thì không
còn là hai nữa mà là một, chỉ có người ngu mới chửi mắng vợ hoặc chồng của mình
mà thôi. Ha ha ha...
40. RƯỢU CHUA
Có một
người ngồi uống rượu trong quán rượu, nói rượu có chút mùi vị chua. Chủ riệm rượu
nổi giận kêu người đến trói người ấy lại và treo trên xà nhà.
Một người
qua đường nhìn thấy trong quán rượu có treo một người, bèn hỏi chủ quán rượu đã
xảy ra chuyện gì ? Chủ quán giận dữ nói:
-
“Rượu của tiểu điếm rất ngon,
nhưng người này nói có chút mùi chua, ông coi có nên treo lên hay không chứ ?”
Người qua
đường nói:
- “Đưa tôi một ly nếm thử xem !”
Chủ tiệm
bèn đưa cho người qua đường một ly rượu. Người qua đường hớp một ngụm, liếm
môi, sau đó nói với chủ tiệm rượu:
- “Thả anh ta xuống, treo tôi lên !”
Suy tư 40:
Nói
thật thì mất lòng nhưng nói thật thì vẫn cứ hơn.
Có
rất nhiều người vì sợ nói thật sẽ làm cho tình bạn kém vui nên không muốn nói sự
thật; có rất nhiều người sợ nói sự thật thì mất đi “nồi gạo” nên không muốn nói
sự thật với cấp trên; có rất nhiều người sợ nói sự thật nên cứ nói dối cho qua
chuyện, họ vô tình tích lũy cái xấu ngày càng nhiều cho chính mình; có một vài
cha sở vì sợ giáo dân không xin lễ, không đóng góp cho nhà thờ, nên không dám
nói ra cái sai trong cách sống của họ, hoặc không dám chỉ ra cái mà họ đang làm
là trái với luật Chúa và Giáo Hội...
Có
người nói sự thật thì bị đánh đập bắt bớ tù dày và bị giết, đó là các thánh tử
đạo; có người nói sự thật thì bị đuổi việc, đó là những người can đảm coi sự thật
hơn cả nồi gạo; có người nói sự thật thì bị bề trên đuổi về không tiếp; có người
nói sự thật thì bạn bè xa tránh…
Chúa
Giê-su đã dạy các tông đồ và những người Ki-tô hữu rằng: “Có thì nói có, không thì nói không, thêm điều bịa đặt là do ma quỷ mà
ra”.
Không
ai uống rượu có mùi chua mà nói ngon cả, chỉ có những người nịnh bợ và những
người bị…tâm thần mới nói ngon mà thôi. Ha ha ha…
41. CHẾT THÌ HẾT NỢ
Có một
người keo kiết mà trở thành giàu có, khi ông ta bệnh sắp chết thì van xin vợ,
nói:
-
“Suốt đời tôi chỉ có ham tiền bạc
mà đoạn tuyệt với lục thân[9], nên mới có được gia
tài như hôm nay. Đợi sau khi tôi chết rồi, thì bà có thể lột da của tôi mà bán
cho thợ thuộc da, cắt thịt của tôi mà bán cho người buôn bán da, cạo xương của
tôi mà bán cho tiệm bán sơn”.
Ông ta nhắc
đi nhắc lại hai ba lần như thế và bắt vợ phải nghe lời rồi mới chết.
Đã chết
được nửa ngày, đột nhiên ông ta tỉnh lại, dặn dò với vợ:
-
“Thời buổi hôm nay tình người nhạt
nhẽo, mọi thứ không nên để họ mắc nợ nhé !”
Suy tư 41:
Thời
buổi hôm nay tình người ngày càng nhạt nhẽo, nhạt nhẽo vì người ta coi đồng tiền
hơn sự thật, nhạt nhẽo vì người ta coi chức vụ quyền uy trọng hơn tình người, nhão
nhẽo là vì người ta coi sự hưởng thụ vật chất xác thịt là mục đích của cuộc sống,
cho nên tình người đã nhạt lại càng nhạt hơn cả nước ốc.
Người
Ki-tô hữu không ích kỷ chỉ sống cho mình, nhưng là sống cho Chúa Giê-su và sống
cho sống với tha nhân, cho nên họ biết mình phải làm gì khi tình người đã nhạt,
họ
thực hành bài ca đức
ái của thánh Phan-xi-cô khó nghèo: đem yêu thương vào nơi oán thù, đem tha thứ
vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Đó chính là tinh thần Phúc Âm
của Chúa Giê-su, là sự quảng đại đầy ắp bởi tình yêu của Chúa Giê-su đang ở
trong tâm hồn của họ.
42. CHA CON KHÔNG NHƯỜNG NGƯỜI
Có một
người tính tình rất là ngoan cố, bất luận là chuyện gì đều không muốn nhường
người khác.
Một hôm,
trong nhà có khách đến thăm, ông ta sai đứa con vào trong thành mua thịt, con
trai mua thịt xong thì trở về nhà, khi ra khỏi cửa thành thì thấy phía trước có
một người đi đến, cả hai người đều không ai muốn nhường ai, bèn mặt đối mặt đứng
tại chỗ.
Ở nhà đợi
thịt để đãi khách, nhưng đời hoài đợi mãi không thấy đứa con đem thịt về, ông bố
mới ôm một bụng tức giận đi vào thành tìm con, ông ta vừa đi đến cổng thành thì
thấy: con trai và một người khác đang đối mặt đứng đó, ông ta bèn hiểu chuyện,
thế là đi đến phía trước nói với con trai:
-
“Mày đem thịt về nhà trước để làm
cơm đãi khách, bố thay mày cùng với hắn đứng đây coi ai nhường ai !”
Suy tư 42:
“Cha
nào con nấy” quả không sai, cũng như Chúa Giê-su đã nói: xem quả thì biết cây.
Cuộc
sống con người phong phú nhất là biết nhường nhịn nhau, khi nhường nhịn nhau một
bước thì tâm hồn vui vẻ một ngày, mỗi ngày đều biết nhường nhịn nhau thì ngộ ra
được tình người thật dễ thương đáng trân quý.
Trên
những con đường trong thành phố, thỉnh thoảng người lái xe có thấy một tấm bảng
bên đường: nhường một bước để an toàn; khi đi mua hàng không những người ta vui
vẻ đứng sắp hàng, mà còn biết nhường cho những người già, thai phụ và trẻ em đứng
trước…
Làm
cha mẹ phải dạy con biết kính trên nhường dưới, biết tôn trọng người tàn tật và
trẻ em, bởi vì khi dạy như thế thì cha mẹ đã gieo vào tâm hồn con cái mình đức
ái Ki-tô giáo.
Nhường
nhịn nhau là bày tỏ một tâm hồn bác ái biết tôn trọng người khác vậy.
43. CHỈ CÓ MỘT CÁI MIỆNG
Trong
thành tuyển chọn tướng quân, có rất nhiều người đến coi.
Một người
Sơn Đông nói: “Mấy người này coi bộ không
được vạm vỡ, ở quê tôi có một người được coi là vạm vỡ: anh ta đứng lên thì đầu
chạm ngay xà nhà”.
Một người
Thiểm Tây tiếp lời: “Ở quê tôi có một người
rất là vạm vỡ: anh ta ngồi trên đất thì môi trên chạm xà nhà, môi dưới thì kéo
dài tới đất”.
Có người
đứng bên cạnh nói xen vào: “Vậy thì thân
thể của người ấy ở đâu ?”
Người
Thiểm Tây trả lời: “Người ấy chỉ có một
cái miệng”.
Suy tư 43:
Con
người ta hoặc tất cả các động vật đều chỉ có một cái miệng, nhưng không thể có
cái miệng mà môi trên chạm xà nhà và môi dưới thì kéo dài tới đất, những cái miệng
như thế thì chỉ có trong chuyện tiếu lâm mà thôi.
Nhưng
suy cho cùng, cũng có những người có cái miệng mà môi trên chạm xà nhà và môi
dưới thì kéo dài tới đất, những người này thì thấy rất rõ, môi trên của họ chạm
xà nhà là:
- Họ thường kiêu ngạo xúc phạm đến
Thiên Chúa, tức là trong cuộc sống miệng lưỡi họ thường nói những lời phỉ báng
và nhục mạ Thiên Chúa.
- Họ thường thề gian nói dối và có
khi cả gan lấy tên Thiên Chúa mà thề để che giấu những việc xấu xa mà họ đã
làm.
Môi dưới của họ thì kéo dài tới đất
là:
- Họ thường chửi mắng anh chị em
mình là đồ ngu.
- Họ thường nói lời khinh rẻ tha
nhân.
-
Họ thường vu vạ cáo gian cho người khác.
-
Họ thường làm chứng dối chứng gian.
-
Họ thường lừa dối cấp trên hoặc tha nhân để đạt được mục
đích của mình.v.v…
Thiên Chúa tạo dựng mọi loài động vật chỉ có một cái
miệng để ăn uống, nhưng cái miệng của con người thì ngoài việc dùng để ăn uống,
nói, hát ca.v.v… thì còn có một chức năng rất quan trọng khác, đó chính là dùng
miệng lưỡi của mình để ca ngợi, tán tụng và cám tạ Thiên Chúa.
Điều này thì người Ki-tô hữu đều biết, nhưng trong cuộc
sống họ có dành thời gian để ca ngợi tán dương và cám tạ Thiên Chúa không mà
thôi !
44. KHÔNG THỂ HOÀN TOÀN NHỜ CON MẮT
Có một
người rất thích người khác nịnh nọt mình, có một người coi tướng biết tính khí
của người ấy, bèn đến nhà ông ta để coi tướng, khen ông ta là người cao quý, lại
còn nói:
-
“Nội con mắt của các hạ, suốt đời
dùng cũng không hết”.
Người ấy
nghe xong thì rất vui vẻ, giữ người coi tướng lại mấy ngày đem cơm ngon rượu tốt
ra đãi, sau đó lại còn tặng quà rất hậu.
Khi người
coi tướng sắp đi thì nắm chặt tay ông ta, nói:
- “Còn một câu nữa các hạ nên nhớ lấy”.
Người ấy hỏi
câu gì ? Người coi tướng đáp:
-
“Các hạ cũng cần phải tìm một việc
mà làm, chứ không nên hoàn toàn nhờ vào con mắt”.
Suy tư 44;
Có
người tin tưởng vào con chó của mình nên thường khoe khoang: thầy tướng nói con
chó này có tướng tốt làm cho chủ nó giàu có, thế là đi đâu cũng khoe khoang con
chó và cưng nó hơn cả con mình.
Có
người giận ghét cái nốt ruồi trên mặt vì nghe thầy bói nói: cái nốt ruồi này
làm cho mình phải khóc suốt đời, thế là hết đi mỹ viện này đến mỹ viện khác để
phá cái nốt ruồi ấy, vậy mà càng phá bỏ thì nó càng lớn hơn, tiền mất tật mang.
Có
người tin tưởng vào thầy bói, đi mua một củ hành tây về bỏ dưới giường để chồng
khỏi “mèo mỡ”, thế nhưng không những chồng vẫn mèo mỡ mà còn kiếm thêm vợ bé,
gia đình tan hoang.
Đừng
tin tưởng vào con người bởi vì con người thường hay sai lầm và có khi lừa dối
nhau; không nên tin tưởng vào con mắt của mình bởi vì con mắt sẽ có ngày thị lực
kém; không nên tin tưởng vào thầy bói vì thầy bói nói láo ăn tiền, cho nên dân
gian có câu: cục đất mà biết nói năng, thì miệng thầy bói hàm răng chẳng còn.
Ha ha ha…
Chỉ
có Thiên Chúa là Đấng đáng để cho chúng ta tin tưởng, bởi vì Ngài không hề sai
lầm và cũng chẳng hề lừa dối ai, tin vào Ngài là như người thông minh đem nhà
mình xây trên đá tảng, mưa to gió lớn nó cũng chẳng hề hấn gì.
45. DỜI CHUÔNG
Tề vương
ra lệnh dời đô, trong thành có một cái chuông rất quý cũng chuẩn bị dời đi;
nhưng cái chuông ấy nặng đến năm ngàn cân, phải cần đến năm trăm người mới có
thể khiêng nổi.
Nhưng lại
tính đến vấn đề đường đi: đường đi có nơi rộng nơi hẹp, khiêng nó đi thật là
khó khăn, thế là Tề vương bèn họp các quần thần lại thương lượng bàn thảo.
Có một đại
thần nói ông ta muốn đề xuất một phương pháp, Tề vương bèn hỏi ông ta phương
pháp gì ? Đại thần ấy nói:
-
“Đem cái chuông lớn ấy đập bể làm
năm trăm mảnh, năm trăm người mỗi người mỗi mảnh thì có thể dời đi”.
Suy tư 45:
Khi bàn
chuyện quốc sự thì có hai loại người hiến kế: một là loại người dâng kế cầu
hòa, hai là loại người dâng kế chiến đấu đến cùng, kế nào cũng có thể bỏ lên
bàn hội nghị để thương lượng bào thảo, bởi vì kế nào cũng có cái trí của nó.
46. THỊT MẶN
Có một
người rất là hà tiện, không nỡ để người trong gia đình ăn rau hoài, nên ngâm một
miếng thịt muối và treo trên xà nhà, khi ăn cơm thì để mọi người nhìn miếng thịt
mặn ấy rồi và một miếng cơm.
Đứa con
trai của ông ta bưng chén cơm, cứ nhìn miếng thịt mặn nhiều lần, ông ta bèn chửi
nó:
-
“Nhìn mãi nhìn hoài, lẽ nào mày
không sợ mặn sao ?”
Suy tư 46:
Trong bảy mối tội đầu, mà mối thứ hai là tội hà
tiện, mối này chỉ đứng sau mối kiêu ngạo mà thôi, cho nên nó cũng là nguyên
nhân lớn, làm cho con người ta trở nên dửng dưng trước những thiếu thốn và bất
hạnh của tha nhân.
Mối
kiêu ngạo là mối lớn nhất xúc phạm trực tiếp đến quyền năng và lòng nhân từ của
Thiên Chúa, bởi vì nó –tội kiêu ngạo- làm cho con người ta nâng mình lên hơn cả
Thiên Chúa, và như thế sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt như đã trừng phạt ma quỷ
trong hỏa ngục.
Mối
hà tiện là mối lớn nhất xúc phạm trực tiếp đến tha nhân và đến bản thân của
mình, bởi vì Thiên Chúa không hề hà tiện với con người, nhưng con người lại hà
tiện với anh chị em của mình.
Khi mình
có thể chăm sóc thân xác mình cho xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa thì lại không
làm, nhưng hà tiện bủn xỉn để cho thân xác gầy còm ốm yếu bệnh hoạn; khi mình
có thể giúp đỡ tha nhân thì lại không thực hành, nhưng lại hà tiện đem những gì
Thiên Chúa ban cho mình cất trong kho khóa kín, mà không thay mặt Chúa giúp đỡ
cho người anh em chị em bất hạnh đang cần mình giúp đỡ…
Hà tiện
thì khác với tiết kiệm.
Hà tiện
thì bo bo giữ của cải mà không dám sử dụng cho mình hay giúp cho tha nhân, còn
tiết kiệm thì cái gì đáng dùng thì mua, không đáng dùng thì không cần mua, và
có thể giúp đỡ người khác khi họ cần.
Hà tiện
là mối tội, còn tiết kiệm là mối phúc. Ai hiểu thì hiểu.
47. ĐÒN KHIÊNG VÀ KIỆU HOA
Thời xưa
lưu truyền lại một phong tục cũ: khi cô gái đi lấy chồng thì phải khóc một trận,
và trước khi lên kiệu thì phải khóc cho thật cảm động.
Có một
cô gái đi lấy chồng, trước khi lên kiệu thì khóc thảm thiết, kiệu phu nghe khóc
thì lòng phiền muộn, nói: ”Tìm không ra
cây đòn khiêng để khiêng kiệu”.
Cô gái ấy
vừa khóc vừa nói:
-
“Ái dà, má tôi ạ, cái đòn khiêng ấy
không phải ở cửa sau sao ?”
Suy tư 47:
Có
những tiếng khóc làm cảm động lòng người, đó là tiếng khóc của người hối hận.
Có
những tiếng khóc xé tâm can người khác, đó là tiếng khóc của em bé mất mẹ mất
cha.
Có
những tiếng khóc hại người, đó là tiếng khóc của người có lòng dạ thâm hiểm, họ
khóc mà cặp mắt láo liên.
Có
những tiếng khóc giả vờ, đó là những tiếng khóc của người khóc mướn khóc thuê.
Con
gái đi lấy chồng mà khóc là chuyện thường tình, nhưng có những có gái đi lấy chồng
không cười mà cũng không khóc, đó là các cô gái thời nay đi lấy chồng nước
ngoài với tâm trạng vừa lo vừa mừng: lo là vì không biết ông chồng của mình
tính khí thế nào, gia đình chồng ra sao ? Mừng vì có tiền để lo cho gia đình tạm
thoát cảnh nghèo đói...
Không
phải cô gái nào đi lấy chồng cũng khóc, nhưng khóc hay không là do tâm trạng của
mỗi người mà thôi.
48. ĐỒNG NIÊN
Có một
dân kẻ chợ vì con trai có chức phận nên được đi dự tiệc ở huyện đường, lần đầu
tiên khi đến yết kiến quan huyện nên lúng túng không yên, kiên quyết chối từ
không ngồi bên trên. Quan huyện rất hài lòng thân mật nói với ông ta:
-
“Tôi với con ông là đồng niên[10] nên theo lẽ tôi phải
đứng hầu mới đúng”.
Ý là muốn ông ta đừng khiêm tốn nữa, không ngờ ông kẻ chợ này lập tức giương cặp
mắt nói:
Suy tư 48:
Vì
là dân kẻ chợ nên cách suy nghĩ cũng bộc trực như dân kẻ chợ, nghĩ rằng con
mình tuổi chó thì bạn đồng khoa với con mình cũng là thuộc chó.
Ở
đời cũng có những hiểu lầm đáng tiếc, chẳng hạn như coi ai cũng xuề xòa như
mình, rồi đối xử xuề xòa với họ, thế là bị mang tiếng là người không biết phép
lịch sự; hoặc coi ai cũng nghiêm khắc như mình rồi đối xử với mọi người cách
nghiêm khắc, thế là bị mang tiếng là ông cụ non, bạn bè ngày càng ít dần vì
tính cách nghiêm khắc quá đáng của mình...
Dân
kẻ chợ có cái tính bộc trực của dân kẻ chợ, người Ki-tô hữu cũng có cái đặc sắc
của người Ki-tô hữu, cái đặc sắc đó là họ đối xử với mọi người như lời dạy của
thánh Phao-lô tông đồ: vui với người vui, khóc với người khóc. Đó cũng chính là
tinh thần truyền giáo của ngài, mà mỗi người Ki-tô hữu trong mọi thời đại phải
biết, để ứng dụng trong cuộc sống làm chứng nhân cho Chúa Giê-su.
Tuổi
chó tuổi mèo hay tuổi con gì chăng nữa cũng không sao, chỉ cần ý thức được mình
là người Ki-tô hữu, thì chắc chắn sẽ làm cho mọi người nhận ra Chúa Giê-su đang
ở trong mình.
49.
TỐT LÀNH
Có một
người ngày đầu năm đi chúc tết, trong lòng nghĩ ngày thứ nhất thì nhất định phải
lấy cái hên mới phải, thế là viết trên bàn một chữ “cát吉”.
Không ngờ,
đi liên tiếp mấy nhà mà ngay cả một ly nước cũng không có. Sau khi trở về nhà,
anh ta đứng nhìn chữ “cát吉” một hồi
lâu, rồi lẩm bẩm một mình:
-
“Ái dà, mình viết chữ “cát 吉” [12] sai thành hai chữ “
khẩu口 và chữ cán干 ” thì tất nhiên không có ăn là phải rồi. Nếu biết sớm như thế này thì
không đi chúc tết cho rồi, nhưng không sao, còn có mười một nhà để cho ta thấm
ướt miệng”.
Suy tư 49:
Đầu
năm mới mọi người quen biết đều đi chúc tết nhau, đương nhiên là chúc nhau những
lời may mắn, và tránh những lời nói bất lợi.
Ngày
nay không những các nhà thờ ở Việt Nam có truyền thống tốt đẹp là hái lộc Lời
Chúa đầu năm mới, mà ngay cả nước ngoài (như ở Đài Loan) các cha sở người Việt
đều đem truyền thống đẹp và ý nghĩa này đến cho giáo dân bản xứ, đầu năm họ lên
hái lộc thánh cách vui vẻ và ghi nhớ câu Lời Chúa của mình trong năm, họ vui mừng
và thành kính với lời chúc đầu năm của Thiên Chúa dành cho họ.
Ngày
nay việc lì xì đầu năm mới không còn là “vài trăm đồng bạc mới” để tượng trưng
nữa, mà là thực tế, ngay cả trẻ em khi nhận bao lì xì thì cũng chê: nhà giàu mà
lì xì ít quá.
Đầu
năm mới ai cũng thích chúc nhau những câu chúc tốt đẹp tài lộc dồi dào, ân sủng
Chúa tràn đầy.
Lộc
mới đầu năm hoặc sự tốt lành là bởi Chúa ban cho, chứ không phải tại viết sai
chữ “tốt lành”.
Ai hiểu thì hiểu.
50. CÓ TRỘM
Có một
tên trộm, ban đêm lủi vào trong nhà người ta, sờ phía dưới đầu giường đụng một
cái hũ gạo, tên trộm bèn cởi cái tạp dề trên người ra trải trên đất, sau đó đi
lấy gạo trong hũ ra.
Người nằm
trên giường vẫn chưa ngủ, hành vi của tên trộm vào nhà ông ta đều biết. Khi tên
trộm lấy tạp dề trãi trên đất để đi lấy gạo, ông ta bèn đưa tay ra kéo cái tạp
dề, sau đó nằm trên giường mà la: “Có trộm,
có trộm !”
Tên trộm
vừa nghe tiếng la thì quay mình muốn chạy ra ngoài, nhưng vừa đưa tay sờ cái tạp
dề thì không thấy nữa, thế là hắn ta đứng một bên cũng la lớn:
“Có thể có trộm thật, vừa mới trãi cái tạp dề
trên đất, quay lại thì không thấy nữa”.
Suy tư 50:
Tên
trộm trên đây đúng là “vừa ăn cướp vừa la làng”, tức là đã đi ăn cướp của người
khác lại còn lớn tiếng la lên như mình mất của không bằng.
Trong cuộc
sống thường ngày, cũng có nhiều người vừa ăn cướp vừa la làng, tức là họ đã làm
sai nhưng vẫn cứ biện hộ cho mình và đổ tội cho người khác; họ làm không tròn bổn
phận của mình, nhưng vẫn cứ chối bai bãi là vì lý do này lý do nọ, rồi trách
móc người khác.
Trong cuộc
sống của người Ki-tô hữu ma quỷ chính là tên trộm vừa ăn cướp vừa la làng, nó
chính là nguyên nhân của mọi sự dữ, nhưng lúc nào cũng đổ lỗi cho Thiên Chúa
khi cám dỗ con người là: tại sao Chúa dựng nên tôi mà không chăm sóc tôi, để
tôi sống khốn khổ như thế này; nào là nói Chúa không tồn tại đâu, bởi vì Thiên
Chúa đâu có ác đức để cho sóng thần, ôn dịch.v.v...hại con người.
Có những lúc chúng ta –người Ki-tô hữu- cũng “vừa ăn cướp vừa la làng” khi chúng ta chỉ sống vì sĩ diện bên ngoài, tức
là vừa phạm tội vừa đi rước Thánh Thể, vừa đọc Lời Chúa vừa nghe lời ma quỷ, vừa
ăn chay vừa chửi mắng tha nhân...
51. CHO ANH COI
Có một
nhà giàu không biết chữ, khi đi đòi nợ thì cầm ngược tờ giấy vay nợ. Con nợ cười
nói ông ta đã cầm ngược tờ giấy.
Ông nhà giàu nổi giận nói:
-
“Tôi cầm là đưa cho ông coi, chứ bản
thân tôi thì coi nó làm gì hử ?”
Suy tư 51:
“Miệng
nhà quan có gang có thép”, nhưng bụng nhà giàu thì chỉ biết có tiền. Có tiền có
bạc mà không biết chữ thì buồn và tội nghiệp cho họ biết bao, như thế thì cũng
đủ biết họ là những người rất nghèo về đời sống tinh thần.
Cầm
ngược tờ giấy nợ thì không có gì là đáng cười cả, nhưng cái đáng cười là chúng
ta làm những điều trái ngược với lương tâm của mình, bởi vì khi làm những điều
trái ngược với lương tâm là chúng ta đắc tội với Thiên Chúa và mắc nợ với tha
nhân, do đó không những đáng cười chê mà còn đáng phạt đời đời trong hỏa ngục nữa.
Khi
chúng ta làm ngược với lương tâm, làm trái với Lời Chúa dạy, thì chỉ có ma quỷ
là kẻ vui nhất cười ha ha mà thôi, và đến ngày phán xét thì bàn dân thiên hạ đều
nhìn rõ ràng những tội lỗi mà chúng ta làm ngược với lương tâm và Lời Chúa dạy
khi còn sống ở đời.
52. CÂY NGÃ CHI BẰNG BAY
Có một
gia đình trong nhà có một người khách ở trọ, ở lâu mà không đi. Chủ nhà chán
ngán lộ ra mặt, thế là dẫn người khách ra ngoài cổng, chỉ những con chim trên
cây cho ông ta thấy rồi nói:
-
“Ông ở thêm vài ngày nữa đi, đợi
tôi lấy rìu đốn cây này ngã xuống, đem mấy con chim ấy nướng lên rồi đãi ông”.
Người
khách nghe xong, đang còn bán tín bán nghi, nói:
-
“E rằng không được, đợi khi cây bị
đốn ngã xuống, thì những con chim kia đã sớm bay mất rồi”.
Chủ nhà cười
cười nói:
-
“Ông đừng lo, tôi đã nhìn rõ rồi:
đây là một con chim ngu, cây ngã rồi mà cũng không biết bay !”
Suy tư 52:
Tế nhị là việc cần thiết trong khi đối xử với
nhau giữa người với nhau.
Tế
nhị theo đại từ điển tiếng Việt định nghĩa là: khéo léo, tinh tế, nhã nhặn trong đối xử. Người tế nhị là người biết
ứng xử trong mọi hoàn cảnh để không làm người khác buồn phiền vì mình hoặc mất
mặt vì lời nói của mình.
Tế
nhị là một trong những điểm căn bản của bài học nhân bản, cho nên khi người ta
đối xử lịch sự tế nhị với nhau, thì người ta đã bày tỏ một nếp sống văn minh
lành mạnh, ở xã hội khi mà mọi người đều đối xử tế nhị bình đẳng với nhau, thì
xã hội ấy sẽ là xã hội văn minh tiến bộ, bởi vì ai ai cũng muốn mọi người sống
tốt với mình, cũng như muốn mình sống tốt với họ.
Người
Ki-tô hữu có một sự tế nhị vượt trên sự tế nhị trong cách đối xử của con người,
sự tế nhị đó không phải là để làm hài lòng nhau, nhưng là làm vui lòng Chúa
Giê-su nơi người ấy, tức là khi họ đối xử tế nhị với người khác là đối xử tế nhị
với Chúa Giê-su nơi người ấy. Bởi vì Chúa Giê-su đã dạy: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh
em cũng hãy làm cho người ta”[13]. Nhân bản Ki-tô
giáo nằm gọn trong lời dạy ấy của Chúa Giê-su, tất cả những lời nói tế nhị,
thái độ tế nhị, đều năm trong lời dạy ấy.
Ở
lâu ngày trong nhà người ta mà không thấy băn khoăn áy náy, mà không thấy thái
độ khó chịu của chủ nhà, là người không có sự tế nhị nhạy bén. Khi người khác
nói bóng nói gió đến mình mà không để ý hoặc không hiểu, thì cũng thiếu đi sự tế
nhị, đến nổi người ta mắng là ngu mà cũng không hiểu, thì quả là...ngu thật. Ha
ha ha...
53. BÙA ĐUỔI MUỖI
Có một đạo
sĩ, cho rằng bùa của mình vẽ có thể đuổi muỗi, có người tin nên đến mua một lá
bùa. Nhưng muỗi vẫn cứ bay tới bay lui như trước, do đó người mua bùa trở lại
chất vấn đạo sĩ, nói bùa của ông ta vẽ không linh nghiệm.
Đạo sĩ hỏi:
- “Ông đem lá bùa dán ở đâu ?
Người mua
bùa nói:
- “Dán ở bức tường trong nhà”.
Đạo sĩ nói:
-
“Chả trách nó không linh, ông phải
đem lá bùa dán trong màn (mùng) ngủ”.
Suy tư 53:
Muốn
đuổi muỗi thì phải dùng loại nhang đuổi muỗi hoặc dùng loại máy phát sóng để đuổi
muỗi, chứ muỗi chắc chắn là không sợ bùa ngải, đạo sĩ nói lá bùa dán trong mùng
là nói láo, vì đã có mùng rồi thì muổi làm sao vào được để hút máu ! Đạo sĩ vẽ
bùa chỉ nói láo với những người nhẹ dạ mà thôi.
Ma
quỷ là tên nói láo số một, là sư phụ của những người vẽ bùa chơi ngải, cho nên
nó chỉ đánh lừa được những người Ki-tô hữu đức tin yếu kém, dễ lung lạc trước vật
chất, dễ thay lòng trước những khó khăn, dễ té ngã trước những chức quyền danh
vọng.
Dấu
hiệu của những người Ki-tô hữu dễ bị ma quỷ lừa, là họ thường hay dùng trí óc của
mình để hồ nghi về những lời của Thiên Chúa, và những điều Hội Thánh dạy; họ ít
đi tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích; họ thường chế nhạo các tín hữu đi
lễ thường xuyên là: thờ Chúa trong lòng là được rồi; họ thích ham chức quyền và
thích danh vọng…
Nằm
ngủ trong mùng thì an toàn không sợ muỗi chích, cũng vậy, người Ki-tô hữu chỉ
có thể vững vàng đức tin khi họ thường xuyên tham dự thánh lễ, đón nhận các bí
tích cách sốt sắng, và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình.
54. BÁT UỐNG RƯỢU
Có một
người thích uống rượu, trên đường đi gặp người bạn, bèn muốn người bạn ấy mời
mình về nhà uống rượu. Người bạn nói: “Nhà
tôi ở rất xa”.
Người
thích uống rượu nói:
-
“Không sao cả, có xa thì cũng chỉ
hai ba mươi cây số là cùng ?”
Người bạn
nói:
- “Nhà tôi rất nhỏ, không tiện tiếp khách”.
Người thích
uống rượu nói:
- “Có thể há miệng là được rồi”.
Người bạn
nói:
- “Nhà tôi ngay cả đồ uống rượu cũng không có”.
Người thích
uống rượu nói:
- “Không sao, tôi chính là bát uống rượu”.
Suy tư 54:
Người
nghiện rượu thì làm bằng đủ mọi cách, tìm mọi lý do để có rượu uống; người nghiện
sắc dục thì bằng mọi cách tìm mọi lý do để thỏa mãn bản năng thú tính của mình;
người yêu mến Thiên Chúa thì tìm mọi cách mọi lý do để được bày long yêu mến
Thiên Chúa của mình.v.v…
Thích,
thói quen và nghiện thường làm cho con người ta dễ dàng phạm tội.
“Thích”
thường là không tội lỗi gì cả, bởi vì con người ta ai cũng có cái để thích:
thích uống rượu, thích ăn đồi ăn ngon, thích nghe nhạc, thích chụp ảnh, thích
nghiên cứu vi tính.v.v…
“Thói
quen” là bước tiếp theo của “thích”, bởi vì không phải tự nhiên mà có thói quen
hút thuốc sau khi ăn cơm, thói quen uống rượu khi ngồi chung với bạn bè, nhưng
trước hết phải thích đã, nhưng khi thích rồi và thường xuyên thực hành thì trở
thành thói quen, thói quen thì có thói quen xấu và thói quen tốt.
“Nghiện”
là do thói quen lâu ngày mà tạo thành, nghiện thường làm cho con người ta quên
cả bổn phận của mình, nghiện có khi làm cho con người ta mất cả nhân cách của
mình và trở thành trò cười cho thiên hạ.
Ở đời có
ba cái nghiện làm cho con người ta đam chem. Sát hại lẫn nhau, đó là:
- Nghiện danh vọng.
- Người nghiện chức quyền.
- Người nghiện tiền bạc.
Ở đời có
ba cái nghiện làm cho con người ta tan gia bại sản, thân tàn ma dại, thân bại
danh liệt, đó là:
- Nghiện sắc dục.
- Người nghiện rượu.
- Người nghiện hút.
Cái nghiện
nào cũng ghê gớm cả, tại sao vậy ? Thưa, bởi vì những cái nghiện ấy đều bắt đầu
từ sự thiếu cầu nguyện, và thiếu sự tiết chế trong sự ăn uống, trong cách ăn mặc,
trong thái độ đi đứng và nơi ở của mình.
Ai hiểu
thì hiểu.
55. ĐỔI NGỰA
Một người
cưỡi lừa, khi đi trên đường thì nhìn thấy có một người cưỡi ngựa từ xa đi tới,
ông ta càng nhìn thì càng thấy con ngựa quả là thật đẹp. Thế là vội vàng nhảy
xuống khỏi con lừa, chấp tay vái người cưỡi ngựa một cái rồi nói:
-
“Tôi muốn đem con lừa này của tôi
đổi lấy con ngựa của ngài”.
Người cưỡi
con ngựa cười cười, nói:
- “Người như ông sao mà ngu thế hử ?”
Người cưỡi
lừa nói rất chính xác:
-
“Ngài dám đổi ngựa cho tôi, thì
tôi mới nhận thấy ngài là người ngu !”
Suy tư 55:
Không
ai đem đồ quý giá của mình đi đổi đồ không có giá trị, vì như thế là người ngu;
cũng chẳng có ai mở miệng xin đem cái xấu của mình để đổi lấy cái tốt của người
khác, vì như thế không những bị người ta cho là người ngớ ngẫn và tham lam.
Ma
quỷ đã đánh đổi hạnh phúc đời đời của mình bằng kiêu ngạo nên bị phạt đời đời
đau khổ trong hỏa ngục, mối hận này vẫn cứ mãi mãi đi với ma quỷ, cho nên nó
tìm đủ mọi cách để đem cái xấu đi đổi cái tốt là linh hồn của con người, nhất
là linh hồn của người Ki-tô hữu đã được Chúa Giê-su Ki-tô cứu chuộc bằng giá
máu rất thánh của Ngài.
Trong
cuộc sống của người Ki-tô hữu đã có rất nhiều lần chúng ta đem cái tốt mà Chúa
ban cho mình đi đổi cái xấu của ma quỷ:
- Đem tài năng Chúa ban cho để giúp
người là điều ác.
- Đem sự thông minh Chúa ban cho để
lừa dối người.
- Đem sức khỏe Chúa ban cho để ăn
chơi trác táng.
- Đem sắc đẹp Chúa ban cho để hủy hoại
cuộc đời mình trong thác loạn.
Ân sủng
Chúa ban cho là để chúng ta sống xứng đáng là con cái của Ngài ở đời này, và đời
sau hưởng hạnh phúc vĩnh hằng trên trời, nhưng chúng ta lại đem ân sủng ấy đi đổi
lấy cái chết đời đời với ma quỷ trong hỏa ngục.
Nếu
không có ơn Chúa, nếu không có giáo huấn của Hội Thánh thì chúng ta đúng là ngu
thật: đem con ngựa đổi lấy con lừa. Ha ha ha.
56. MUỐN NGÓN TAY
Có một vị
thần muốn thực nghiệm thực nhiệm coi có người không có lòng tham hay không ? Gặp
người thứ nhất thì lấy ngón tay chỉ cục đá nhỏ biến thành thỏi vàng và hỏi anh
ta có muốn không ? người ấy trả lời:
-
“Muốn thì muốn, nhưng muốn xin thần
chỉ lại cục đá lớn hơn”.
Thần chỉ
cục đá lớn hơn biến thành tảng vàng cho người thứ hai, người thứ hai cũng hy vọng
thần biến tảng đá lớn hơn nữa thành vàng.
Thần lại
chỉ viên đá lớn hơn thành vàng cho người thứ ba, nhưng người này lắc lắc đầu
bày tỏ là không muốn. Thần rất vui mừng, rồi lại chỉ viên đá lớn như sư tử
thành vàng, người ấy cũng lại lắc đầu. Thần cho rằng người này không có lòng
tham, và đang khi muốn độ anh ta trở thành thần tiên, thì người ấy nói:
- “Xin ngài đem ngón tay của ngài tặng cho tôi !”
Suy tư 56:
Con
người có khi cũng lừa cả Thiên Chúa nữa, thì thần tiên là cái thá gì chứ ?
Có
người nói phĩnh gạt Thiên Chúa thì dễ hơn là lừa gạt con người, bởi vì con người
có tai có mắt, có óc có não nên khó phĩnh gạt, còn Thiên Chúa thì không thấy
Ngài đâu cả, nên dễ lừa gạt hơn.
Con
người ta khi có cái tâm tham lam thì bất kỳ ai họ cũng có thể phĩnh gạt lừa dối,
nếu có lợi cho họ:
- Có người có bộ mặt rất dễ thương,
nhưng lại đi lừa tình lừa tiền của người khác.
- Có người ăn nói thật thà như bụt,
nhưng lại là tay mánh mung dối gạt người khác không thương tiếc.
- Có người cứ mỗi lời nói là yêu
thương chị em, vì anh chị em mà hy sinh, nhưng cái hy sinh ấy nhỏ như con tép, mà âm mưu chiếm
đoạt của mọi người thì lớn như con voi.
- Có người gặp cha cố, bề trên thì bẩm
cha, bẩm cụ, nhưng trong lòng thì ghét cay ghét đắng tìm cách hạ bệ họ.v.v...
Thiên
Chúa rất công bằng, rất nhân từ. Sự công bằng này mọi người sẽ thấy trong ngày
phán xét, nhưng sự nhân từ thì con người ta có thể thấy ngay từ đời này, bây giờ
trong cuộc sống của chính mình.
Cho nên,
đừng nói là phĩnh gạt Thiên Chúa thì dễ nhé, coi chừng đó kẻo hối không kịp đó.
57. CÓ TRỜI MÀ KHÔNG MẶT TRỜI
Có một
quan huyện, vì không chịu nỗi cái nóng của mùa hè nên muốn tìm một nơi để tránh
nóng, bèn hỏi người hầu có chỗ nào để tránh nóng không ?
Có người
nói trên núi nọ có rất nhiều cây cao rậm rạp, nhất định là mát mẻ; có người nói
nơi chùa nọ rất là yên ắng thanh tịnh, nhất định là mát mẻ; lại có người đứng
bên cạnh lẩm bẩm nói một mình:
-
“Tôi nhìn không có chỗ nào mát hơn
ở công đường lớn này !”
Người ấy nói tiếp:
-
“Bởi vì
nơi công đường lớn này có trời mà không có mặt trời”.
Suy tư 57:
Có
trời thì nhất định phải có mặt trời, có mặt trời thì nhất định phải có ánh nắng,
có ánh nắng thì nhất định phải nóng.
Ở
trong công đường lớn của quan huyện là mát mẻ nhất, vì ở đó có trời mà không có
mặt trời:
- Có trời mà không có mặt trời:
nghĩa là có quan mà quan không có nhà, không thăng đường xét xử, quan đi chơi cả
ngày.
- Có trời mà không có mặt trời:
nghĩa là có quan mà quan không hề chỉ thị, chỉ có bà vợ quan ra lệnh mà thôi.
- Có trời mà không có mặt trời:
nghĩa là có cha sở mà cha sở cứ đóng cửa đi vắng cả ngày, để cô thư ký giải quyết
công việc.
- Có trời mà không có mặt trời:
nghĩa là có nhà thờ mà ngoài giờ lễ thì giáo dân không được đến, bởi vì cha sở
đóng cổng nhà thờ theo giờ hành chánh, trẻ em đến thì đuổi chúng nó về.
- Có trời mà không có mặt trời:
nghĩa là trong giáo xứ có đoàn thể mà cha sở không bao giờ đến hội họp với họ,
lý do duy nhất là: cha bận lắm...
Tìm nơi
mát mẻ để hưởng thụ thì không có chỗ nào bằng như ở công đường lớn của huyện,
vì ở đó có trời mà không có mặt trời, mà không có mặt trời thì làm gì mà nóng,
làm gì có nhiệt tình, làm gì có tích cực, làm gì có lòng đạo đức.
Ai
hiểu thì hiểu, ha ha ha...
58
SỢ NƯỚC
Có người bản tính rất sợ nước, một hôm cùng với người
trong thôn có việc phải đi lên kinh thành, giữa đường khi qua một con sông, anh
ta xin mọi người lấy dây thừng trói anh ta trên thuyền, và dặn dò:
-
“Trói chặt
chút nhé, trói chặt chút nhé !”
Đợi khi thuyền chèo qua bờ đối diện, người sợ nước bèn
hỏi người đi cùng:
-
“Khi trở về,
có qua sông nữa không ?”
Người cùng đi nói có.
Người sợ nước suy nghĩ rất lâu, đột nhiên nói:
-
“Qua sông
thì nhất định phải ngồi thuyền, tôi coi sợi dây thừng này không cần tháo ra nữa,
chỉ cần bỏ ra chút tiền nhờ người chèo thuyền kiêng cả thuyền và tôi đi ! Tôi cảm
thấy sợi dây thừng này trói thật chặt, nếu tháo ra, không nhất định lần sau có
trói chặt được như thế không !”
Suy tư 58:
Những người không biết bơi lội thì chắc chắn là sợ tắm hoặc đi thuyền
trên những hồ nước sâu, những dòng sông lớn, đó là chuyện thường tình chẳng có
gì để nói. Nhưng sợ nước đến nỗi phải nhờ người khác trói chặt mình trên thuyền,
thì mới là chuyện đáng nói, bởi vì khi làm như thế thì đúng là sợ quá...hóa
ngu, nếu lỡ may thuyền bị chìm thì họ cũng chìm luôn.
Có
những người Ki-tô hữu làm gì cũng sợ phạm tội, vì quá sợ phạm tội mà họ thường
lỗi đức bác ái với tha nhân:
- Họ không dám dừng xe lại để dìu một
người già hay một em bé qua đại lộ đầy xe cộ, vì họ sợ trễ giờ lễ.
- Họ không dám đứng lại chia sẻ với
người hành khất bên vệ đường vài trăm bạc, vì sợ đi họp trễ cha sở mắng.
- Họ không dám bắt tay người có tiền
án tiền sự, vì sợ nhiễm “thói xấu” của những người ấy mà mang tội.v.v...
Người sợ
nước thì cứ sợ, nhưng không phải vì sợ nước mà cột chặt mình vào với thuyền,
vì sẽ chết vì nước khi thuyền chìm; cũng
vậy, ai cũng phải sợ tội, nhưng không phải chuyện gì cũng gán cho tội rồi sợ mà
lỗi đức bác ái với tha nhân.
Đức Chúa
Giê-su không sợ người ta đàm tiếu khi nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri-a,
Ngài cũng không vì sợ giao du với người tội lỗi mà mang tội, nên đã đến nhà của
Gia-Kêu để ăn cơm với “phường tội tội lỗi”.
59. THUỐC GHẺ
Có một
tiệm thuốc, trước tiệm treo một bảng hiệu, trên bảng hiệu viết: “Thuốc bí truyền linh nghiệm, chuyên trị ghẻ”.
Có một
người vào mua thuốc ghẻ, trong tiệm thuốc có một người học việc đang ngồi bán
thuốc, lấy ngón tay chỉ cái kệ để thuốc rồi nói với người mua thuốc:
- “Thuốc ghẻ trên cái kệ ấy, ông tự đến lấy”.
Người mua
thuốc nói:
-
“Sao anh làm biếng thế, ngay cả đứng
dậy một chút mà cũng không muốn”.
Người học
việc nói:
-
“Trên thân tôi toàn là ghẻ lở, đứng
dậy không tiện”.
Người mua
thuốc nói:
- “Tại sao không xức thuốc ghẻ ?”
Học trò bán
thuốc nói:
-
“Ái dà, lại còn đợi ông nói, tôi
đã dùng qua, nhưng vẫn cứ không lành ?!”
Suy tư 59:
Có
những cửa hàng bán thịt chó, nhưng bảng hiệu lại viết là bán thị dê; có những cửa
hàng bán ế, nhưng trước cửa hiệu luôn có một hàng chữ: khuyến mãi mua một tặng
một; có một vài cửa hàng vắng khách nên viết quảng cáo: mừng cửa hàng tròn 5
năm, hàng giá rẽ, nhanh nhanh hàng còn ít. Đúng là quảng cáo nói láo ăn tiền,
chẳng khác gì tiệm thuốc quảng cáo “thuốc ghẻ bí truyền”, nhưng lại không chữa
lành ghẻ của người học việc.
Có
một vài người Ki-tô hữu luôn miệng quảng cáo với mọi người là mình thường cầu
nguyện cho người này bỏ uống rượu, người kia thôi không đánh vợ con, và người nọ
được ơn cảm hóa.v.v…nhưng họ lại không cầu nguyện cho chính mình được ơn khiêm
tốn, không cầu nguyện cho mình được ơn quảng đại, không cầu nguyện cho gia đình
mình được hòa thuận yêu thương nhau…
Chữa
mình trước rồi sẽ đi chữa cho người khác thì hiệu quả hơn nhiều.
Ai hiểu
thì hiểu…
60. BỆNH ĐAU MẮT
Có một
quan huyện xử án, nguyên cáo và bị cáo bên nào cũng nói cái lý của mình, huyện
quan nhướng mày nói:
-
“Lời nói của chúng mày đúng là ta
nghe mà không hiểu gì cả: nếu nghe bên nguyên cáo thì bên bị cáo phải bị đánh
hai mươi trượng; nếu nghe bên bị cáo thì bên nguyên cáo bị đánh hai mươi trượng.
Được rồi, bây giờ đánh mỗi người hai mươi trượng”.
Sau khi nguyên
cáo và bị cáo bị đánh hai mươi trượng, và khi quan huyện chuẩn bị rời khỏi công
đường, thì có một tên hầu chạy lên xin nghỉ phép, nói là mắt bị bệnh phải về
nhà.
Quan huyện
nhìn nhìn tên hầu, hỏi nó: “Tao nhìn cặp
mắt của mầy đâu có gì là bệnh đâu, tại sao lại nói mắt bị bệnh mà xin nghỉ phép
hử ?”
Tên hầu
trả lời:
-
“Dùng mắt của quan đại gia để nhìn
con, thì nó nhìn rõ ràng, nhưng dùng con mắt của con để nhìn quan đại gia thì nó
lơ mơ hồ đồ”.
Suy tư 60:
Tư
pháp khi xét xử thì phải có đủ chứng cớ, và những cứ ấy đều phải thật và cụ thể;
tư pháp khi luận tội thì phải công chính, công chính tức là công bằng và chính
trực không thiên vị bên nào, như thế mới đem lại bình an và hạnh phúc cho xã hội
và cho người dân.
Quan
tư pháp khi xét xử thì không những phải chịu về hành vi và lời luận tội của
mình trước pháp luật, mà nghiêm trọng hơn chính là chịu trách nhiệm về lời luận
tội của mình trước mặt Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa là Đấng phán xét, là quan
tòa của mọi quan tòa trên thế gian này, là Đấng yêu thương đầy lòng nhân từ,
nhưng rất công bằng và chính trực. Ngài sẽ xét tội những ai đoán xét không công
bằng với tha nhân, Ngài sẽ luận tội với những ai luận tội cách bất công, ức hiếp
và áp chế với tha nhân…
Quan
huyện xét xử cách hồ đồ vì lấy quyền lực của mình để đoán xét, chứ không lấy sự
hiểu biết pháp luật và sự công bằng để xét xử, nên dưới con mắt của người hầu hạ
thì ông ta là người hồ đồ…
Người
hầu hạ không học hành, không biết chữ mà cũng biết là quan huyện xét xử hồ đồ,
thì huống hồ là những người có học, thông minh và biết luật lệ chứ ?
Đúng là
ông quan huyện bị bệnh đau mắt chứ không phải người hầu hạ. Ha ha ha…
61. TẤT QUẢN BÚT
Có một
thời thịnh hành mốt “tất (vớ) quản bút”, loại bít tất này rất hẹp, ôm rất sát ống
chân nên giống như cái quản bút vậy, người xưa gọi như thế.
Có người
đi mua bít tất, đổi lui đổi tới nhiều lần mà vẫn cứ quá rộng, người chủ tiệm
nói:
-
“Nếu ngài muốn hợp ý, sao lại
không đi tìm thợ sơn ?”
Người
mua bít tất không hiểu gì cả, bèn hỏi nguyên nhân. Chủ quán trả lời:
-
“Không cần mang bít tất, chỉ cần
sơn trắng hai ống chân, chẳng lẽ không kỳ diệu hay sao ?”
Suy tư 61:
Ngày xưa mang bít tất chật thì người ta gọi
là cái quản bút, ngày nay mang bít tất cùng màu với màu da là mốt đời mới, mang
bít tất dài tới bắp vế thì được coi như là con người hiện đại; mang áo ngắn
ngang ngực là được coi như là người của thời đại…
Có
những người thích mang bít tất rộng tức là lương tâm rộng, có những người thích
mang bít tất hẹp, tức là lương tâm hẹp. Lương tâm rộng thì không coi trọng những
chi tiết nhỏ nhặt nên dễ dàng khiến họ phạm tội mà không biết, vì như thế là
đùa với lửa; lương tâm hẹp là những người ngay cả một chi tiết nhỏ nhặt cũng
xét nét cố chấp, nên họ khó mà thực hành đức ái với tha nhân trong cuộc sống của
mình, bởi vì đức ái thì không câu nệ những chi tiết…
Không
có bí tất chật thì –ý kiến của chủ tiệm- lấy sơn mà sơn cổ chân của mình.
Cũng vậy,
có nhiều người không có lương tâm hẹp cũng như không có lương tâm rộng, nên họ
-nghe lời của tên cám dỗ là ma quỷ- dùng vẻ bên ngoài để đánh lừa người khác,
chẳng hạn như dùng dáng đạo mạo để lừa những người già cả, dùng những lời lẽ
hoa mỹ để lừa dối những người trẻ, dùng những hành vi thân thiện để đánh lừa những
người nhẹ dạ cả tin.v.v…
Ai hiểu
thì hãy coi chừng những hạn người này.
(còn tiếp)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
dịch và viết suy tư
[1] La
hán có tất cả là mười tám pho tượng.
[2] Ep 6, 1-3
[3] Chữ “pha” tiếng Hoa viết là坡, do chữ “土thổ” và chữ ”皮da” ghép lại mà thành.
[4] Chữ “hoạt” tiếng Hoa viết là 滑, do chữ “水nước” và chữ “骨 xương” ghép lại mà thành.
[5] Chữ
“trơn” tiếng hoa viết là滑, gồm có hai chấm
ngắn và một chấm dài (bộ thủy 水) và chữ
“xương” 骨ghép thành.
[6] Kh 3,
15-16.
[7] Đường Hy Vọng
5.
[8] Mt 5, 4.
[9] Lục thân là: cha, mẹ, vợ, con, anh,
em. Cũng còn gọi là thân thích.
[10]﹝同年﹞có nhiều
ý: là đồng niên, đồng khoa, cùng tuổi. Thời đại khoa học
ngày nay, người cùng thi đỗ thì gọi là đồng niên.
[11] 屬相 nghĩa là thuộc
tướng, tức là tuổi, ví dụ: tuổi tuất, tuổi mão, tuổi mùi.v.v…nhưng đôi khi người
ta nói tắt một chữ “thuộc屬” mà thôi, như: thuộc tuổi mèo, thuộc tuổi chó...
[12] Chữ
“cát吉” là tốt lành, gồm hai
chữ “sĩ 士” và chữ “khẩu口” ghép lại mà thành.
[13] Mt 7, 12.