Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

Chúa Nhật lễ Phục Sinh


CHÚA NHẬT LỄ PHỤC SINH

Tin mừng : Ga 20, 1-9.
“Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết”.

Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúa nhật Phục Sinh, bài tin mừng hôm nay tường thuật câu chuyện cô Ma-ri-a Ma-da-lê-na đến mộ của Đức Chúa Giê-su từ sáng sớm, nhưng rất kinh hoàng vì cửa mộ đã mở toang, và xác của Đức Chúa Giê-su không thấy đâu cả ! Thật ra Ngài đã sống lại rồi, sống lại thật như lời Ngài đã phán trước.

Tìm Đức Chúa Giê-su phục sinh nơi mộ trống
Không ai đi tìm người sống nơi mộ, nhưng người ta hy vọng người chết sẽ bằng an ra đi về nơi cõi vĩnh hằng.

Cách nhìn của người không phải là Ki-tô hữu.
Người ta cũng sẽ không tìm thấy Đức Chúa Giê-su phục sinh nơi những người Ki-tô hữu sống bê tha gây gương mù gương xấu, bởi vì những người này như những ngôi mộ âm u lạnh lẽo không có sinh khí, nhưng họ sẽ tìm thấy Ngài nơi những Ki-tô hữu sống thực hành lời của Ngài dạy là phục vụ tha nhân như phục vụ chính Ngài, bởi vì phục vụ chính là dấu hiệu sống động của Thần Khí Thiên Chúa.

Cái nhìn của người Ki-tô hữu.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta nhìn những người tội lỗi bằng cặp mắt không mấy thiện cảm, nhìn những người có thành tích không mấy tốt đẹp bằng thái độ khinh chê, tâm hồn của họ như những nấm mồ trống không có Đức Chúa Giê-su Phục Sinh, vâng, dưới cái nhìn và suy tư của chúng ta, họ là những người vắng bóng Thiên Chúa trong cuộc sống.

Đức Chúa Giê-su Phục Sinh vẫn đồng hành với chúng ta.
Ngài đồng hành với chúng ta trong thân phận của người nghèo khó, đang chờ chúng ta mời Ngài vào trong quán trọ bên đường như hai môn đệ thành Em-mau; Ngài cũng đang đồng hành với mọi người trên con đường dương thế, nhưng mấy ai nhận ra Ngài là Đức Giê-su Phục Sinh ?

Anh chị em thân mến,
Tối hôm qua trong thánh lễ Vọng Phục Sinh chúng ta đã long trọng xác tín và tuyên xưng rằng Đức Chúa Giê-su đã từ cõi chết sống lại vinh hiển, và tiếng hoan ca Al-le-lu-ia vẫn sẽ còn vang vọng mãi cho đến ngày Ngài lại đến trong vinh quang.

Chúng ta vui mừng vì tin vào Đức Chúa Giê-su phục sinh, nhưng mỗi người trong chúng ta vẫn chưa thật sự sống lại với Ngài, bởi vì chúng ta không muốn tìm Chúa Phục Sinh nơi những nấm mồ trống, tức là chúng ta không muốn tiếp xúc trò chuyện với những người đang bị cho là kẻ tội lỗi, bởi vì chúng ta vẫn chưa đẩy được tảng đá kiêu ngạo, ghét ghen che lấp tâm hồn của chúng ta, làm cho chúng ta không thoát ra được để đi tới với tha nhân và vươn lên tới Thiên Chúa...

Lăn tảng đá tự kiêu tự mãn ra khỏi tâm hồn mình, là chúng ta sẽ thấy ánh sáng phục sinh của Chúa Giê-su nơi những nấm mộ trống, tức là những người tội lỗi và bất hạnh trong cuộc đời này...


Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

Thứ Bảy Tuần Thánh - Vọng Phục Sinh


THỨ BẢY TUẦN THÁNH
VỌNG PHỤC SINH

Tin mừng : Mt 28, 1-10.
“Ngài trỗi dậy và đi Ga-li-lê trước các ông”

Anh chị em thân mến,
Hôm nay là lễ Vọng Phục Sinh, lễ mừng Đức Chúa Giê-su từ trong mồ đá sống lại khải hoàn, một tin vui và niềm hy vọng lại đến dạt dào nơi những kẻ tin vào Ngài, trước hết là Đức Mẹ Ma-ri-a, các môn đệ và những người yêu mến Ngài.

Trong niềm vui phục sinh với Đức Chúa Giê-su, tôi xin chia sẻ với anh chị em về sự Phục Sinh của Chúa liên quan mật thiết đến sự sống hằng ngày của chúng ta.

Chết liên lỉ và sống lại hằng ngày.
Một hôm ve sầu hỏi Đấng tạo hóa:
-    “Có thứ gì vừa có đầy đủ sức sống, nhưng đồng thời cũng có đủ sự chết không?”
-    “Có chứ”- Đấng tạo hóa tiếp lời: “Hạt giống của lúa, lúa mì và tất cả các hạt, chúng nó đều là vừa sống vừa chết; vừa chết vừa sống”[1].

Đức Chúa Giê-su đã sống lại như lời Ngài đã nói trước, đó là một niềm tin và là một sự thật, Ngài đã sống lại sau khi bị đóng đinh vào thập giá, chết, và được mai táng trong mộ đá, đó là tất cả niềm tin của chúng ta, như lời thánh Phao-lô đã quả quyết rằng nếu Đức Chúa Ki-tô chết đi mà không sống lại, thì chúng ta –những kẻ tin- là những người vô phúc nhất. Nhưng Ngài đã sống lại.

Đức Chúa Giê-su là hạt giống Nước Trời được gieo vào thế gian vừa có đủ sự chết nên Ngài đã chết, vừa có đủ sự sống nên Ngài đã sống lại, sự sống lại này là một bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy chính Ngài là Thiên Chúa, là Đấng cứu chuộc trần gian. Ngài đã sống lại và đang ở trong mỗi người chúng ta, để làm cho chúng ta -nhờ bí tích Thanh Tẩy và Hòa Giải- cũng được sống lại với Ngài trong từng giây phút của cuộc đời mình.

Anh chị em thân mến,
Phụng vụ đêm nay có nhiều nghi thức, mỗi một nghi thức đều ăn khớp với nhau, từ Cựu ước đến Tân ước, tất cả đều có liên quan đến Đức Chúa Giê-su lá Đấng cứu thế, là Đấng Mê-si-a mà các tiên tri đã loan báo, để cho chúng ta hiểu được kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại thật vĩ đại dường nào.

Mỗi giây phút trong cuộc đời của chúng ta đều có sự chết và phục sinh của Đức Chúa Giê-su: khi chúng ta hy sinh, chúng ta hãm mình là chúng ta chết cho tội và sống trong ân sủng của Thiên Chúa; khi chúng ta nhịn nhục, khi chúng ta phục vụ là chúng ta chết cho cái tôi và sống lại trong Thần Khí của Đức Chúa Giê-su...

Không phải chỉ đúng ngày lễ Phục Sinh chúng ta mới “sống lại”, nhưng tình yêu của Đức Chúa Giê-su thôi thúc chúng ta chết và sống lại mỗi ngày, bởi vì mỗi người trong chúng ta là những mảnh đất tốt để hạt giống Lời Chúa nẩy mầm và phát triển rồi ảnh hưởng đến môi trường chung quanh chúng ta.

Người ta sẽ không biết Đức Chúa Giê-su chết như thế nào và sống lại ra sao, nếu mỗi người trong chúng ta –người Ki-tô hữu- không đem đời sống của mình ra để làm chứng cho Đức Chúa Giê-su Phục Sinh, mà chứng cớ sống động nhất chính là chúng ta sống như Chúa đã sống, đó là yêu thương, phục vụ và tha thứ cho nhau- Alleluia.

Xim Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.


Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

[1] Trích trong “Truyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch và viết suy tư của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

Thứ Sáu Tuần Thánh


THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Tin mừng : Ga 18, 1 ; 19, 42
“Cuộc thương khó của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.

Anh chị em thân mến,
Thế là hết, vị thầy vĩ đại của các môn đệ đã bị bắt, vị đại tiên tri của dân Do Thái đã bị đánh đòn và bị đóng đinh chết trên thập giá, các môn đệ tan hàng mỗi người một ngã, các bà đạo đức đấm ngực khóc than, thất vọng và đau thương bao trùm cả một cõi trời Giê-ru-sa-lem.

Đức Chúa Giêsu đã chết, cái chết bất diệt
Có câu chuyện nhỏ như thế này:
“Thời gian như bay, một hôm sen bắt đầu già. Sen thấy hồng nhan thay sắc, da dẻ dần dần mất đi vẻ bóng mịn; sen cho là tài hoa không trở lại, cuộc đời như bóng ngã về tây, cảm thấy bi ai sợ hãi. Lẽ nào cuộc sống kết thúc không tiếng tăm, không hơi thở như thế này sao ? Đâu là những vẽ vang ? Đâu là những tiếng vỗ tay ? Nó cầu cứu với Đấng tạo hóa, Ngài nhìn nó dịu dàng nói:
-         “Này con, đây là con đường mà mỗi sinh mệnh phải đi qua”.
Sen vẫn phản kháng đến cùng:
-         “Nhưng không phải Ngài nói sinh mệnh là vĩnh hằng sao?”
Đấng tạo hóa khẽ mĩn cười, nói:
-      “Huyền diệu của sinh mệnh là ở đây: không có sống thì không có chết, không có chết thì không có sống”.
Trong mình thế lực đang tàn tạ, ngã lòng, dung nhan đẹp đẽ của sen đã bị tróc ra tàn rụng. Trong tuyệt vọng vô cùng, sen đột nhiên phát hiện nhụy hoa nho nhỏ tự thành hình trong nó. Sen bắt đầu hiểu rõ lời của Đấng tạo hóa: chỉ có đi qua sự chết, mới có thể trở lại sự sống.
Sau khi cánh hoa cuối cùng theo gió mà đi, sen đã hài lòng, nở một nụ cười mà tạ thế.
Đầu xuân năm nay, trong hồ nước mọc lên vô số là hoa sen mới, mát mẽ không bẩn, tiếp tục đón nhận một mùa thanh tao.[1]

Nhưng hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh hoa kết quả dồi dào[2], hạt lúa là tình yêu của Thiên Chúa đã được gieo vào lòng đất là thế gian, nhưng thế gian đã dùng ghen ghét, hận thù để loại bỏ tình yêu ấy ra khỏi thế gian, ra khỏi tâm hồn của họ.

Hôm nay, tất cả thế lực của ma quỷ và thế gian đã tấn công một con người; hôm nay tất cả ghét ghen, kiêu căng, ích kỷ đã đứng chung lại để tấn công tình yêu hy sinh của Đấng cứu độ trần gian.

Ngài đã chết, hạt lúa mì được gieo vào lòng đất đã thối nát, và ma quỷ vui mừng; các thế lực trần gian của những người Pha-ri-siêu, của các kinh sư, của các thầy thông luật, của các thầy thượng tế đã có thể an tâm tự tại vì đã loại trừ một đối thủ. Nhưng hạt lúa thối đi không có nghĩa là vô vọng, trái lại nó sẽ sinh ra nhiều hạt lúa tốt tươi khác. Đức Chúa Giê-su đã chết, nhưng Ngài sẽ sống lại và vĩnh viễn thống trị âm phủ và sự chết, Ngài sẽ sống lại như lời Ngài đã nói trước.

Anh chị em thân mến,
Hôm nay Thứ Sáu Tuần Thánh, toàn thể Giáo Hội đang ăn chay hãm mình đền tội và hy sinh, để chia sẻ những đau khổ với Đức Chúa Giê-su đang quằn quại đau thương trên thập giá.

Hôm nay, anh chị em và tôi, chúng ta cũng đã đấm ngực ăn năn sám hối tội mình, chúng ta thấy rất rõ vì tội lỗi của mình đã phạm làm cho Đức Chúa Giê-su phải chết. Ngài đã chết, chết thật và không còn cảm giác đớn đau khi lưỡi đòng ân huệ đâm thâu trái tim của Ngài, Ngài đã chu toàn bổn phận cứu chuộc nhân loại của mình.

Khi phó thác linh hồn trong tay Cha, Đức Chúa Giê-su đã đi qua ngưỡng cửa sự chết để vào cõi vinh quang của Ngài, Ngài như cánh hoa sen trong bùn phải tàn tạ để nhiều nụ hoa sen mới đẹp nẩy mầm, nụ hoa sen của vĩnh hằng, của yêu thương, nụ hoa sen nẩy mầm ấy chính là những người Ki-tô hữu đang tin và đi theo Ngài vậy.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.


Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

[1] Trích trong “Truyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch và viết suy tư của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
[2] Ga 12, 24.

Thứ Năm Tuần Thánh



THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Tin mừng : Ga 13, 1-15.
“Đức Giê-su yêu họ đến cùng”.

Anh chị em thân mến,
Hôm nay là một ngày đáng ghi nhớ và muôn đời cảm tạ chúc tụng tình yêu của Thiên Chúa –qua Đức Chúa Giê-su- đã dành cho nhân loại tội lỗi, đáng ghi nhớ là vì hôm nay Giáo Hội kỷ niệm Đức Chúa Giê-su lập bí tích Truyền Chức Thánh và bí tích Thánh Thể, hai bí tích cao quý để chuyển ơn Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Trong tâm tình đó, tôi xin chia sẻ với anh chị em ba nét chấm phá về linh mục.

Yêu thương, phục vụ làm nên Linh Mục
Một hôm, hoa sen ấm ức hỏi Chúa tạo vật:
-         “Con đem hương thơm thấm tận tim gan của con, đem bộ mặt đẹp đẽ của con cho người thưởng thức, thân rễ dành để cho người làm thức ăn, nhuỵ hoa có thể dùng làm thuốc. Con đem cuộc đời của con ra cống hiến mà không giữ lại một chút gì, Ngài còn muốn con như thế nào nữa chứ?”
Chúa tạo vật trả lời :
- “Ta muốn con không oán trách”[1].
Hoa sen đã đem tất cả những gì có trên than mình để phục vụ con người, nó đã cống hiến tất cả cho con người chẳng để lại điều gì, vậy mà Đấng tạo hóa muốn nó khiêm tốn hơn nữa, tức là không oán trách.

Linh mục chính là hoa sen giữa xã hội này, các ngài được chọn là để đem sức lực trí óc của mình để phục vụ tha nhân mà không oán trách, như Đức Chúa Giê-su khi bị đóng đinh trên thập giá mà không hề oán trách nhân loại tội lỗi, lại còn xin Cha tha tội cho họ nữa.

Linh mục là người được chọn để làm những gì mà Đức Chúa Giê-su đã làm khi còn ở thế gian, đó là thực hiện ý Cha trên trời bằng việc hiến tế đời mình, là yêu thương và phục vụ tha nhân cho đến hơi thở cuối cùng. Đó là một vinh dự cao quý cho người được chọn và là sự hạnh phúc cho nhân loại, là cốt lõi và là mục đích của đời linh mục, nếu không làm được như thế thì linh mục chỉ là một chức vụ không hơn không kém, mà đã là chức vụ thì không thể nói phục vụ anh em như chính mình, và cũng không thể nói yêu thương tha nhân như chính bản thân mình.

Linh mục được chọn để tha thứ như Đức Chúa Giê-su đã tha thứ cho nhân loại; linh mục được chọn để giơ tay chúc lành cho mọi người như Đức Chúa Giê-su đã làm; linh mục được chọn để ra đi tìm chiên lạc như Đức Chúa Giê-su đã làm...

Linh mục làm lại việc Đức Chúa Giê-su đã làm, đó là bôn ba khắp miền Ga-li-lê-a để rao giảng tin mừng Nước Trời, chứ không ngồi ở trong hội đường để phán bảo và sai khiến; đó là thâu đem cầu nguyện với Cha trên trời sau một ngày mệt mỏi vì phần rỗi đời đời của mọi người, chứ không phải tự cho mình thỏa mãn nghĩ ngơi vì phục vụ quá nhiều.

Có những lúc tôi phục vụ giáo dân trong giáo xứ của tôi với tinh thần vô vị lợi thì ít, mà tinh thần vụ lợi thì nhiều, cái vụ lợi ấy đã làm cho tôi chỉ thấy mình cống hiến quá nhiều công lao sức lực cho giáo hội, giáo xứ, mà không nghĩ đến giáo dân cũng đã ngậm đắng nuốt cay vì những hách dịch phách lối và kiêu căng của tôi; và cũng có rất nhiều lần tôi tự thỏa mãn với chính mình vì được làm linh mục, được chỉ huy người khác, được cống hiến cho Giáo Hội, cho nên khi có người góp ý phê bình cho tôi, thì tôi than thở với Đức Chúa Giê-su: “Chúa ạ, con đem hương thơm thấm tận tim gan của con, bộ mặt đẹp đẽ của con cho người thưởng thức, thân rễ dành để cho người làm thức ăn, nhuỵ hoa có thể dùng làm thuốc. Con đem cuộc đời của con ra cống hiến mà không giữ lại một chút gì, vậy mà họ cũng nói thế này thế nọ với con...”

Không oán trách, đó là việc làm của Đức Chúa Giê-su khi Ngài bị chính những người mà Ngài đã thi ân giáng phúc vu không tố cáo Ngài, và cuối cùng đóng đinh Ngài chết trên cây thập giá; Không oán trách là thái độ của người lãnh đạo các linh hồn mà Thiên Chúa đã trao cho họ coi sóc, đó cũng là biểu hiện một tâm hồn tràn đầy yêu thương của một mục tử nhân lành học theo gương của Đức Chúa Giê-su.

Anh chị em thân mến,
Hôm nay trong thánh lễ này, anh chị em đã thấy cha sở của anh chị em cúi xuống rửa chân cho những người đại diện các anh chị em trong giáo xứ, thật cảm động, vì đó là mục đích của đời linh mục: phục vụ và yêu thương. Nhưng trong mắt của các anh chị em vẫn còn thấy có những linh mục bất xứng, những linh mục chỉ biết mình và mong được giáo dân phục vụ và kính trọng, hơn là phục vụ và kính trọng giáo dân

Trong tâm tình yêu thương ấy, xin anh chị em cầu nguyện và tha thứ cho tôi và những linh mục khác cũng là mục tử của anh chị em, được noi gương Đức Chúa Giê-su phục vụ đến quên mình mà không oán trách, không than vãn và luôn trở thành nơi yêu thương và bình an của anh chị em.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.


Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

[1] Trích trong “Truyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch và viết suy tư của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

Thứ Tư, 16 tháng 4, 2014

Thứ Tư Tuần Thánh


THỨ TƯ TUẦN THÁNH

Tin mừng : Mt 26, 14-25.
Con Người phải ra đi như kinh thánh đã chép về Ngài, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người”.

Anh chị em thân mến,
Một hôm, hoa Hải Đường ôm tâm nhĩ bị nghiến đau và chảy máu, nó đau khổ nói cùng Đấng tạo hóa:
-         “Người lạ làm tổn thương con, con có thể quên rất nhanh, tại sao người càng thân cận, càng làm cho con không thể chịu đựng được ?”
Đấng tạo hóa thở dài nói:
-         “Thân cận chưa chắc là thân mật, thân mật không nhất định là thân yêu, người càng thân cận, thường làm tổn thương nhau càng sâu, bởi vì trước mặt người chí thân, chí cận, chí ái thì trong lòng không bố trí phòng thủ, cho đến nỗi bị vết thương vừa sâu vừa lớn”.[1]

Có phải người phản bội Đức Chúa Giêsu là tôi ?
Thân cận chưa chắc đã thân mật và chưa chắc đã yêu, bằng chứng là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt đã ở với Đức Chúa Giê-su ba năm mà vẫn phản bội Ngài; bằng chứng là có những đôi vợ chồng đã kề cận thân mật trong nhiều năm trời, nay lại phản bội nhau đường ai nấy đi; bằng chứng là có rất nhiều anh em chị em ruột tố cáo nhau trước tòa án, dù rằng họ là người thân thiết thân cận của nhau. Đức Chúa Giê-su đã trả lời các môn đệ: “Kẻ giơ tay chấm chung một dĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy”[2], kẻ nộp Ngài không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt là môn đệ của Ngài sao ?

Có phải tôi là người phản bội Đức Chúa Giê-su không ?
Cùng ăn một tấm bánh, cùng uống một chén nhưng cộng đoàn trong giáo xứ chúng ta vẫn cứ chia rẻ nhau, mà cộng đoàn giáo xứ không phải là thân mình của Đức Chúa Giê-su, là anh chị em của nhau sao ? Đó là một sự đau khổ nhất của Đức Chúa Giê-su, mà chính tôi cũng là người có trách nhiệm trong việc chia rẻ này, khi tôi đứng phe bên này chửi rủa thóa mạ chỉ trích phe bên kia.

Có phải tôi là người phản bội Đức Chúa Giê-su không ?
Chắc chắn rằng tôi đã phản bội Ngài khi tôi là một mục tử được Ngài tuyển chọn, khi tôi ăn Mình và uống Máu Ngài mỗi ngày trong thánh lễ, nhưng tôi vẫn giơ chân đá Ngài văng ra khỏi cuộc sống linh mục của tôi, đó là khi tôi vẫn tham lam coi tiền bạc là cứu cánh của mình, khi tôi coi dục vọng là sự thỏa mãn mình hơn niềm vui phục vụ tha nhân, khi tôi kiêu căng không thèm rửa chân cho những con chiên bị lấm bùn vì cuộc sống xô bồ, mà chỉ thích con chiên rửa chân cho mình mà thôi...

Tôi là người thân cận nhất của Đức Chúa Giê-su vì Ngài đã chết cho tôi vì yêu thương tôi; tôi là người thân mật với Đức Chúa Giê-su vì Ngài ở trong tôi và tôi ở trong Ngài, nhưng tôi đã không yêu thương Ngài cách trọn vẹn, và vì thế mà Ngài càng đau khổ hơn, vì những tội lỗi của tôi như những nhát búa tôi đóng vào tay chân Ngài, nặng và sâu hơn ngày xưa khi Ngài chịu đóng đinh vào thập giá.

Anh chị em thân mến,
Bắt đầu ngày mai là chúng ta bước vào Tam Nhật Thánh, nó là đỉnh cao của mùa chay, là kỷ niệm ba ngày cuối cùng của Đức Chúa Giê-su tại trần gian, do đó, trong tâm tình kết hợp sâu xa với Đức Chúa Giê-su khổ nạn, chúng ta cùng đồng hành với Ngài qua các nghi thức của Giáo Hội, để chia sẻ những đau khổ với Ngài, và đón nhận những hồng ân cao quý mà Thiên Chúa sẽ ban cho trong cuộc đời của mình.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.


Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

[1] Trích trong “Truyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch và viết suy tư của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
[2] Mt 26, 23.

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

Thứ Ba Tuần Thánh


THỨ BA TUẦN THÁNH

Tin mừng : Ga 13, 21-33; 36-38.
“Một người trong anh em sẽ nộp Thầy … Gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần”.

Anh chị em thân mến,
Không có gì đau khổ và phủ phàng cho bằng khi biết được người mà mình hết dạ yêu thương đã phản bội mình, và càng tức tưởi hơn nữa khi đó là môn đệ của mình. Quả tim của Đức Chúa Giê-su đã hứng trọn nhát dao chí tử trước khi chịu khổ hình và chết trên thập giá: Ngài biết trước sự phản bội của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, và sự hèn nhát của Phê-rô sẽ phủ nhận không biết Ngài là ai.

Biết trước Giu-đa bán thầy, Phê-rô chối thầy
Phong tín tử[1] ngày ngày đuổi theo bươm bướm hỏi: “Nói cho cùng thì em có yêu anh không ? Em có thể vĩnh viễn cam đoan với anh là lòng em không thay đổi không ?”
Bươm bướm sau khi giải thích rồi lại giải thích, cam đoan rồi lại cam đoan, cuối cùng bất đắc dĩ nói: “Giả sử tình yêu của chúng ta được thiết lập trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, quy tắc căn bản là không phải hứa gì cả, bởi vì bản thân của tình yêu chính là một lời hứa rồi vậy !”[2]

Tình yêu là một món quà vô vị lợi mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, để qua tình yêu này mà con người biết kết thân, làm hòa, cộng tác và chung thủy với nhau. Đức Chúa Giê-su cũng không ra ngoài lệ ấy, Ngài đã hết sức yêu thương các môn đệ của mình cũng như yêu nhân loại, một tình yêu hiến dâng và không đòi lại.

Giu-đa Ít-ca-ri-ốt đã đòi trả giá tình yêu bằng vật chất nên đã bán thầy mình ba mươi đồng bạc, một tình yêu vô vị lợi của Đức Chúa Giê-su đã được đổi bằng tính ích kỷ; Phê-rô đã coi sự an toàn bản thân của mình hơn tình yêu vô vị lợi của Đức Chúa Giê-su, nên đã từ chối không biết Ngài là ai !

Tình yêu, tự nó là một lời cam kết rất có giá trị mà không một bản văn hay một lời nói nào có thể diễn tả, thế nhưng con người ta vẫn cứ hoài nghi khi yêu, hoài nghi là vì mình chưa tin tưởng vào tình yêu, mà người yêu đã bày tỏ bằng con tim trong hành động và lời nói. Đức Chúa Giê-su đã yêu các môn đệ đến cùng: không hồ nghi, không thắc mắc và không đề phòng, nhưng biết rất rõ tình yêu của mỗi một môn đệ dành cho mình.

Mỗi lần phạm tội là mỗi lần chúng ta hỏi Thiên Chúa rằng Chúa có yêu thương mình không, có cam kết vĩnh viễn yêu mình không, khi mà tình yêu của Ngài đã rõ ràng trong cuộc sống của chúng ta, nhất là tình yêu chết trên thập giá của Chúa Giê-su. Thập giá là lời cam kết vĩnh viễn của Thiên Chúa yêu thương nhân loại và mỗi người trong chúng ta; ai không nhìn lên thập giá, không ôm ấp thập giá, không suy niệm đến thập giá thì họ vẫn cứ luôn bắt Thiên Chúa phải cam kết vĩnh viễn yêu thương họ, bởi vì nơi họ không nhìn ra được tình yêu hy sinh đến chết của Đức Chúa Giê-su.

Anh chị em thân mến,
Giu-đa Ít-ca-ri-ốt đã bán Đức Chúa Giê-su vì ông ta vẫn còn hồ nghi sứ mệnh của Ngài; Phê-rô dù đã được Đức Chúa Giê-su cảnh báo trước cho biết là sẽ chối Ngài, nhưng rồi ông cũng vẫn cứ chối không biết Ngài là ai, bởi vì Phê-rô vẫn còn cậy vào sức riêng của mình. Hồ nghi Thiên Chúa và cậy vào ý riêng của mình là hai câu hỏi hằng ngày trong đầu óc của chúng ta: Thiên Chúa có yêu thương mình không ? Thiên Chúa có cam kết vĩnh viễn không thay lòng đổi dạ với mình không ?

Đức tin và tình yêu của Thiên Chúa không cho phép chúng ta hồ nghi về tình thương của Ngài dành cho chúng ta và nhân loại, nhưng nó phải được triển nở mỗi giây phút trong cuộc sống của chúng ta.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.


Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

[1] Tên của một loài hoa.
[2] Trích trong “Truyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch và viết suy tư của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

Thứ Hai Tuần Thánh


THỨ HAI TUẦN THÁNH

Tin mừng : Ga 12, 1-11.
“Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy”.

Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có cô Mác-ta đang hầu bàn phục vụ khách ăn, cô Ma-ri-a lấy bình dầu thơm quý giá xức chân cho Đức Chúa Giê-su, và chắc chắn La-da-rô cùng đồng bàn với Ngài vì anh là đàn ông trong gia đình, trong bối cảnh này, chúng ta nghĩ đến gia đình mà chúng ta đang sống, nghĩ đến cộng đoàn giáo xứ mà chúng ta đang phục vụ, và nghĩ đến cộng đoàn tu trì mà chúng ta được mời gọi hiến dâng để phục vụ.

Xin được rửa chân
thì tốt hơn là sửa lưng anh chị em
“Một ngày nọ, chim nhạn rừng mát lòng hả dạ nói với Đấng tạo hóa: “Con đến làm môn đồ của Ngài có được không ?”.
- “Tốt thôi”- Đấng tạo hóa trả lời và chỉ một con hạc đàng xa nói tiếp: “Con đi rửa chân cho nó vì nó mới đi qua vũng bùn lầy lội”.
- “Cái gì ?”- chim nhạn rừng kinh ngạc kêu lên một tiếng, không thèm để ý, nói tiếp: “Con là môn đồ của Chúa, không được phép phục vụ người khác”.
Đấng tạo hóa cười nói: “Này con, nếu con không phục vụ người khác, thì người ta làm sao mà nhận ra con là môn đồ của Ta chứ ?” [1].

Anh chị em thân mến,
Sau khi rửa chân cho ông Phê-rô và các môn đệ, Đức Chúa Giê-su đã nói rằng: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không ? Anh em gọi thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm...Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”[2].

Rửa chân cho nhau là dấu hiệu để người ta nhận ra người môn đệ của Đức Chúa Giê-su, khi mà thế gian còn quá nhiều người chỉ muốn sửa lưng dạy đời người khác, hơn là tự kiểm điểm bản thân của mình trước, rửa chân là phục vụ vô vị lợi Chúa Giê-su nơi người anh em chị em của mình.

“Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không ?”, các môn đệ đã hiểu rõ ràng sau khi Đức Chúa Giê-su giải thích, càng có chức quyền thì càng hiểu rõ lời nói của Đức Chúa Giê-su, chúng ta cũng hiểu rõ việc Đức Chúa Giê-su đã làm cho các môn đệ, các linh mục cũng hiểu rất rõ việc  của Đức Chúa Giê-su đã làm cho các môn đệ, các tu sĩ nam nữ cũng hiểu rõ việc Đức Chúa Giê-su đã làm cho các môn đệ: rửa chân là phục vụ tha nhân, và là dấu chỉ người môn đệ chân chính của Đức Chúa Giê-su.

Trong cộng đoàn, tôi chỉ muốn ăn trên ngồi trước anh em chị em, tôi chỉ muốn người ta coi mình như một người đáng được phục vụ, cho nên không ai nhận ra tôi là người môn đệ của Đức Chúa Giê-su; trong xứ đạo, vì nghĩ mình là một mục tử nên tôi coi mình có quyền ban phát ân huệ của Thiên Chúa cho giáo dân, thế là tôi ngước mắt lên trời khi ông cụ giáo dân lớn tuổi chào tôi, tôi không gật đầu niềm nở với những người hay góp ý chân tình cho tôi, và thế là dù cho tôi đọc cả hàng ngàn lần câu chuyện rửa chân cho các môn đệ của Đức Chúa Giê-su, thì tôi cũng vẫn cứ cố tình không hiểu ý nghĩa của nó, cho nên ngay cả giáo dân của tôi cũng không nhìn thấy tôi là môn đệ của Ngài, mà chỉ thấy tôi là một chức sắc của Giáo Hội: kiêu căng, ích kỷ và xa cách.

Ai cũng thích đi sửa lưng cho người khác mà không ai biết cúi xuống rửa chân cho mình trước, bởi vì ai cũng muốn được làm môn đệ Đức Chúa Giê-su, nhưng lại không muốn học gương sáng phục vụ tha nhân của Ngài.

Anh chị em thân mến,
Cô Mác-ta đã hầu bàn phục vụ khách dự tiệc, cô Ma-ri-a lấy dầu thơm quý nhất của mình để xức chân cho Đức Chúa Giê-su, đây là bài học sống động để trở nên người môn đệ của Ngài: phục vụ là đem cái mình quý nhất là danh dự, là sĩ diện tặng cho tha nhân, bởi vì đó chính là hành động của Đức Chúa Giê-su, khi Ngài vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”.[3] – Ngài đã đem cái vinh quang Thiên Chúa của Ngài để tặng cho nhân loại khi chết nhục nhã trên thập giá.

Rửa chân mình trước thì tốt hơn là sửa lưng cho tha nhân, đó là tâm tình của người khiêm tốn biết nhìn ra cái yếu hèn và khuyết điểm của mình vậy...

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.


Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 

[1] Trích trong “Chuyện ngụ ngôn cho thời hiện nay”, bản dịch và viết suy tư của Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
[2] Ga 13, 12-14.
[3] Pl 2, 6-7.