Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2025

Chúa nhật 1 Mùa Chay

 


CHÚA NHẬT I MÙA CHAY

( Năm C )

Tin mừng : Lc 4, 1-13
“Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu cám dỗ.”

Bạn thân mến,
Mở đầu tuần thứ nhất của mùa chay năm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng về việc Đức Chúa Giê-su bị ma quỷ cám dỗ ba lần, và mời gọi chúng ta cùng nhau học hỏi Đức Chúa Giê-su biết bình tỉnh cậy vào ơn Chúa để đối phó với cám dỗ trong cuộc sống hàng ngày của mình.
1. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Cám dỗ thứ nhất của ma quỷ đó là hưởng thụ xác thịt qua việc ăn uống.
Ăn uống là chuyện bình thường của con người, nhưng ăn uống để có sức khoẻ và ăn uống để hưởng thụ thoả mãn xác thịt thì không giống nhau, con người ta càng được no nê thân xác thì càng sinh ra nhiều điều bất lợi cho phần linh hồn vì những đòi hỏi của xác thịt, do đó tiết chế trong ăn uống là điều cần thiết không những cho hợp vệ sinh mà còn là phù hợp với tinh thần Phúc Âm...
2. “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Cám dỗ thứ hai của ma quỷ là tìm cách đưa con người vào tham mê quyền lực và vật chất.
Con người ta thường hay bị cám dỗ về quyền lực và sùng bái, một phần vì để chứng tỏ mình không thua ai, phần khác là vì để thỏa lòng tham vọng của mình với mọi người cho nên không quản ngại gì mà không tìm cách đoạt lấy quyền lực khi cơ hội đến. Có quyền lực thì sẽ có tiền và có vật chất, cho nên ma quỷ thường hay lợi dụng những ngừơi có chức quyền để làm nên công cụ cho sự dữ, nếu những người ấy không có tâm hồn khiêm tốn và yêu thương...
3. “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.
Cám dỗ thứ ba của ma quỷ là thử thách lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Con người ta khi đã có đầy đũ mọi thứ để hưởng thụ thì lại quay về với bản tính kiêu ngạo của mình và nghi ngờ vào Đấng Thiên Chúa toàn năng, họ đem cái giàu có chức quyền của mình ra thách thức Thiên Chúa, họ phủ nhận cái mà họ có không phải tự Thiên Chúa mà đến nhưng là bởi họ làm ra...
Bạn thân mến,
Ma quỷ đã đánh gục thế gian với những cám dỗ trên, nhưng nó lại bị ngã gục trước sự khôn ngoan và can đảm của Đức Chúa Giê-su, chính nó đã lôi kéo rất nhiều người theo nó nhưng lại cúi mặt chạy dài khi cám dỗ Ngài, điều đó cũng đã chứng minh cho tên cám dỗ biết rằng, con người ta ngoài việc ăn uống để sống thì còn có thứ lương thực quý báu hơn nhiều đó chính là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa.
Trong mùa chay này, cám dỗ của ma quỷ sẽ tăng thêm gấp bội trên chúng ta, do đó mà chúng ta cần phải tỉnh thức đề phòng, phải noi gương của Đức Chúa Giê-su : chay tịnh, cầu nguyện và luôn kết hợp với Cha trên trời, có như thế tên cám dỗ sẽ rút lui khi cám dỗ chúng ta, và mùa chay sẽ trở nên mùa hồng ân cho tất cả mọi người.
Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info

Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2025

Mỗi Ngày Một Câu Chuyện

 



30.          TÁN THÀNH NHAN HỒI CHẾT

Có một thư sinh rất lười nhác thường giận dữ vì sách học quá nhiều, một lần nọ đang đọc sách “luận ngữ”, lúc đọc đến tiết Nhan Uyên [1]chết, bèn vỗ tay tán thưởng nói:

-         “Chết rất hay, chết quá đẹp”.

Có người hỏi tại sao, anh ta trả lời:

-         “Nếu ông ta không chết thì lại viết trên Nhan Hồi dưới Nhan Hồi, tôi làm sao đọc hết được, như vậy thì mệt chết tôi luôn hả !”

(Tuyết Đào Hài Sử)

 

Suy tư 30:

        Học trò thì lúc nào cũng ngán bài vở, nhất là gần đến ngày thi, dù có siêng năng hay lười biếng học thì cũng rất lo và hồi hộp. Nhưng học trò giỏi thì không bao giờ chán khi đọc sách, bởi vì họ ý thức được việc đọc sách là việc của sĩ tử.

        Có những người Ki-tô hữu khi đọc sách thánh thì cảm thấy chán ngán, bởi vì họ cứ thấy lập đi lập lại mấy chữ ân sủng, chúc lành, khôn ngoan, khiêm nhường.v.v...mà không thấy những gì là yêu đương với lãng mạn, cũng như không nhìn thấy bối cảnh lâm ly bi đát của câu chuyện, thế là họ cho việc đọc sách thánh là mất thời giờ quý báu của mình. Đọc sách, dù là sách thánh hay sách khoa học, hay các sách văn hóa khác thì cũng luôn giúp ích cho trí tuệ của con người, làm cho họ có tầm nhìn xa hơn về thế giới và trí óc hiểu biết thêm nhiều về kiến thức.

        Đọc sách thánh và các sách đạo đức khác là làm cho đời sống tâm linh của người Ki-tô hữu ngày càng tiến đến sự trọn lành, nó cũng làm cho người Ki-tô hữu nhận ra thánh ý của Thiên Chúa qua từng câu từng chữ trong sách thánh, để họ trở nên con người mới trong ân sủng của Ngài.

        Việc đọc thêm sách để tham khảo, để mở mang kiến thức đối với học sinh lười là một cực hình, nhưng việc đọc sách thánh đối với người Ki-tô hữu là một niềm vui và an ủi, vì trong sách thánh họ tìm thấy nguồn suối ân sủng của Thiên Chúa ban cho họ sự sống đời đời...

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. 
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư) 

[1] Còn có tên là Nhan Hồi, học trò của Khổng Tử (521-490 trước công nguyên).

Nhưng, ai là người thân cận của tôi ?

                   Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

 

 

 

 

 

 

NHƯNG,

AI LÀ NGƯỜI THÂN CN CA TÔI ?

     

 

 

 

 

 

 

 

Li ngỏ:

 

"Nhưng ai là người thân cn ca tôi"[1]là câu hi ca thy thông lut đã hi Đức Chúa Giê-su, mt câu hi mà mi nghe qua, tìm mt chút n tượng cũng chng có, nó ch là mt câu hi rt đi thường; nhưng tht ra nó là mt câu hi cha đy tính nhân bn, và nói theo kiu tu đc nó giúp chúng ta xét mình v vic thc thi bác ái đi vi anh em đng loi, nhng người thân cn ca chúng ta.

"Nhưng ai là người thân cn ca tôi" là mt lot suy tư (10 bài) được gi ý sng đng t nhng tiếp xúc vi anh ch em giáo hu, đi thoi vi nhng anh ch em b xã hi coi là “thành phn bt ho”, và nhng cm nghim suy tư t trong cuc sng.

Xin được chia s vi anh ch em, nhng người thân cn ca nhau, trong Đc Chúa Ki-tô.

 

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

 

 -------------------

 

1. YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN L LUT

 

Mc đ yêu thương thì không có gii hn, không phân bit cao thp, rng hp; nhưng t nó, hai ch yêu thương đã tr thành quan toà phán xét mi mt cá nhân v nhng hành vi ca h đi vi anh em đng loi, người thân cn ca mình[2].

Thánh Phao-lô tông đ đã nói:  “Yêu thương là chu toàn l lut”[3], và mt khi đã chu toàn l lut ri, thì tt c nhng vic làm ca chúng ta đu tr thành hành vi ca bác ái, ca yêu thương.

Lut và l đu được phân bit rõ ràng nơi nhng người có tri thc, có kiến thc. Và trước mt vn đ thc tế như giúp đ “người thân cn” như thế này mình có li lut không, và mình có được ích li gì không ? Cui cùng, h không dám cúi xung cu người b nn nm thoi thóp bên v đường, vì h s li lut, h nghi ng không biết mình có phm lut l không, và thế là sut đi h không th chu toàn l lut được.

Nhưng nhng người Ki-tô hu biết sng Li Chúa thì không phi như thế, khi thc hành công vic bác ái, h không đem l lut ra phân tích đúng sai. Mà trái li, h đem con tim biết xúc đng trước cnh hon nn ca người anh chị em, đem tinh thn yêu thương người thân cn như chính mình ca Đc Chúa Ki-tô mà phân tích: tôi phi giúp đ h vì đây là người thân cn ca tôi, là anh em tôi, đơn gin thế thôi. Và thế là h đã chu toàn l lut hơn các thy tư tế, hơn các thy Lê-vi và hơn c nhng người thông lut.

Mười điu răn Đc Chúa Tri, năm điu lut Hi Thánh, đu là nhng l lut dy con người ta biết ăn ngay lành, kính Chúa, yêu người, không làm thit hi ai…v.v……và các lut l ca các quc gia trên thế gii cũng –mt cách nào đó- đu t Mười điu răn Đc Chúa Tri mà ra, và không mt gii răn hay một lut l nào dy con người ta phi đi ăn cướp, gian dâm, ngoi tình, đánh giết đng loi của mình.

Đúc Chúa Ki-tô khi mang thân phn con người sng trn gian, thì Ngài cũng đã chp nhn l lut ca con người[4]và chính Ngài đã tuyên b: “Anh em đng tưởng Thy đến đ bãi b Lut Mô-sê hoc li các ngôn s. Thy đến không phi là đ bãi b, nhưng là đ kin toàn”[5].

“Kin” là lp, là xây dng …

“Toàn” là hoàn toàn, đy đ, toàn b

“Kin toàn” có nghĩa là làm (xây dng) cho đy đ hơn, hoàn toàn hơn và có ý nghĩa hơn. Đức Chúa Giê-su không bãi b, nhưng là đ kin toàn đ cho l lut có được b mt mi hơn. Và chính Ngài đã không ngn ngi trách c các kinh sư và người Pha-ri-siêu v nhng phong tc truyn thng đã in sâu vào trong tâm não ca h, mà h cho là l lut ca Thiên Chúa, ca cha ông. Chính Đc Chúa Ki-tô đã tr li cho nhng người Pha-ri-siêu và các kinh sư đã bt b Ngài khi h thy các môn đ ca Ngài không ra tay trước khi ăn: “Còn các ông, ti sao các ông da vào truyn thng ca các ông mà vi phm điu răn ca Thiên Chúa ?”[6]. Các ông bit phái và các kinh sư đã chú trng đến nhng tp tc truyn thng hơn là tuân gi các l lut ca Mô-sê, h coi nhng tp tc ca cha ông như là l lut ca Thiên Chúa, ra tay hay không ra tay trước khi ăn, đó không phi là l lut ca Thiên Chúa, nhưng ch là thói quen cho hp v sinh thế thôi. Cái chính yếu và quan trng nht chính là phi ra cho sch tâm hn đ xng đáng là người biết tuân gi l lut ca Thiên Chúa cách tt lành.

Và vì ch chú trng đến hình thc bên ngoài, cho nên các viên chc cao cp trong đo Do thái thi by gi, đã không ngn ngi bước qua thân xác người b nn mà đi, dù người b nn y là đng hương ca h, và thế là h đã không chu toàn l lut được cách tt lành, và có th nói, nhng phong tc tp quán ca h, chính là “người thân cn” ca h vy.

Đc Chúa Giê-su đã kin toàn l lut, không nhng đ cho l lut tr li “khuôn mt” đp đ, hoàn tr li ct cách tinh thn tích cc ban đu ca nó, mà còn làm cho nó tr thành mi tương quan gia người vi người cách hoàn ho và thân thin hơn, Ngài nói: “Anh em đã nghe lut dy người xưa rng: ch giết người. Ai giết người thì đáng b đưa ra toà. Còn Thy, Thy bo cho anh em biết: ai gin anh em mình, thì phi b đưa ra toà. Ai mng anh em mình là đ ngc, thì phi b đưa ra trước thượng hi đng. Còn ai chi anh em mình là quân phn đo, thì phi b la ha ngc thiêu đtng …”[7].

Như thế là đã rõ, lut dy ch giết người, vì giết người là trng ti phi b đưa ra toà, nhưng lut không có dy người ta đng gin anh em mình, đng mng anh em mình là đ ngc, không dạy người khác đừng bội nhọ danh dự của tha nhân, đừng vu họa cáo gian.v.v...và vì thế, trong cuc sng thường ngày, dù người ta không ai cm dao, xách súng bn giết anh em như là k thù, (nhưng họ vẫn cứ thóa mạ, cáo gian người anh em) cho nên họ vẫn cứ lên mt kênh kênh kiu kiu tuyên b vi người hàng xóm rng: cuc đi tôi không h giết người, không h cm dao phay do nt anh em...

Không cm dao chém người, không xách súng bn người, nhưng có biết bao nhiêu ln trong cuc sng đi thường chúng ta chi mng anh em rằng: thng cha ny ma cô, con m đó đĩ thõa; biết bao ln chúng ta nói hành nói xu người anh em, vu oan giá ho cho người khác, đó không phi là “giết người không gươm dao” sao ? Đc Chúa Ki-tô đã kin toàn l lut như thế nào: lut dy ch giết người, còn Đức Chúa Giê-su dy ch ghen ghét người[8]; lut dy ch ngoi tình, còn Đức Chúa Giê-su dy ai nhìn người ph n mà thèm mun, thì trong lòng đã ngoi tình ri[9]; lut dy đng th tht, còn Đức Chúa Giê-su dy có thì nói có, không thì nói không[10]...

Lut dy nhng gì c th, “s đã ri” mi là ti, ch giết người, ch ngoi tình, ch bi th, đu là nhng ti c th mà trong cuc đi ca con người ít ai phm đến, bi vì xét theo lương tâm, thì nhng lut y đu được khc ghi trong lòng ca mi người ri, và trên mt khía cnh nào đó, lut đã làm cho người ta xa cách nhau hơn nếu xét nét tng ch bên ngoài, và không còn thy được “người thân cn” ca mình trong cuc sng. Nhưng Đc Chúa Ki-tô đã đến trong thế gian, và Ngài đã làm cho gia l lut và tình cm con người có mt mi tương quan gn bó, thân thin, và mi người tr nên thân cn ca nhau hơn.

Tr nên người thân cn ca nhau, bi vì Đc Chúa Ki-tô đã tuyên b: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thy, và ai đón tiếp Thy là đón tiép Đng đã sai Thy ”[11]. Do đó, khi tôi đón tiếp ngưòi mà tôi gp g trong ngày, người mà tôi cùng vi h cùng làm chung mt công xưởng, hoc người mà tôi ch gp qua đường nói vu vơ vài chuyn nh, tt c h đu là hình nh ca Đc Chúa Ki-tô, cho nên khi tôi đón tiếp h, thì chính tôi đã đón tiếp Đc Chúa Ki-tô, tc là đón tiếp “người thân cn” ca tôi vy.

Lut mi ca Đức Chúa Ki-tô là như thế, chính Ngài đã đem Ngài ra “thế thân”, đ bo đm cho nhng ai đã vì Ngài mà thi hành lut yêu thương vi “người thân cn”: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thy, và ai đón tiếp Thy là đón tiếp đng đã sai Thy”[12], và như thế Ngài đã xác đnh rõ ràng: l lut là đ cho tình người gia người vi nhau càng tràn đy hơn, và danh Thiên Chúa được vinh quang hơn nơi các loài th to do Ngài to dng: “Ngươi phi yêu mến Đc Chúa, Thiên Chúa ca ngươi, hết lòng, hết linh hn và hết trí khôn ngươi. Đó là điu răn ln nht và điu răn đng đu. Còn điu răn th hai, cũng ging điu răn y, là: ngươi phi yêu người thân cn như chính mình” [13].

“Yêu thương là chu toàn l lut” cũng có nghĩa là đem nhng câu nhng ch trong l lut, biến thành hành đng c th trong đi sng hàng ngày, mà không làm tn thương đến tính cách, nhân phm ca người anh em, ch em thân cn. Cũng có nghĩa là quyết tâm thc hành l lut, không vì tình cm cá nhân mà làm tn thương đến cng đoàn[14], hoc vì yêu thương theo cm tính t nhiên mà làm ri lon trt t, n nếp đã có trong cng đoàn. Bi vì khi tuân gi l lut thì đã bc l hành vi yêu thương, và khi yêu thương là đã chu toàn l lut ri vy.

Đc Chúa Ki-tô đã nghiêm khc lên án các kinh sư và người Pha-ri-sêu gi hình[15], không phi vì Ngài ghét h nhưng là vì nhng thói gi hình ca họ, đã làm cho người ta nhìn l lut ca Thiên Chúa cách méo mó, và vic tuân gi l lut là cht thêm gánh nng cho h[16]. Nhưng đng thi Đức Chúa Giê-su cũng đã nh nhàng dy bo các môn đ: “Trong anh em, người làm ln hơn c, phi làm người phc v anh em[17]. Vì hơn ai hết, Đức Chúa Giê-su đã hiu rõ tính cht ca yêu thương chính là phc v, cũng như Con Người đến không phi đ được người ta phc v, nhưng là đ phc v và hiến dâng mng sng đ làm giá chuc muôn người[18].

Phc v và hiến dâng, chính là yêu thương cách trn ho mà Đức Chúa Giê-su đã giảng dạy và đã thc hành trong cuc đi trn thế ca Ngài. Và như thế chính Ngài đã chu toàn l lut, vì Ngài đã yêu thương, và yêu thương đến cùng, cho đến ni bng lòng chết trên thp giá[19].

Đức Chúa Giê-su đã chu toàn l lut, vì Ngài đã yêu thương hết mình.

Là những môn đ ca Đức Chúa Giê-su, nhng người tín hu hôm nay đã c gng, đang c gng và s c gng thc hành li dy ca thánh Phao-lô tông đồ dạy: “Hãy làm tt c nhng gì anh em có th làm được, đ sng hoà thun vi mi người[20], và khi đã thực hành được lời dạy đó, thì chính là chu toàn lề luật yêu thương của Đức Chúa Giê-su ri vy.

 

2. PHC V LÀ YÊU THƯƠNG.

 

Trước ba ăn cui cùng vào chiu th năm, trước khi đi chu chết, Đức Chúa Giê-su đã ra chân cho các tông đ, đây là hành vi phc v[21], và chính Ngài đã nói vi các tông đ sau khi đã ra chân cho các ông: “Vy, nếu Thy là Chúa, là Thy, mà còn ra chân cho anh em, thì anh em cũng phi ra chân cho nhau …”[22]. Ngài đã tr nên người thầy và người anh em ca mi người đ yêu thương và phc v h, đ chia s nhng vui bun, sung sướng và đau kh ca kiếp người vi h. Và cui cùng trong thân phn con người, Ngài đã tr nên v cu tinh nhân loi khi b treo trên thp giá, như ông Mô-sê đã giương cao con rn trong sa mc, Con Người cũng s phi được giương cao như vy, đ ai tin vào Người thì được sng muôn đi[23].

Thánh Phao-lô đã làm người phc v Đc Chúa Ki-tô gia các dân ngoi[24], và Ngài đã hãnh din nói: “Vy, trong Đc Ki-tô Giê-su, tôi có quyn hãnh din v công vic phc v Thiên Chúa ”[25].

Thánh Damien De Veuster linh mục thuc dòng Thánh Tâm Đức Chúa Giê-su và Đức M Ma-ri-a (người B) sau mười năm phc v người cùi hòn đo Molokai thuc qun đo H Uy Di đã lây bnh cùi, và ngài đã chết trong s tiếc thương ca h, ngài đã yêu thương và đã phc v cho đến chết, chết trên mnh đt bt hnh, đ tr thành nim hnh phúc cho nhng người cùi bt hnh trên hòn đo ny.

Linh mc Vincent Lebbe (người B) đã vì người Trung Quc mà phc v, và phc v cho đến chết, câu nói ni tiếng ca ngài đáng đ cho chúng ta suy tư khi làm công tác truyn giáo, và phc v người anh em đng loi: “Không nên nhìn mũi ca tôi, không nên nhìn mt ca tôi, nên nhìn thu lòng thành ca tôi, tôi là mt người Trung quc chính hiu”. Câu nói này đã th hin được tâm hn ca ngài –tâm hn truyn giáo- đã dành trn cuc đi phc v cho người Trung quc và Giáo hi Trung quc.

M thánh Tê-rê-xa Cal-cut-ta (người An-ba-ni) đã nhìn thy “người thân cn” ca mình chính là nhng người dân nghèo khó, bt hnh ca n Đ, hay nói cách khác, m đã nhìn thy Đức Chúa Giê-su trong nhng người nghèo kh y, nơi mà s phân bit giai cp được hp thc hoá bng nhng đng cp xã hi cũng như tôn giáo, đã làm cho nhng người thuc đng cp nghèo, càng nghèo nàn càng kh s hơn, và m đã phc v nhng con người bt hnh y cho đên hơi th cui cùng.

Phc v là yêu thương, là quên đi cái tư tưởng b thí khi giúp đ người anh em, nhưng luôn t nhn mình như là người thân cn ca người anh em mà mình đang phc v, đó chính là tâm tình ca người môn đ Đc Chúa Ki-tô vy.

Không mt thánh nhân nào mà không có “thành tích” khi còn sng, mà thành tích ni bt nht ca các ngài chính là phc v tha nhân. Đng cơ phc v nơi các ngài chính là yêu thương, vì các ngài đã nhìn thy được hình nh ca Đc Chúa Ki-tô đang đau kh nơi người anh em, các ngài đã quên đi thân phn ca mình, đ phc v Đc Chúa Ki-tô nơi người thân cn ca mình.

-      Phc v mà không yêu thương, thì như quan h gia đy t và ch nhân ông, gia h có mt bc tường giai cp ch-t ngăn cách, và mc đích ca h chính là vì quyn li cá nhân.

-      Yêu thương mà không mun phc v thì ch là la di Thánh Thn, bi vì, chúng ta đng yêu thương bng đu môi chót lưỡi, nhưng phi yêu thương cách chân tht và bng vic làm[26], bi vì hoa qu ca yêu thương chính là phc v, mà phc v người thân cn trong khiêm tn chính là ân sng ca Thánh Thn ban tng, đó cũng chính là du hiu đ người ta nhn ra mình là người môn đ đích thc ca Đc Chúa Ki-tô[27].

Có nhng người khi phc v ch mong được mt tiếng khen ca mi người, và h đã được mi người tr công bng nhng tiếng khen.

Có nhng người phc v anh em ch vì lòng thương hi, và h đã được tho mãn khi người ta cám ơn mình.

 

Có nhng người khi phc v thì vi cung cách ca mt ch nhân, và h đã được người ta kính n, s st khi thưa bm.

Nhưng cũng có nhng người phc v, không vì tiếng khen, không vì thương hi, không vì đ được mi người kính n, nhưng vì h có tm lòng nhân hu, yêu thương ca Đc Chúa Ki-tô. H nhìn thy Đc Chúa Ki-tô đang đau kh trong người anh em đau kh, h nhìn thy Đc Chúa Ki-tô hnh phúc nơi người anh em hnh phúc ca mình, họ đã phc v người anh em như phc v Đc Chúa Ki-tô vy, và h đã được tình thương ca mi người, h đã tr nên người thân cn ca “người thân cn”. Bi vì khi phc v như thế, thì chính h đã tr thành mt thành viên trong gia đình ca Đức Chúa Giê-su, vì phàm ai thi hành ý mun ca Cha tôi, Đng ng trên tri, người y là anh ch em tôi, là m tôi[28].

 

3.YÊU THƯƠNG LÀ HI SINH.

 

đâu có yêu thương thì đó có hi sinh, và hi sinh là kết qu ca s yêu thương chân tht. Có th có hi sinh mà không có yêu thương, nhưng không th có yêu thương mà không có hi sinh, cho nên có th nói hi sinh chính là hoa qu ca yêu thương vy.

Vì yêu thương nhân loi nên Chúa Cha đã hi sinh Con Mt ca mình là Đức Chúa Giê-su.

Vì yêu thương nhân loi ti li, nên Đức Chúa Giê-su đã hi sinh mng sng ca mình đ cu chuc nhân loi khi ách thng tr ca sa-tan, đu mi ca ti li. Và hi sinh đã tr thành điu kin ca tình thương chân tht đi vi người thân cn, và khi Đức Chúa Giê-su b đóng đinh trên thp giá, Ngài đã cu xin ln tiếng vi Chúa Cha: “Ly Cha, xin tha cho h, vì h không biết vic h làm”[29]. Thc ra không phi các kỳ mc ca người Do thái, các thượng tế, các kinh sư và nhng người quá khích khác không biết vic h làm đâu, h biết quá đi ch, nhưng chính vì đ “bo v” l lut ca cha ông khi phi b “tên làm lon phá hoi”, mà h đã lên án t cho Đức Chúa Giê-su, và như thế chính h đã li l lut trước: “ch giết người”.

Vy mà, vì yêu thương mà Đức Chúa Giê-su đã bào cha cho h trước toà án công thng ca Thiên Chúa, và giá tr hi sinh mng sng ca Ngài đã tr thành quan toà tuyên b trng án cho nhân loi ti li, và cho c nhng người lên án t cho Ngài na, nếu h biết nhìn nhận vic mình làm là sai trái, mà hi ci ăn năn.

Hy sinh là hiu qu ca yêu thương chân chính, hay nói cách khác, văn hoa hơn mt chút: yêu thương là cây, và hoa qu chính là nhng vic làm hi sinh vy.

Chàng và nàng yêu thương nhau, tình yêu ny người ta có th ly “thước” đ đo được, thước đây chính là s hi sinh ca chàng dành cho nàng, và ca nàng dành cho chàng. Cây và qu tình yêu ny cũng đp tht đy, nhưng có th nói, đây là mt tình yêu ích k, tình yêu có qua có li, và trong mt cách nhìn nào đó, chàng và nàng đu c gng làm cho đi tượng ca mình thy được tình yêu ca mình dành cho h bng nhng hi sinh nhiu ít ca mình, đây cũng là mt tình yêu t nhiên ca con người.

Đức Chúa Ki-tô mun người môn đ ca mình tiến xa hơn mt bước trong tình yêu liên đi gia người vi người, bng mt lnh truyn :

“Thy ban cho anh em mt điu răn mi

là anh em hãy yêu thương nhau ;

như Thy đã yêu thương anh em.”[30].

Yêu thương nhau như Đức Chúa Giê-su yêu thương chúng ta, mà tình yêu ca Ngài đi vi chúng ta không phi là mt tình yêu như cha m yêu thương con cái, cũng không phi như chàng và nàng yêu thương nhau, nhưng là mt tình yêu vượt ra khi mi tính toán ca con người: hiến dâng mng sng vì bn hu của mình[31]. Đó là mt hi sinh to ln mà không mi khi óc khôn ngoan tài trí nào suy ra hay nghĩ ti, ch có Thiên Chúa là tình yêu, vì yêu thương nhân loi ti li nên mi nghĩ ra phương pháp vĩ đi mà mu nhim này, mu nhim tình yêu ny được thc hin nơi bn thân Con Mt ca Ngài là Đc Chúa Giê-su, và nó đã tr thành mt công thc thc hành trong đi sng ca những người Ki-tô hu: Yêu thương = Hi sinh + Thp giá.

Công thc ny cũng được gii thích như thế ny: có nghĩa là khi tôi cúi xung đ an i, giúp đ “người thân cn” (yêu thương), thì tôi phi hao tài tn ca, mt thi gi quý báu ca mình (hi sinh), và phi quên đi nhng lut l đang ràng buc tâm hn tôi trước nhng đau kh ca anh ch em, và như thế tôi s b người ta chê trách là không tuân gi l lut (thp giá). Đó chính là yêu thương “người thân cn” như chính mình vậy.

“Như Thy đã yêu thương anh em”, hay nói cách khác “như Thy đã hi sinh cho anh em”, cũng là nói lên mt con tim biết rung đng trước nhng đau kh ca người anh chị em mà sn sàng hi sinh tt c thi gi, tin bc, hi sinh nhng gì mình có như người Sa-ma-ri nhân hu, đ anh chị em được an i và đ h cm thy cuc sng có ý nghĩa hơn. Yêu thương và hi sinh phi là ch em sinh đôi trong tâm hn ca người Ki-tô hu, mc dù nó là hai cm t khác nhau, nhưng luôn luôn hin din bên nhau. Khi nói đến yêu thương, thì hi sinh cũng đng thi có mt k bên đ làm cho hành đng yêu thương được phong phú di dào hơn, cao quý hơn, và thiêng liêng hơn. Cũng như Đc Chúa Ki-tô đã tr nên mu gương tuyt vi ca lòng nhân hu, Ngài đã dang tay ôm p tt c mi người vào trong trái tim vô cùng yêu thương ca Ngài, và tình yêu thương vô cùng này đã được th hin bng s hi sinh vĩ đi: hi sinh mng sng cho người mình yêu[32], người yêu đó chính là mi mt người trong chúng ta, là nhân loi ti li, và cũng là nhng “người thân cn” ca Đc Chúa Ki-tô.

Do đó, hi sinh chính là thước đo lòng nhân ái ca mình đi vi “người thân cn”, là mc đ yêu thương được th hin trong hành vi, ngôn ng ca mình đi vi anh chị em đng loi, và cũng là hiu qu ca vic thi hành lut mi -lut yêu thương- nơi bn thân ca chúng ta vy.

 

4. AI LÀ NGƯỜI THÂN CN CA TÔI ?

 

Đức Chúa Giê-su không nói: cha m ca tôi là người thân cn ca tôi.

Đức Chúa Giê-su không nói: anh ch em ca tôi là người thân cn ca tôi.

Đức Chúa Giê-su cũng không nói: bà con bn bè thân hu ca tôi là người thân cn ca tôi…

Và đ cho đám đông người đang nghe Ngài ging, và đc bit là đ cho thy thông lut “m rng nhãn gii” v cụm t “người thân cn”, Đức Chúa Giê-su đã đưa ra mt câu chuyện sng đng đ tr li câu hi “ai là người thân cn ca tôi”, câu chuyện sng đng y được tóm gọn như thế ny: người Do thái b nn đang nm thoi thóp bên v đường, có thầy tư tế đi qua, và thầy Lê-vi cũng đã đi qua nhưng ngoãnh mặt làm ngơ đi luôn, cuối cùng người Do Thái bị nạn ấy đã được k thù không đi tri chung ca mình -người Sa-ma-ri- giúp đ cu nn[33].

Trong câu chuyn d ngôn ca Ngài, Đức Chúa Giê-su đã không đưa ra nhân vt b nn là người Sa-ma-ri, và người ra tay hào hip cu người b nn là người Do thái, nhưng chính Ngài đã đ cao lòng nhân hu ca mt con người mà người Do Thái coi h là “quân phn đo” Sa-ma-ri. Và như thế, chúng ta có th nhìn ra người Do Thái và người Sa-ma-ri đi din cho hai loi người: loi người tuân gi l lut ca cha ông tng nét tng ch bên ngoài, và loi người hi nhp thích nghi vi văn hoá đa phương, không câu nệ lề luật khi làm việc bác ái.

 

Người Do thái luôn t hào mình là nhng người thi hành trit đ l lut ca Thiên Chúa mà khinh b, coi thường người Sa-ma-ri như nhng quân phn đo, hi nhp vi phường ngoi đo, và thế là h tr thành nhng k thù không đi tri chung vi nhau. Cũng vy, dưới con mt ca nhng người tín hu “ngoan đo” tuân gi l lut tng ch tng nét (đến ni t cho mình đã phm ti trng khi bt tay “bonjour” vi mt người đàn ông, mà không dám lên rước l), thì nhng cô gái đng đường đi khách, nhng người hào hoa phong nhã, nhng tên bt ho.v.v…đu là nhng người đáng phi sa ho ngc hết thy !

Đức Chúa Giê-su đã làm cho nhng người Pha-ri-siêu, các kinh sư và thy thông lut tht vng, vì “người thân cn” mà Ngài nói đây, không ai khác hơn chính là người Sa-ma-ri, người mà h ghét cay ghét đng và là k thù ca h, người mà h cho là lăng ch vi quân ti li.

Và chính chúng ta, ngày hôm nay, cũng không hơn gì nhng người bit phái và các kinh sư ấy, khi chúng ta t hào mình là người không có k thù, không có ghét ghen ai. Vâng, trong cuc sng đi thường ca chúng ta thì có lẽ là như thế, chúng ta sng an vui t ti, chúng ta vn thong dong tham d thánh l sáng, đc kinh ti, đi làm vic thiện.v.v…nhưng lm lúc chúng ta nhìn “không sa mt” nhng người mà chúng ta cho là nhng quân ti li; và lm lúc chúng ta v ngc xưng tên vi nhng người mà chúng ta gi là “tà ma ngoi đo”, nhng người có thành tích bt ho rng: “Cái quân khn nn , nếu tao là Chúa, tao s vn hng chúng bây hết thy”, và khi tuyên b những lời như thế, thì chúng ta đã tr thành người Do Thái hon nn nm bên đường ch chết, hay ít na, cũng ngt ngư na sng na chết ch người qua đường cu giúp. Cái hon nn ny ca chúng ta đó không phi là nơi thân xác, nhưng là trong tâm hn, mt tâm hn đã b nhng thành kiến ca vic tuân gi l lut cách máy móc bên ngoài làm cho nó tr nên chai cng, mà không nhy cm trước nhng kh đau ca anh chị em đng loi là người thân cn ca mình, cho nên khi nhìn mi vic xy ra, chúng ta đu thy là ti, là vi phm l lut.

Chính cái hon nn trong tâm hn ny, đã được người mà by lâu nay chúng ta cho là k thù ca mình, là người Sa-ma-ri “phn đo” đến cu, nơi h lòng nhân hu được bc l ra vượt khi ranh gii k thù, đ cúi xung ôm người b nn lên và đem đi cu cha.

Hành đng cúi xung ca người Sa-ma-ri đã rút li khong cách gia hai k thù, và khi ẳm người b nn trong tay thì khong cách ny không còn na, và k thù không đi tri chung ny đã tr nên “người thân cn” ca người Sa-ma-ri, người mà thường ngày tôi nhìn “không sa mt”.

Chính khi chúng ta t nhn mình là người tt lành, tuân gi l lut, làm vic bác ái nhưng li xa lánh nhng người ti li, nhng người mà chúng ta cho là vô đo, thì chính lúc y, chúng ta đã tr thành người xa l vi Thiên Chúa. Tr nên người xa l vi Thiên Chúa, bi vì Con Mt ca Ngài là Đc Chúa Ki-tô đã không ngn ngi chia s thân phn con người yếu hèn vi chúng ta, đ cm thông, đ cu chuc chúng ta khi ách thng tr ca ti li, đ tr li cho nhân loi chúng ta phm giá cao quý đã đánh mt vì ti nguyên t: làm con ca Thiên Chúa. Vì vậy, tất c nhng người trong thiên h cũng có quyn được hưởng hng ân vô giá y, cũng có quyn tr thành “người thân cn” ca Thiên Chúa, trong Đc Chúa Ki-tô, vì Ngài đến không phi đ kêu gi người công chính, mà đ kêu gi người ti li[34]. Vy thì chúng ta là ai mà dám khinh b h, ngăn cn h -nhng người mà chúng ta cho là ti li- tr thành con cái ca Thiên Chúa ch ?

“Ai là người thân cn ca tôi” không ch là nhng k thù ca tôi như người Do thái vi người Sa-ma-ri, nhưng “người thân cn” ca tôi cũng là nhng người hàng xóm lân cn, nhng người sát bên phòng ca tôi thường hay dòm ngó đến nhng vic bên trong gia đình ca tôi, đ ri đi nói cho c làng c xóm biết, đành rng như thế là không tt, là tc mch, là bt lch s. Nhưng nếu chúng ta c nhìn h bng nhng ánh mt không my thin cm, thì đúng h không phi là người thân cn ca tôi, mà ch “thân cn” không phi là k cn bên mình hay sao ? Người Vit Nam chúng ta có câu tc ng : “Bán bà con xa, mua láng ging gn ” đ nói lên ý nghĩa đo lý ca “người thân cn” ny, mà trên mt phương din t nhiên nào đó, ít na là v mt đo đc, cũng rt gn vi giáo lý yêu người ca Đức Chúa Giê-su đã dạy.

Trong mt khu ph n qun Nht thành ph Sài Gòn có mt đám ho hon, trong cơn ht hong mnh ai ny lo, không ai đ ý đến mt thanh niên đang xông xáo trong khói la mù mt, bt chp nguy him đ khuân vác đ đc cho mt gia đình bà lão nghèo, sau khi đám la được dp tt, người ta hi anh vi bà lão y có quan h gì không, anh ta tr li tnh queo: “Không quen biết gì c, bà là người hàng xóm ca tôi mà”. “Bà là người hàng xóm ca tôi” cũng có nghĩa là bà chính là “người thân cn” ca tôi vy, và như thế, người thanh niên ny đã hiu rõ l lut, thc hành l lut (mc dù anh ta không phi là tín hu công giáo) đúng như tinh thn ca Đức Chúa Giê-su dạy: yêu thương người thân cn như chính mình.

“Ai là người thân cn ca tôi” trong mt xã hi hỗn lon ny, mt xã hi mà nhìn đâu cũng thấy bo lc và bt công; mt xã hi mà “dù thp đèn sáng” cũng tìm không ra được ch tín gia người vi người, đúng là mt thách đ ln lao cho nhng người Ki-tô hu, nhng người được mi gi hãy yêu thương người thân cn như chính mình[35].

Không ai yêu thương người khác như chính mình c (k c cha m yêu thương con cái, v chng yêu thương nhau) nếu không có mt tâm hn tràn đy tình yêu ca Thiên Chúa. Xã hi ri ren, con người không còn tin tưởng vào nhau, thì nhng người Ki-tô hu li càng phi biết yêu thuơng h như “người thân cn”, đem tm lòng nhân hu tt lành ca người Sa-ma-ri trao tng cho h, cúi xung vi h, nm ly tay h, đ khong cách thù hn không còn na. Xã hi lon, con người mt tin tưởng nhau, vì không ai “biu din” cho h thy h chính là nhng người thân cn ca chúng ta trong Đức Chúa Giê-su.

Đc Chúa Ki-tô, trong cách giáo dc ca Ngài, đã đi t vòng ngoài đến vòng trong, t xa đến gn, t k thù đến người hàng xóm láng ging, t người không quen biết đến cha m bà con h hàng, đ cho chúng ta nhìn ra được “người thân cn” ca mình là tt c mi người, không phân bit xa gn. Bi vì trong cuc sng đi thường, chúng ta thường có khuynh hướng khoe khoang: “Tôi không có k thù, vì tôi ăn rt có hu”. Vì không có k thù đ thc hin hành vi cu giúp, tha th kiu quân t, cho nên chúng ta quên mt nhng anh chị em chung quanh chúng ta đang cn s giúp đ ca mình, h cũng là nhng người thân cn ca chúng ta vy.

 

5. “NGƯỜI THÂN CN” CA THY TƯ T

 

Không ai nm gi l lut tôn giáo cách chính xác cho bng các thy tư tế, cũng như không ai nghiêm chnh thi hành l lut cách răm rp cho bng các thy tư tế. Hiu rõ l lut cách chính xác, thi hành l lut cách răm rp, cho nên các thy tư tế đã không nhìn thy người đng hương b nn đang nm thoi thóp ch chết bên v đường. Các thy tư tế ch biết tuân gi l lut cho “trn ho”, nhưng các thy đã quên mt cái làm cho l lut nên trn ho, chính là tâm hn yêu thương hướng thiện ca mình, bi vì không mt người có tâm hồn yêu thương hướng thin nào, mà lại không xúc đng trước hon nn ca anh chị em.

L lut không phi là cái gông cùm đ xiết cht tâm hn ca con người, không cho con người thi hành điu thin; l lut cũng chng phi là gánh nng đè trên vai ca con người, không cho con người cúi xuông nâng đ người anh chị em đang b nn bên v đường đng lên. Nhưng trái li, l lut được đt ra vì con người đ con người t do làm điu thin, thi hành bác ái và sng đúng vi bn phn ca mình. “Người thân cn” ca thy tư tế, mc dù trong bài d ngôn[36] (Lc 10, 29) Đức Chúa Giê-su không đ cp đến, nhưng qua thái đ vi vàng, hp tp và tránh qua mt bên mà đi khi thy người b nn nm bên v đường của thầy tư tế và thầy Lê-vi, thì cũng cho chúng ta thy được người hon nn, người bt hnh trong xã hi không phi là người thân cn ca họ, hay nói cách chính xác hơn, vì “bn” tuân gi l lut cho trn ho, nên thy tư tế và thầy Lê-vi đã không nhìn thy người anh em b nn đang nm thoi thóp bên v đường.

Đi đ cho kp gi c hành vic tế l Thiên Chúa mà không cu giúp người b nn nm bên v đường, thì dù cho thy tư tế tế l c ngày, đc hàng trăm khoản l lut, cu khn c ngàn ln thì cũng không được Thiên Chúa chp nhn, bi vì các thy tư tế và Lê-vi đã không đem chính tâm hn ca mình mà hiến tế cho Thiên Chúa, ging như các con buôn ma giáo, hàng hoá ca h được bc bên ngoài nhng màu sc đp đ, nhưng bên trong thì hàng đã quá hn, xu xí và không còn cht lượng. Các v tư tế này ch dâng lên cho Thiên Chúa nhng l vt được bao bc bi dáng v tuân gi l lut bên ngoài, răm rp tng nét tng ch. Mà ca l đp lòng Thiên Chúa nht không phi là mt tâm hn lương thin, nhân t biết yêu thương người thân cn như yêu thương chính mình sao?[37] (Mt 9, 13).

Tt c lề lut ca Mô-sê và các sách ngôn s đu gói gọn trong hai điu răn ny: kính mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cn như chính mình[38](Lc 10, 27).

Kính mến Thiên Chúa thì ai cũng có th làm được, và đc bit các thy tư tế phi st sng hơn mi người, bi vì nói theo ngôn ng ca loài người, người kính mến Thiên Chúa trước tiên chính là các tư tế, vì chính h là nhng người được đt lên đ thay mt toàn dân mà tế l cho Thiên Chúa, cho nên -theo cách nhìn ca con người- đó là vic làm ca các thy tư tế, còn kính mến Thiên Chúa nhiu hay ít, thì chng ai đo lường được mc đ kính mến Thiên Chúa nơi h. Nhưng”yêu thương người thân cn” thì không cn chn ai đ thay mt c, ai cũng có th thc hành được, “người thân cn” ca các thy tư tế chính là nhng giáo hu ngoan đo, nhng người siêng năng lui ti đền thánh, nhng người luôn làm theo ý ca các thy, nhng người cùng “phe” vi các thy. Nhng “người thân cn” ny được các thy tư tế coi trng đặc bit hơn nhng người thường ra mt chng đi mình, vì h không chu được thái đ phân bit “đây là người thân cn ca tôi” nơi các thy tư tế.

Đc Chúa Ki-tô khi đưa ra d ngôn “người Sa-ma-ri tt lành”[39] (Lc 10, 29-36), t hn Ngài cũng nhm đến nhng tư tế ca thi Tân Ước, mà chính Ngài là v tư tế ti cao đã chu toàn l lut cách trn ho, không như các thy tư tế thi y ch gi lut răm rp, cng nhc theo tng ch vô tri trên sách lut.

Trong toàn b sách Phúc Âm, “người thân cn” ca v Tư Tế ti cao ny thuc đ mi hng người trong xã hi, không phân bit mt ai, không phân bit giai cp tư sn hay giai cp vô sn, cũng chng phân bit màu da chng tc, nhưng có l nhng người bt hnh b xã hi b rơi, b người ta ht hi, đu là nhng “người thân cn” đc bit nht ca Ngài. Ngài là v tư tế, mà như trong thư gởi tín hữu Do Thái đã nói, là v Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tng tri[40] (Dt 4, 14 ), v Thượng Tế đã biết cm thương ni yếu hèn ca chúng ta[41] (Dt 4, 15). Vì cm thương nhng ni yếu hèn ca chúng ta nên Đức Chúa Giê-su đã vâng phc Thiên Chúa Cha, mc ly thân phn con người như chúng ta[42] (Pl 2, 7) ngoi tr ti li, và Ngài đã tr nên v tư tế dâng lên Thiên Chúa Cha ca l hoàn ho tinh tuyn đp lòng Chúa Cha nht, chính là bản thân của Ngài. Vì thế, Đc Chúa Giê-su Ki-tô va là tư tế va là ca l đn ti cho nhân loi, và đã tr nên “người thân cn” ca mi người.

Ngài cũng là v tư tế làm trung gian gia Thiên Chúa và nhân loi, là Đng bàu cha nhng ti li ca nhân loi trước mt Thiên Chúa Cha, cho nên, đi vi Ngài, c nhân loi đu là “người thân cn” ca mình, bi vì Ngài là thượng tế muôn đi theo phm trt Men-ki-xê-đê[43] (Dt 5, 6), cho nên nhng “người thân cn” ca Ngài cũng s nhn được nơi Ngài lòng thương xót vô biên mà không mang mc cm là k b mang ơn, như h đã nhn được s giúp đ nơi con người thế gian.

V tư tế ca Tân Ước, hoàn toàn khác xa vi các thy tư tế ca cu ước: cu ước thì tm thi, và v tư tế ca thi cu ước ch thay mt toàn dân (dân Israel) đ tế l Đc Chúa mi năm mt vài ln trong nhng dp như hy l kỳ an[44] (Lv 3, 1-17), l t ti[45] (Lv 4, 1…), l đn ti[46] (Lv 7, 1…). Tân Ước thì vĩnh vin, và các v tư tế ca Tân Ước –linh mục- thì không nhng thay mt toàn th nhân loi đ tế l Thiên Chúa, mà còn thay mt Thiên Chúa đ tha hoc cm buc ti nhân loại dưới đt ny[47](Mt 16, 19), các ngài là nhng v tư tế được chn trong s người phàm, và được đt lên làm v đi din cho loài người[48]…(Dt 5, 1). Cho nên, hơn ai hết, các v tư tế ca Tân Ước hiu rõ nhng bt hnh ca anh chị em, ca nhng người b xã hi b rơi, và coi h chính là nhng “người thân cn” của mình như Đc Chúa Ki-tô đã không ngn ngi chp nhn li chê bai ca người bit phái: “Sao Thy các anh li ăn ung vi bn thu thuế, và quân ti li như vy ?[49](Mt 9, 11), hoc như nhng li xm xì ca mi người: “Nhà người ti li mà ông y cũng vào tr[50](Lc 19, 7) đ thông cm yêu thương và tha th.

“Người thân cn” ca các tư tế Tân Ước, không phi là nhng người siêng năng đến nhà th dâng l, hay nhng người thường quan tâm đến cuc sng (ca) v tư tế ca mình. “Người thân cn” ca các tư tế Tân Ước cũng không phi ch riêng bit là nhng người bt hnh, b xã hi b rơi, nhưng là tt c mi người, người hnh phúc cũng như người bt hnh, k giàu có cũng như người nghèo, vì các tư tế ca thi Tân Ước được chn đ tr thành “người thân cn” ca mi người, có nghĩa là đi din cho Đức Chúa Ki-tô để tr nên mt “người trung gian” gia Thiên Chúa và con người, qua s đt tay và xc du tn phong ca Giáo Hi.

Hơn hai ngàn năm qua, trên cuc hành trình v Nước Tri cu Giáo Hi Công Giáo, các tư tế ca Tân Ước đã dn dn tìm li được “người thân cn “ ca mình trong xã hi hôm nay –như người Sa-ma-ri đã bt gp “người thân cn” ca mình trên đường đi- “người thân cn” ca các tư tế Tân Ước hôm nay chính là người mà hôm qua trong ln hi hp đã ch trích thái đ quan liêu ca mình; “người thân cn” ca các tư tế Tân Ước hôm nay chính là người hay vch lá tìm sâu nhng vic làm ca ông cha s ca mình; và “người thân cn” ca các tư tế Tân Ước hôm nay, không ai khác hơn chính là nhng “Đc Chúa Ki-tô b b rơi” bên v đung ca mt xã hi văn minh phát trin. Tt c nhng hng “người thân cn” trên, đu phn ánh trung thc mt tâm hn yếu đui, dòn mng ca các tư tế Tân Ước được chn gia loài người, do đó, khi cúi đu xuống đ nâng đ “người thân cn” ca mình đng lên, thì các tư tế Tân Ước đã kéo ơn sng ca Thiên Chúa xung, không nhng trên bn thân ca mình mà còn trên nhng “người thân cn” ca mình na, và như thế, các ngài đã tuân gi l lut cách trn ho: lut Yêu Thương.

Đc Chúa Ki-tô là v thượng tế đích thc, v thượng tế đi đi theo phm trt Men-ki-xê-đê[51](Dt 6, 20), cho nên các tư tế Tân Ước (linh mục) ca Ngài cũng cao trng hơn các tư tế ca thi cu ước. Mt giám mc Roméo, đã vì quyn li ca nhng “người thân cn” ca mình mà lên án nhng bt công ca xã hi, ngài đã b bn chết ngay trên bàn th khi dâng thánh l, và chính ngài đã tr nên ging v thượng tế ti cao ca mình –Đc Chúa Giê-su Ki-tô- va là tư tế va là tế phm hiến dâng c mng sng của mình, đ nhng “người thân cn” ca mình được t do bình đng vi xã hi.

“Người thân cn” ca thánh Don Bosco không ai khác hơn chính là nhng tr em bi đi, nhng tr em nghèo kh, nhng chú nhóc m côi b xã hi coi như đ phế thi, đã được Ngài nâng niu, nuôi nng dy d, đ ri “nhng chú nhóc bi đi thân cn” ny, có người đã tr thành vị thánh, có người làm hng y, có người đã làm giám mc, linh mc và có người đã có mt đa v trong xã hi, và còn có rt nhiu tư tế Tân Ước khác đã nhìn thy rt nhiu “người thân cn” ca mình trong xã hi hôm nay. Các ngài đã vượt ra khi tình cm t nhiên ca con người đ đón nhn nhng người không quen biết –nhng người mà có lúc, đã làm cho các ngài khó chu- làm “người thân cn” ca mình. Bi vì, chính các ngài đã hc được tâm tình hin lành và khiêm tn nơi Đc Chúa Ki-tô, và mang trong mình tm lòng nhân hu ca mt v tư tế thi Tân Ước.

D ngôn người Sa-ma-ri tt lành mà Đức Chúa Giê-su đã k hơn hai ngàn năm trước, ngày hôm nay vn còn có giá tr cho các tư tế ca Ngài, và càng ngày các tư tế Tân Ước càng khám phá ra trong d ngôn đy kch tính ny có rt nhiu giá tr nhân bn hp cho mi thi đi, mà nét ni bt nht ca d ngôn chính là lòng nhân hu phi vượt qua l lut, mi gi là chu toàn l lut. Bi vì, tt c các l lut và các sách ngôn s, đu gói trn trong hai điu nhưng là mt ny: “Kính mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cn”.

Không có lòng nhân hu thì không biết bao dung, không có lòng nhân hu thì không biết thông cm vi nhng đau kh ca anh em, không có lòng nhân hu thì không biết yêu thương người thân cn như chính mình. Thy tư tế thi cu ước chc chn cũng có lòng nhân hu, nhưng vì quá chú trng đến tng nét ch bên ngoài ca l lut, tuân gi l lut cách cng nhc, nên đã không nhìn thy người đng hương ca mình đang nm thoi thóp bên v đường ch chết, và như thế ông đã b coi là người không có lòng nhân hu và làm sai tinh thn ca l lut.

Nhưng các tư tế Tân Ước thì không phi như thế, các ngài nhìn thy ni bt hnh, nhng kh đau, nhng khc khoi, nhng nhu cu ca người anh em trước khi nghĩ đến l lut, do đó, các ngài đã không ngn ngi đng v phía “người thân cn” ca mình, đ nâng đ người anh em đang bt tnh bên v đường mà không s “tr gi” tế l, không s nhng li đàm tiếu ca nhng người bo bo v lut hình thc, vì các tư tế Tân Ước đã nhn ra li khuyên tế nh và sâu sc ca Đức Chúa Giê-su: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vy ”[52](Lc 10, 37), và khi đã làm được như vy ri, thì trên thế giơí ny, chng có ai là người không thân cn ca các tư tế thi Tân Ước.

Thy tư tế thi cu ước và các tư tế thi Tân Ước đu là nhng con người như mi người, cũng có mt qu tim và mt khi óc, cho nên, theo l thường tình, người thân cn nht ca h chính là cha m, anh ch em, sau đó là bà con thân thuc, bn bè, đi ra ngoài l t nhiên ny là trái ngược vi l lut cha ông. Chính thy tư tế thi cu ước đã không dám đi ra khi cái v l lut ca cha ông đ cúi xuông nâng đ người đng hương b nn, cho nên, sut cuc đi ông ta s không bao gi biết “người thân cn” ca mình là ai.

Đi ra khi l lut không có nghĩa là chi b nhng giá tr ca l lut, nhưng là đ cho l lut được nên gn gi vi đi thường hơn, sng đng hơn, và có mt giá tr đích thc hơn. Cũng như mt người con đi ra khi t m gia đình, không phi là anh ta chi b nhng giá tr ca gia đình, nhưng là đ cho mình t lp hơn, trưởng thành hơn, và đ cho mi người nhìn thy nhng giá tr truyn thng tt đp ca gia đình qua cách ăn nếp ca bn thân mình. V thông lut kia đã hi Chúa Chúa Giê-su cách ngây thơ, d thương : “Nhưng ai là người thân cn ca tôi ? ”[53](Lc 10, 29), và Đức Chúa Giê-su không tr li trc tiếp câu hi: người ny là thân cn, người kia không phi là thân cn ca anh, Ngài ch k cho v thông lut và đám đông dân chúng nghe mt câu chuyn d ngôn v s tt lành ca người Sa-ma-ri, và kết lun: ông hãy đi và cũng làm như vy[54](Lc 10, 37). Thế là đã rõ, “người thân cn” ca thy tư tế thi cu ước chính là l lut ca Mô-sê, bi vì ông s li l lut mà không dám cu giúp người hon nn sp chết nm bên v đường, và vì s li l lut, cho nên thy tư tế đã đóng kín tâm hn ca mình li, lòng nhân t cũng vì đó mà b cm tù trong bn bc tường ca l lut, tội nghip thay!

Nhưng “người thân cn” ca các tư tế thi Tân Ước thì không phi như các thy tư tế thi cu ước, bi vì Đc Chúa Ki-tô đã băng qua các tng tri[55](Dt 4, 14) đi ra khi ngôi v Thiên Chúa đ làm con người như mi người gia trn thế, và đã tr nên v thượng tế ti cao, v thượng tế biết thông cm vi nhng ni thng kh, bt hnh ca “người thân cn” mình là nhân loi. Do đó, “người thân cn” ca các tư tế Tân Ước chính là tt c mi người, không phân bit giai cp vô sn hoc giai cp tư sn; không phân bit k giàu người nghèo, và nhng “người thân cn” nghèo khó, bt hnh là dng “ưu tiên s mt” ca cá tư tế thi Tân ước! “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vy!”[56](Lc 10, 37).

 

6. “NGƯỜI THÂN CN CA THY LÊ-VI

 

“Ri cũng thế, mt thy Lê-vi đi đến ch y, cũng thy, cũng tránh qua bên kia mà đi ”[57] (Lc 10, 32).

Sau thy tư tế, là đến thy Lê-vi cũng đi ngang qua ch người đng hương đang b nn nm bên v đường, nhưng ri cũng b đi mt lèo. Các linh mc hôm nay, trong các bài ging ca mình thường “đng hoá” các thy Lê-vi thi cu ước vi các thy (ngày nay) đã có “chc”, k c các thy phó tế, hoc các nam tu sĩ, bi vì trong mười hai chi tc Ít-ra-en, thì chi tc Lê-vi đã được Đc Chúa chn ra, riêng bit đ lo công vic bàn thánh, dưới quyn các tư tế [58](Ds 3, 5-13). Nhưng xét cho cùng, thì tt c nhng ai đã dâng mình làm tôi t Chúa (đi tu) thì bt lun là nam hay n, cũng đu là nhng người phc v Thiên Chúa qua con người, ph giúp các Linh mc theo bn phn và công vic ca mình. Vy, theo tôi, các thy Lê-vi bao gm c các n tu ca chúng ta na, mà trong bài suy tư ny s dùng cm t “các-Lê-vi-thi-Tân-ước” đ nói chung cho các tu sĩ nam n y.

Không phi ngu nhiên mà trong d ngôn “người Sa-ma-ri tt lành”, Đức Chúa Giê-su đã đưa ra hai hình nh mà n tượng không my tt đp v hai chc v có “thế giá” trong tôn giáo Ít-ra-en thi y, bi vì ch có nhng thy tư tế và các thy Lê-vi là nhng người, mà có l, rt ít tiếp xúc vi mi người trong cuc sng đi thường, do đó, h không th cm nghim được nhng lo âu khc khoi, nhng tình cm gia người thân cn vi nhau, hoc h không có ý nim người thân cn là nhng người không cùng huyết thng vi h, mà đi vi h, người thân cn chính là cha m, bà con, bn bè thân thuc …

Các Lê-vi-thi-tân-ước cũng có lúc, vi ý nim, mình là mt người “đi tu”, “người được Chúa chn”, thì phi được mi người trng vng, phi được “đám dân ngu” kia kính n và phi được ngi ch cao, ch nht gia công chúng. Không ai tế nh như Đức Chúa Giê-su khi đưa ra li giáo hun cho các Lê-vi-thi-Tân-ước hay nói cách thân mt hơn, các đ t ca Ngài, bng mt câu chyn d ngôn rt kch tính mà tóm gn mi giáo hun ca Ngài là yêu thương.

Vy, ai là “người thân cn” ca các Lê-vi-thi-tân-ước trong mt xã hi quá phức tạp và có quá nhiu điu kỳ diu hôm nay ?

 

a. Cng đoàn ca tôi là “người thân cn” ca tôi.

Đ t ra sc mnh đoàn kết ca cng đoàn, và đ biu dương cng đoàn tôi là mt cng đoàn “luôn biết yêu thương”, nên có lúc các Lê-vi-thi-tân-ước đã ra mt công khai bênh vc các thành viên ca cng đoàn mình, mc dù li phi đã rành rành trước mt bàn dân thiên h, và lm dng s kính trng “nhng tôi t” Thiên Chúa nơi các tín hu, mà các Lê-vi-thi-tân-ước đã làm ngơ trước nhng bt công ca mình.

Mc dù được gi đ phc v Thiên Chúa qua anh ch em ca mình, nhưng có lúc các Lê-vi-thi-tân-ước đã không nhìn nhn h là nhng “người thân cn” ca mình, trái li, các Lê-vi-thi-tân-ước ny đã t coi mình như là mt “hng ân” mà Thiên Chúa đã ban cho các tín hu, cho nên t cách suy nghĩ như thế, các Lê-vi-thi-tân-ước đã không nhìn thy mình là nhng người được gi đ phc v Thiên Chúa trong nhng anh em đng loi ca mình, và dĩ nhiên, h cũng chng thy nhng khc khoi, lo âu bun phin ca nhng người mà mình được sai đến đ phc v, vì nhng khuyết đim do mình gây ra.

Cng đoàn ca tôi là “người thân cn” ca tôi, đó là điu không ai chi ci, nhưng cng đoàn s không th tn ti, nếu không có nhng “người thân cn” –tc là con người- đ phc v. Vì mc đích y mà cng đoàn được thành lp và tn ti, cho nên các Lê-vi-thi-tân-ước phi vượt qua khuôn kh ca cng đoàn đ đi tìm kiếm “người thân cn” ca mình mà phc v. Thy Lê-vi trong câu chuyn d ngôn đã không th đưa tay ra cu giúp người b nn, cũng bi vì ông ta ch biết có chi tc ca mình, ch biết phi đi cho mau đ phc v các tư tế nơi bàn th trong thánh đin, và vì thế mà ông ta đã đánh mt cơ hi phc v “người thân cn” ca mình. Có nhng Lê-vi-thi-tân-ước đã to tiếng ch trích phê bình cng đoàn ny quá t, cng đoàn kia quá bết, ch vì các cng đoàn y không phi là cng đoàn ca tôi, tức là không phải “người thân cn” ca tôi.

Bi vì cng đoàn ca tôi là “người thân cn” ca tôi, cho nên tôi không th h tr cho người khác nhng phương tin đ h làm công tác tông đ, không ng h nhng ý kiến hay, hoc nhng phương pháp mi ca người khác trong công vic m mang Nước Chúa, vì thế, tôi mãi mãi vn ch là mt thy Lê-vi đi ngang qua người b nn, dù người b nn đó là đng hương vi tôi, giả mù như không thy h đang thoi thóp ch chết. Bởi thế, đ có tương quan tt đp vi mi người, các Lê-vi-thi-tân-ước cn phi xác đnh li cho tht rõ ràng mc đích dâng hiến cuc đi ca mình là phc v, nhưng phc v cho ai? cho Thiên Chúa nơi con người, hay bt con người phc v cho chính bn thân mình ?

Nếu phc v cho cng đoàn ca tôi là “người thân cn” ca tôi, thì các Lê-vi-thi-tân-ước ch là mt tp đoàn ch biết tìm “li nhun “ cho mình, có nghĩa là mt tp đoàn tư bn mua bán không hơn không kém, nhưng xét cho cùng thì các tp đoàn tư bn mua bán y, h cũng biết vượt ra khi chính mình, nghĩa là h biết vươn cánh tay “mi bn” ca h đến tn các quc gia trên thế gii đ kiếm li nhun, và to thêm công ăn vic làm cho mi người, và như thế “người thân cn” ca h chính là nhng khách hàng ca h. Cũng vy, các Lê-vi-thi-tân-ước không đóng khung trong cng đoàn ca mình, không khư khư gi ly nhng tp quán c hu “nó không phi là phe ca chúng ta”, bi vì khi làm như thế, thì các Lê-vi-thi-tân-ước đã vô tình bóp méo l lut yêu thương ca Tân Ước: “Yêu thương người thân cn như chính mình”[59](Lc 10, 27) vy.

Lut yêu thương ca Tân Ước phi vượt ra khi chính mình, tràn ra khi biên gii đi ti nhng min xa xăm ho lánh, thm nhp vào tng th tht ca con người, và được nhn thy d dàng nơi hành vi ca nhng con người thm nhun tinh thn l lut yêu thương trong cuc sng đi thường. Lut yêu thương cũng là “tiêu chun” đ Thiên Chúa phán xét nhân loi, là thước đo lòng mến ca Thiên Chúa nơi con người chúng ta, nhưng nếu yêu thương hiu theo nghĩa thường tình, tc là yêu thương theo lut t nhiên, như cha m yêu thương con cái, con cái phi yêu thương cha m, yêu thương bn bè thân thiết…v.v…thì chc chn không ai “qua mt” được các thy tư tế các thy Lê-vi thi cu ước, bi vì h đã tuân gi răm rp tng nét tng ch trong sách lut, và  nếu có ai đó nói vi h phi yêu thương “người thân cn”, tc là nhng người nghèo nàn, bt hnh, kh đau như chính mình, thì chng khác gì xách thùng nước lnh tt vào mt h. Nhưng các Lê-vi-thi-tân-ước không nhng đã nhn nơi Đc Chúa Ki-tô lnh truyn yêu thương “người thân cn”, mà còn nhìn thy công vic yêu thương “người thân cn” cách c th nơi Ngài, đó là bt c ai cũng đu được Ngài chiếu c mà không đòi điu kin nào khác, ngoài điu kin: phi có lòng tin vào Ngài, nhng người tàn tt, k đui mù, người ti li, kẻ bất hạnh đu là nhng “người thân cn” nht ca Ngài.

Vì vy, yêu thương người thân cn nơi các Lê-vi-thi-tân-ước không có nghĩa là ch yêu thương cng đoàn ca tôi, bi nó là thân cn ca tôi, nhưng mi thành viên ca cng đoàn phi là nhng s gi ca cng đoàn, đem yêu thương được hp th trong cng đoàn đến cho nhng đi tượng mà các Lê-vi-thi-tân-ước phc v, h là nhng người đ mi thành phn ca xã hi không phân bit màu da chng tc, giai cp giàu nghèo, sang hèn, h chính là nhng “người thân cn” ca các Lê-vi-thi-tân-ước, hay nói cách c th hơn, khi các Lê-vi-thi-tân-ước t mình phá b nhng lut l cng nhc làm xơ cng qu tim bng tht biết yêu thương, biết thông cm của mình, thì chính h đã t mình tr nên người thân cn ca “người thân cn” ri vy.

Đức Chúa Giê-su đã chn mười hai vị tông đ để làm mt cng đoàn nh xíu gia những người Do thái, nhưng không phi vì thế mà cng đoàn nh xíu ny b lãng quên hoc b xoá s trong cng đoàn Do thái to lớn ấy, nhưng trái li, nó càng ngày càng “bành trướng” trên khp mt đt, tr thành mt cây c th to ln, đến ni chim tri ti làm t trên cành cây ca nó[60](Mt 13, 32), nó đã tr nên mt cng đoàn sng đng, có nh hưởng rng ln trên toàn din cuc sng ca con người, bi vì v th lãnh ti cao ca cng đoàn ny –Đc Chúa Kitô- đã tuyên b: “Vì Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thy, và ai đón tiếp Thy là đón tiếp Đng đã sai Thy”[61](Mt 10, 40), và mi mt thành viên ca cng đoàn nh xíu mà to ln ny đã tr nên nhng người thân cn ca mi người, khi cm chén nước lã ngon ngt thân tình mi người anh em trong cơn đói khát[62](Mt 10, 42), bi vì, h đã nhìn thy “người thân cn” đói rách, bt hnh, nghèo nàn y, chính là hình nh ca Đc Chúa Ki-tô đang b đau kh trên thp giá.

“Người thân cn” ca các Lê-vi-thi-tân-ước không phi là người thân thiết, cũng không phi là bà con, bn hu, vì t nó đã là thân thiết ri. Nhưng “người thân cn” đúng nghĩa ca các Lê-vi-thi-tân-ước chính là nhng người không thân thiết, không phi là bà con, bn hu, mà là nhng người xa l, nhng người bt đng chính kiến vi mình, bt đng quan nim và có khi –thm chí- h là nhng k thù, nhưng trong tinh thn ca lut mi –lut yêu thương- thì nhng người y chính là “người thân cn” ca các Lê-vi-thi-tân-ước vy.

Không ai có th yêu thương “người thân cn” như chính mình được nếu không có Đức Chúa Thánh Thn thúc đy, bi Thánh Thn là la tình yêu có kh năng đt cháy nhng xing xích trói buc, nhng bc tường ngăn cách gia các Lê-vi-thi-tân-ước vi “người thân cn”. Yêu thương “người thân cn” như chính mình, cũng chính là yêu thương Đc Chúa Ki-tô trong nhng con người mà nhng bt công ca xã hi đang đè xung trên cuc đi ca h. Bi vì khi giáng sinh làm người, Đức Chúa Giê-su đã thc s là người thân cn ca nhng “người thân cn” b người đi b rơi, khi chính Ngài cũng đã b nhng kinh sư, bit phái và nhng người thân cn trong thôn xóm cũng t chi đón tiếp Ngài[63](Lc 4, 16-29).

Vì vy, không mt Lê-vi nào ca thi Tân Ước có quyn chn la cho mình người ny là “người thân cn” ca tôi, người kia không phi là “người thân cn” ca tôi, nhưng ai cũng là “người thân cn” ca mình, bi vì chính h là thước đo mc đ yêu thương ca mình đi vi Thiên Chúa trong cuc sng đi thường vy.

 

b. Cá nhân tôi là “người thân cn” ca tôi.

Có nhiu người chú gii câu Li Chúa “yêu thương người thân cn như chính mình” như sau: yêu người như chính mình là trước tiên phi yêu mình đã, yêu mình tc là phi tho mãn nhng nhu cu đòi hi ca bn thân mình trước, sau khi mình có đy đ ri mi cho người khác đ h có như chính mình đã có vy. Đây đúng là mu người “biết lo xa”, nhưng vì quá lo xa cho nên h mãi mãi vn không th yêu thương người thân cn như chính mình được, bi vì trong thc tế, lòng tham ca con người như cái thùng không có đáy, không có thì làm cho có, có ri thì mun có thêm, và như thế thì đến bao gi mi có đy đ đ mà giúp đ người thân cn ch ? T khi nguyên t chúng ta phm ti, thì con người tr nên ích k hơn, cái tôi (cá nhân tôi) phát trin nhiu hơn, và yêu mình nhiu hơn.

Bt k là ai, đã là con người thì luôn luôn có cái tôi trong mình, và cái tôi ny t nó ln lên hay nh đi tuỳ theo mc đ yêu thương ca chính bn thân mình. Yêu thương càng ln thì cái tôi càng nh, và d dàng đt ti mc đ yêu thương “người thân cn” như chính mình hơn. Trong cng đoàn, cái tôi làm cho chúng ta mun ni bt hơn mi người, do đó, chúng ta tìm đ mi cách (k c th đon) đ đt ti mc đích ca cá nhân tôi, mà không thèm nghĩ đến nhng khó khăn ca anh em ch em là nhng người thân cn ca mình, đang phn đu đ cng đoàn được trưởng thành. Đ cái tôi ca cá nhân tiến trin theo chiu hướng chung ca cng đoàn thì là mt điu tt, bi vì đó chính là yêu thương anh ch em trong cng đoàn vì họ là người thân cn ca tôi, và cn phát huy tác dng đến mc đ không còn là vì cá nhân tôi na, mà là vì cng đoàn.

Bi vì chúng ta nghĩ rng cá nhân tôi là “người thân cn” ca tôi, cho nên chúng ta luôn tìm cho mình nhng s chú ý ca mi người gia công chúng, tìm mt tiếng khen ca mi người nơi phòng hp, tìm s ni tiếng khi công tác.v.v…mà chúng ta không nghĩ rng, chính khi chúng ta đang tìm s tho mãn cá nhân y, thì chính chúng ta đang dn dn xa cách “người thân cn” đích thc ca chúng ta là nhng anh ch em trong cng đoàn. Chính vì điu y, mà Đức Chúa Giê-su khi nói v vic nên c vp ngã cho anh em, Ngài đã nhn mnh đến hành đng dt khoát đ chúng ta mnh dn ct đt “người thân cn” ngay t trong bn thân ca mình, Ngài nói: “Nếu tay hoc chân anh làm c cho anh sa ngã, thì hãy cht mà ném đi; thà ct tay ct chân mà được vào cõi sng …”[64](Mt 18, 8).

Tay và chân là nhng phn trong thân th ca chúng ta, cho nên khó mà cht đi được, bi nó chính là “cá nhân tôi”, là “người thân cn” ca tôi; tay và chân cũng là ám ch đến bn bè thân thiết, là “người thân cn” mà tôi đã kết thân đ tho mãn nhu cu vui chơi cá nhân, gây bè kết cánh hơn là vì nhu cu thăng tiến cá nhân trong đi sng cng đoàn. Nếu các bn bè th túc y, tc là “cá nhân tôi” là “người thân cn” ca tôi làm c vp phm cho tôi, thì cht quăng nó đi, thà không có bn bè th túc đ tâm hn tôi thnh thơi yêu mến mi người trong cng đoàn, cùng nhau thăng tiến đt đến mc đích là xây dng mt cng đoàn biết yêu thương và phc v, hơn là có bn bè th túc mà mi ngày tôi càng xa cách nhng anh em ch em là “người thân cn” ca tôi ngay trong cng đoàn ca tôi.

Đức Chúa Giê-su trước khi kêu gi các môn đ, Ngài không ra điu kin trước cho ông Phê-rô và ông An-rê là các anh phi vt b chài lưới đi mà đi theo làm môn đ ca Ta. Ngài cũng chng nói vi ông Mát-thêu dp cái ngh thu thuế ti li y đi mà theo Ta. Ngh chài lưới cũng như ngh thu thuế có th nói là nhng “cá nhân tôi” ca các môn đ, nó thm sâu vào trong xương trong tht ca các ông ri khó mà b đi được, Đức Chúa Giê-su biết như thế, nên Ngài mi nói vi hai ông Phê-rô và An-rê: “Các anh hãy theo tôi, tôi s làm cho các anh thành nhng k lưới người như lưới cá”[65](Mt 4, 19), và vi Mát-thêu thì Ngài nói: “Anh hãy theo tôi !”[66](Mt 9, 9).

Qua nhng li mi gi vn tt như thế, chúng ta thy Đức Chúa Giê-su cũng đc bit tôn trng “cá nhân tôi” nơi các môn đ ca Ngài khi chn các ông, Ngài cũng không buc các ông phi b ngh, nhưng Ngài đã dùng tài nghệ chuyên môn đánh cá ca các ông mà đi cho các ông mt công vic khác, công vic ny vượt ra khi bin h Ga-li-lê, vượt ra khi tình cm quê hương đ tr thành “người thân cn” ca các dân tc trên mt đt: ngh đánh cá người. Nhưng không phi vì thế mà các tông đ đu lp tc tr nên hoàn thin đâu, các ông còn phi hc tp đ nhn ra ai là “người thân cn” ca mình qua nhng li giáo hun, qua nhng du l mà Đức Chúa Giê-su đã thc hin, và nht là qua s kh nn và chết trên thp giá ca Ngài, các ông nhn ra rng: tình yêu t nó đã tr nên gn gi thân cn vi mi người ri, và các ông đã dn dn chôn sâu, chôn cht, t b “cá nhân tôi là người thân cn” ca tôi ti bin h Ga-li-lê, đ ch còn li “cá nhân tôi” là người thân cn ca mi người mà thôi, nghĩa là các ông đã t b cha m, v con, gia đình ca ci.v.v… đ ri các ông được lại tình yêu đi đng làm tài sn, và c mt thế gii làm người thân cn ca mình vy.

Cá nhân tôi là “người thân cn” ca tôi thường xut hin nơi nhng con người ít cu nguyn, không phi là bn thân h không cu nguyn, mà ngay trong khi cu nguyn h ch nói qua loa vài câu, và bt Chúa phi nghe li h nói: “Ly Chúa, xin cho con được giàu có …”, “Ly Chúa, xin cho con được mt cô v đp d thương…”; “Ly Chúa, hôm nay cho con vô mánh, đ con mua xe hơi đi l cho tin …”…v.v… bi vì h ch biết có mình h trong khi cu nguyn, cho nên trong cuc sng đi thường h không my quan tâm đến nhng nhu cu ca anh em, h không cm thy xúc đng khi người anh em b nn, và thm chí, h còn cu mong cho người anh em thua kém mình na.

Mun cá nhân tôi tr thành “người thân cn” ca mi người, cũng như đ nhìn thy tt c mi người đu là “người thân cn” ca mình, vic trước tiên là tôi phi tp cho bng được bài hc biết xúc đng trước ni bt hnh ca tha nhân, bi vì chính Đức Chúa Giê-su đã chnh lòng thương, vì h lm than vt vưởng[67](Mt 9, 36), biết mĩm cười và biết th tha, và chính Ngài cũng nói đã dy chúng ta phi tha th đến by mươi bảy ln by[68](Mt 18, 22). Người biết xót thương trước nhng hon nn, bt hnh ca anh ch em, là người biết nhìn ra lòng thương xót ca Thiên Chúa đã dành cho mình; người biết tha th là người đã cm nghim ra được tình yêu ca Thiên Chúa đã dành cho bn thân ca mình. Vì thế, h không còn coi cá nhân tôi là “người thân cn” ca tôi na, mà trái li, h yêu thương tt c mi người như là người thân cn ca mình. “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vy ”[69](Lc 10, 17). Li của Đức Chúa Giê-su trên đây đã được h hiu rõ, và đem áp dng trong cuc sng đi thường của chính mình.

 

7. KHÔNG KHIÊM TN, THÌ KHÔNG BIT

 “NGƯỜI THÂN CN” CA MÌNH LÀ AI.

 

Trong cuc sng đi thường đã chng minh được điu đó, và ngay c trong chính bn thân ca mi người cũng đã nhiu ln bc l ra được điu y. Đức Chúa Giê-su đã t khiêm t h tr nên mt k phàm nhân và nhn cái chết trên thp giá[70](Pl 2, 7-8) là đ mi mt người trong chúng ta nhn biết người thân cn ca mình ngay trong chính cuc sng ca mình: người mà thường ngày tôi vn không thích, người mà trước đây mi khi gp mt là tôi mun chi cho mát lòng h dạ.v.v… thì gi đây, trong Đc Chúa Giê-su Ki-tô, h đã tr nên “người thân cn” thân thiết ca tôi. Đó chính là kết qu ca lòng khiêm tn chân thành mà chúng ta hc được nơi hang đá Bê-lem, nơi cuc chy trn qua Ai Cp ca Thánh Gia Tht, nơi đường lên núi S và nơi đnh cao cui cùng là thp giá ca Đc Chúa Ki-tô.

Chính Đc Chúa Ki-tô trong thân phn mt tr sơ sinh nghèo nàn cùng cc hang đá Bê-lem, đã vui lòng chp nhn nhân loi ti li là người thân cn ca mình, và sn sàng chia s nhng ni vui bun và kh đau ca kiếp người trong thế gii loài người, đó chính là mt tình yêu và s khiêm tn ca mt v Thiên Chúa làm người.

Chính Đc Chúa Ki-tô, trong thân phn mt con người b nn vượt biên qua Ai Cp, sng gia nhng người không h biết đến Thiên Chúa là ai, và chính Ngài đã hoà nhp vào cuc sng vi h, nhn h là nhng người thân cn ca mình, mà không t cao t đi nghĩ rng mình là thân phn Thiên Chúa, không thèm chơi chung, không thèm nói chuyn vi phường tà ma ngoi đo, đây chính là mu gương khiêm tn trong cuc sng đi thường ca chúng ta.

Và trên đường vác thp giá lên núi S đ chu chết, gia bao tiếng reo hò đc thng ca dân chúng vô ơn bi nghĩa, gia những tiếng chi ra man r hung d ca quân lính, gia nhng tiếng xm xì tò mò ca k bàng quan, và gia tiếng khóc than ca nhng người đàn bà đo đc thành Giê-ru-sa-lem.v.v…Đức Chúa Giê-su đã im lng, khiêm tn nhn nhc như con chiên b đem đi làm tht, như cu câm nín khi b xén lông[71](Is 53, 7) và Ngài không h trách mng, oán gin hay thù hn h, bi vì h là nhng “người thân cn” ca Ngài. Chính vì nhng vô ơn bi nghĩa và nhng li chế nho y ca h, mà Ngài đã chu chết trên thp giá đ h được hip thông vi Ngài và tr nên “người thân cn” ca Ngài.

Và đc khiêm tn ca Chúa Chúa Giê-su được ni bt tuyt vi khi b đóng đinh trên thp giá, và chính nơi đây, trên thp giá ny, Ngài đã im lng khi nghe tiếng chi ra cui cùng ca mt trong hai tên gian phi b treo trên thp giá: “Ông không phi là Đng Ki-tô sao? Hãy t cu mình đi, và cu c chúng tôi vi”[72](Lc 23, 29). Chính s nín lng khiêm tn ny ca Đức Chúa Giê-su, đã làm cho tên gian phi khác cũng b treo trên thp giá, nhn ra k b đóng đinh k bên mình là Đng vô ti, là k b hàm oan, và là mt đng thánh thin kỳ l, đã làm cho tâm hn chai sn vì ti li ca anh xao đng, ăn năn hi hn, và anh đã chân thành nói vi Đức Chúa Giê-su rằng: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước ca ông, xin nh đến tôi !”[73](Lc 23, 42), và trong gang tt ca s sng, chết, bun, thương ny, Đức Chúa Giê-su đã nhn anh ta làm “người thân cn” ca mình khi nói vi anh ta: “Tôi bo tht anh, hôm nay, anh s được vi tôi trên thiên đàng”[74](Lc 23, 43).

Trong cuc sng đi thường, chính s kiêu ngo và tính t cao t đi đã làm cho nhân loi chúng ta không th xích li gn nhau được, và như thế chúng ta khó mà nhn ra được nhng người chung quanh là “người thân cn” ca mình. Vì kiêu ngo, tôi nhìn thy người hàng xóm sao mà cc cn thô l thế, và t cho mình là người có giáo dc mà không thèm trò chuyn hi han vi h, thế là tôi đã vì mt thói kiêu ngạo hm mình mà không nhn ra được nhng người mà mình khinh b y chính là “người thân cn” và là hình nh ca Đc Ki-tô, và cũng là chng nhân đ cáo ti tôi trước toà phán xét ca Thiên Chúa.

Người khiêm tn là người biết nhn ra nhng kh năng gii hn ca mình đ cm t Thiên Chúa, và nhn ra được nhng vic làm ca Thiên Chúa nơi nhng người chung quanh, đ vui mng và hp tác vi h, và nht là đ yêu thương và cm thông vi nhng yếu đui ca anh ch em. Không có khiêm tn thì không th nhn ra khuôn mt tht ca Đc Chúa Ki-tô nơi nhng người mà chúng ta tiếp xúc gp g nhưng đã không nhn ra được Ngài nơi h, thì cũng s không nhn ra “người thân cn” ca mình trong cuc sng đi thường ca chúng ta. Người khiêm tn là người mi ngày không ngng t vn lương tâm ca mình: “Tôi phm quá nhiu ti mà Thiên Chúa vn không trách pht, vn tha th và yêu thương tôi, vn gi tôi là con ca Ngài. Tôi phi yêu thương và tha th cho nhng người đã làm tn thương tôi, vì h là nhng người thân cn ca tôi, trong Đc Chúa Ki-tô !”

“Nhng tài năng tôi có được chính là Thiên Chúa ban cho tôi đ tôi cng tác vi anh ch em, xây dng mt xã hi, cng đoàn, x đo, cho tt đp, và như thế tôi phi tôn trng nhng kh năng và những gii hn ca người khác, như người khác đã tôn trng tôi, vì h là nhng “người thân cn” ca tôi trong Đc Chúa Ki-tô”. S có lúc nào đó tôi phi kh đau, phi b khinh b, s b b rơi; s có lúc nào đó tôi phi nghèo đói, phi b nhc nhã.v.v…do đó, tôi phi đt mình tôi vào trong hoàn cnh ca người anh chị em bt hạnh, đ nhn ra mình nơi hoàn cnh ca h, và như thế, tôi s d dàng nhn ra h là nhng “người thân cn” ca tôi, trong Đc Chúa Ki-tô. S có lúc nào đó tôi s phm mt ti trng, và lương tâm tôi s như thế nào? Vy tôi s không bao gi nhìn nhng người ti li bng con mt khinh b xa lánh h, vì chính tâm trng ca tôi khi phm ti cũng s như h, trái li tôi phi chân thành yêu thương, nâng đ và an i h, vì chính h là nhng “người thân cn” ca tôi trong Đc Chúa Ki-tô”.

Đc Chúa Ki-tô đã t trên cao đi xung tn cùng ca thp hèn, cho nên không nhng không té ngã, mà Ngài còn tr nên mu gương khiêm tn tuyt vi ca nhân loi; nhưng con người thì trái li, bn cht là bùn đt thp hèn, đã mun vương cao ti tri, cho nên đã ngã ê ch và đã rước ly ti nhc cho mình. Cũng vy, khi chúng ta t chi tiếp đón anh chị em vì nhiu lý do như: tôi bn công vic nhà x, tôi bn hp, tôi bn công tác, tôi bn hc hành, tôi bn ch to bui hp quan trng ca thanh niên.v.v…và còn rt nhiu lý do khác đ chúng ta t chi đón tiếp người thân cn nghèo nàn ca chúng ta, thì chng khác gì chúng ta t chi Đc Chúa Ki-tô, không phi vì bn vic lu bù mà không có thi gian vài phút trò chuyn vi h, nhưng là vì người thân cn nghèo khó y không đáng đ cho chúng ta tiếp đón mà thôi.

Đó là thái đ kiêu căng ca chúng ta, nghĩa là chúng ta ch biết nhìn lên ch không chu nhìn xung, bi vì c nhìn lên, cho nên trong cuc sng đi thường của chúng ta ch thích tiếp đón nhng người có “máu mt”, nhng người tay đeo nhn vàng, áo qun lng ly[75](Gc 2, 2), và mi ưu tiên trong giao tiếp ca mình đu dành cho h. Thánh Gia-cô-bê tông đ đã nói: “Anh em hãy nghe đây, nào Thiên Chúa đã chng chn nhng k nghèo trước mt người đi, đ h tr nên người giàu đc tin… …Thế mà anh em, anh em li khinh d người nghèo !”[76](Gc 2, 5-6), và chính thái đ đi x thiên tư ấy đã t cáo chúng ta có mt tâm hn kiêu căng. Mt tâm hn không biết xót thương anh em nghèo khó, cho dù chúng ta có vin dn hàng trăm ngàn lý do chính đáng, nhưng lý do quan trng và chính đáng nht đ nhìn thy, giúp đ và yêu thương h mà chúng ta quên mt, đó là h là hình nh ca Đc Chúa Ki-tô, là “người thân cn” ca chúng ta.

Người kiêu ngo thì luôn cm thy mình bn nhiu công vic, luôn làm ra v ta đây công vic hàng đng chng cht, cho nên h không có thi gian đ nhìn thy nhng người chung quanh là “người thân cn” ca mình. H không mun tiếp xúc vi người thân cn, h không mun gp mt anh em đng bn, h luôn t chi nhng li mi thân thin ca anh em nghèo khó, hoc nhng người có thành kiến vi mình, nhưng h li hân hoan tham gia nhng cuc vui long trng khác đ cng c đa v mình, đ được mi ngưòi chú ý, đ được người khác tôn vinh…v.v…

Người khiêm tn thì dù cho bn vic ti tăm mt mày đi chăng nữa thì cũng vn luôn an vui t ti, h biết kính trng nhng ai đến gp mình trò chuyn, h không có thái đ trch thượng khi đón tiếp mi người, và đi vi h, thà tr công vic mt vài phút đ được đón tiếp người anh em –người thân cn ca mình- thì h vn sn sàng, đ người thân cn ca mình được vui v, dù đó là người ghét mình hoc là người yêu thương mình, đi vi ai h cũng đu có thi gian tiếp đón trò chuyn cách thân mt, bi vì h luôn đt mình vào trong hoàn cnh ca người đi din đ cm thông, đ an i và đ nhìn thy rõ con người yếu đui ca mình hơn qua người thân cn ca mình, bi vì d người khôn nơi tang tóc, lòng k di chn vui chơi[77](Gv 7, 4). Lòng khiêm tn ca chúng ta s như git nước mát làm cho người bt hnh thoi mái, và khiến cho h tr nên ngoan ngoãn trước thánh ý ca Thiên Chúa, mà vui v chp nhn cuc sng hin ti và vươn lên.

 

Ai cũng có thể t nhn mình là người khiêm tn nht trong mi người, nhưng ít ai can đm t nhn mình là “người thân cn” ca nhng người bt hnh, nhng người mà xã hi đang b rơi vì nghèo hèn, vì bnh tt, vì nhng hành vi bt ho...

Khiêm tn không có nghĩa là t chi li khen ngi ca mi người, cũng không phi là tránh chc v đã được người khác tín nhim bu lên, khiêm tn như thế ch làm ri lon cng đoàn, xa ri anh em, và vô tình đã tr thành mt thói kiêu căng hm hnh. Nhưng khiêm tn đích thc, chính là mi mt người trong chúng ta nhìn thy rõ cái bn mt tht ca mình quá ti t, đáng nguyn ra và đáng xa lánh, không khác gì nhng anh em khác b xã hi xa lánh, b coi là đ b, là th cù bt cù bơ, có như thế, không nhng chúng ta nhìn thy được rõ ràng “người thân cn” ca mình không ai khác hơn là nhng anh em đau kh nghèo đói, mà còn là nhng người giàu có hnh phúc đang chung quanh chúng ta na.

Khiêm tn thì ta như rễ cây bám cht vào trong đt đ cho thân cây được đng thng, chu đng được phong ba bão táp, cũng vy, người khiêm tn s được Thiên Chúa chúc lành, và nhng vic làm ca h đi với người thân cn ging như nhng r cây bám cht vào ân sng và tình thương ca Thiên Chúa, do đó h không còn phi s hãi vào ngày phán xét, và tt c nhng ai đến vi h đu được đi x như bn bè thân thiết, như “người thân cn” ca h, bi chính h đã cm nghim được tình yêu ca Thiên Chúa dành cho h –mc dù h không đáng nhn- ngay chính trong cuc sng ca mình.

Đi vi người khiêm tn, thì ai cũng là bn hu, là “người thân cn” ca mình; còn đi vi người không biết khiêm tn, thì ngay c bn hu ca h cũng đu lánh xa h, đơn gin là h không biết ai là “người thân cn” ca mình.

 

8.NGƯỜI TRUYN GIÁO CA TH K 21,

LÀ NGƯỜI THÂN CN CA MI NGƯỜI.

 

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vy”[78](Lc 10, 37).

Có th nói đây là mt li nhn nh ca Đức Chúa Giê-su cho nhng môn đ ca Ngài trong thế k 21 ny, xã hi càng văn minh, nhân loi phát trin từng ngày và khoa hc k thut đã làm cho nhng người trên thế gi gn nhau hơn qua nhng phương tin truyn thông hin đi, thì khuynh hướng chia r nhau gia người vi người càng trm trng hơn.

Nhng biến đng trên thế gii ca nhng ngày tháng cui cùng ca thế k 20 ny đã chng minh cho chúng ta thy được điu y: chiến tranh dit chng Nam tư, chiến tranh dit chng ca dân quân thân Indonésia Đông Timore, chiến tranh đánh chiếm nước lân cn Chesknia ca Nga, các cuc th phi đn ca Trung quc, ca Bc Hàn, ca M…v.v…và nht báo Trung ương ca Đài Loan s ra ngày 6.10.1999 đã đăng ti hàng tin đáng lo ngi, không nhng cho đo quc Đài Loan, mà còn làm cho các nước lân cn trong vùng bt an, bn tin như sau : “Trung Quc đã có mười bảy v tinh gián đip trên không, có kh năng quan sát mi hot đng quân s ca M trên toàn cu, và có th điu khin phi đn tn công bt c các mc tiêu quân s nào ca M ngay trên nước M và Đài Loan, sc mnh quân s ca Trung quc hin nay đã ngang hàng vi M…” , bn tin ny còn nói tiếp : “Nếu M còn đưa tàu chiến hm can thip vào Đài loan như năm 1966, thì s b tn công bi các loi vũ khí chng chiến hm ca Trung Quc …”. Tt c nhng s kin y đu bc l tâm hn ca con người ngày càng xa nhau hơn.

Vì tâm hn ca con người ngày càng xa nhau hơn, nên thế gii cn có nhng con người hàn gn li nhng vết thương lòng rn nc y, nhng con người y, không ai khác hơn là nhng con người truyn giáo ca thế k 21, nhng người lãnh nhn s mnh đem tình thương ca Thiên Chúa cho nhân loi. Người truyn giáo, t bn cht là “người ca mi người”, có nghĩa là không phân bit tôi là người ca x ny, anh là người ca nhóm n, ch là người ca cng đoàn kia.v.v…nhưng tất cả đều tr thành mt thành viên trong cng đoàn, hay trong mt vùng mà h được sai đến. Mang thân phn ca mt người truyn giáo là linh mc, là n tu, là nam tu sĩ hay mt “nhà truyn đo” là mang trong mình mt tình yêu ca Đức Chúa Giê-su, tr thành v đi s ca hoà bình, cũng có nghĩa là nhng người truyn giáo đi đến đâu, cũng đu đem hoà bình đến cho nơi y, và như thế là h tr thành “người thân cn” ca tt c mi người.

Tr thành “người thân cn” vi mi người, t bn cht, nó là yêu thương, nó là nim vui, nó là an i, là đoàn kết, là thăng tiến và hy vng.

Có nhng người thân cn nhưng không yêu thương nhau, chng hn như nhng quân “ma giáo”, h sng thành tng băng tng nhóm, nhưng khi gp tht bi thì rã đàn tan nghé và chng đi nhau, quay li cn nhau, h không h yêu thương nhau. “Người thân cn” đích thc ca mọi người là người biết đem li bình an cho mi người trong cng đoàn, biết to cho cng đoàn mt s đoàn kết trong yêu thương, đó không ai khác hơn chính là các nhà truyn giáo, nhng chng nhân sng đng ca tình yêu. H –các nhà truyn giáo ca thế k 21- đã thâm tín rng: thế gian cn phi được tràn ngp tình yêu ca Thiên Chúa mi có th biến đi b mt ca hn thù, ghét ghen và đau thương ca nó.

Không th nào biến đi được b mt ca thế gian nếu không biến đi tâm hn ca con người trước, vì vy, các nhà truyn giáo đi đến đâu, vic đu tiên ca h là chng minh cho mi người thy “tôi là “người thân cn” ca các anh ch em, và các anh ch em là người thân cn ca tôi, chúng ta là anh ch em ca nhau trong Đức Chúa Ki-tô”. Do đó, h đã đem qu tim tràn đy tình yêu ca Thiên Chúa trãi ra cho mi người thy bng các vic làm: xây dng h đo thành mt đi gia đình biết yêu thương, hàn gn nhng đ v trong cng đoàn, h là cu ni ca s đoàn kết gia các thành viên trong cng đoàn, trong giáo x vi nhau, như li ngôn s I-sai-a đã nói v h như sau: “Còn anh em, anh em s được gi là “tư tế ca Đc Chúa”, người ta s gi anh em là “người phng s Thiên Chúa chúng ta”[79](Is 61, 8). Vâng, ch có các nhà truyn giáo ca thế k 21 tràn đy tình yêu ca Thiên Chúa, mi có th biến đi tâm hn ca con người bng chính đi sng bình an cà yêu thương ca chính h.

Có nhng người thân cn nhưng không đoàn kết vi nhau chẳng hạn như nhng người làm chính tr, h nghi ng ln nhau, tranh quyn đot li, mi ln vn đng tranh c chc ny, chc n thì lên din đàn t tng nhau, nói xu nhau đ giành phn thng v mình, h ha vi các c tri là s đoàn kết mt lòng đ xây dng đt nước, nhưng ngay trong ni b ca h đã mt đoàn kết, không ai tin tưởng ai, chia r phân ly, khai tr nhau. Nhưng các nhà truyn giáo thì không phi như thế, h không vn đng đ được các tín hu trong h đo tín nhim, h không lên tiếng nói xu ln nhau đ tranh giành h đo ny, chc v n trong giáo phn, trong cng đoàn; h cũng không h chia phe kết cánh, gây chia r gia giáo dân trong h đo vi nhau; h không nói nhng li m dân, không thơn tht đưa đãi l phép ngoài môi ming, nhưng những gì h đã làm, h hành đng thì đều theo đúng tinh thn ca Phúc âm, h ý thc rng: cng đoàn (giáo x, đoàn th, dòng tu…v.v…) là mt tm áo ca Đức Chúa Ki-tô không th b xé rách năm bè by mng, nhưng chính h ch không ai khác, có bn phn và trách nhim gìn gi tm áo y cho lành ln, không rách nát, không vy bn. Vì vy, h đã tr nên người thân cn ca tt c mi người, phc v mi người như phc v chính bn thân mình mà không kêu ca khi tht bi, cũng như không huênh hoang khoác lác khi thành công, h đã thc hành li ca Đức Chúa Giê-su dy: “Đi vi anh em cũng vy : khi đã làm tt c nhng gì theo lnh phi làm thì hãy nói : chúng tôi là nhng đy t vô dng ”[80] (Lc 17, 10), mà đã là một đy t vô dng, thì không có gì đ khoe khoang vi mi người c.

Đ tr nên “người thân cn” ca mi người, người truyn giáo ca thế k 21 không ngng suy gm v cuc đi ca Đức Chúa Giê-su, Đng đã vì tình yêu mà tr nên người thân cn ca mi người, nht là đào sâu tình v tình yêu kỳ diu ca Ngài dành cho nhân loi. Bi vì con người ngày hôm nay quá đy đ nhu cu vt cht, đy đ mi phương tin cn thiết cho cuc sng hưởng th, trên mi lĩnh vc khoa hc h đu có các chuyên gia đ săn sóc đi sng ca h, cho nên h không cn nhng th mà người truyn giáo đem li cho h. H có tt c vt cht đ hưởng th, nhưng s hưởng th ny không được trn vn, vì h thiếu mt nhân t quan trng đ được sng hnh phúc là tình yêu. Tình yêu ny được phát xut t Thiên Chúa và được th hin nơi các nhà truyn giáo, chính h là nhng chuyên gia hướng dn con người cách sng đ được hnh phúc vĩnh cu, làm cho h nhn ra mình là người thân cn ca nhau, là anh em ca nhau trong Đc Chúa Giê-su Ki-tô: “Ngt ngào tt đp lm thay, Anh em được sng vui vy bên nhau”[81](Tv 133, 1).

Các tín hu trong giáo x s rt vui mng và hãnh din v v linh mc, n tu hay các nam tu sĩ phc v trong giáo x ca mình, nếu các nhà truyn giáo biết đem li cho h mt tình thương đi đng, biết cùng chia s vi h nhng vui bun trong cuc sng đy nhng lo toan. Và ngược li, h s rt tht vng khi các nhà truyn giáo đến gây chia r trong h, thích nhóm ny chê nhóm n, như nhng người làm thuê và không biết gì đến đàn chiên[82](Ga 10, 12-13), và như thế h cũng không phi là “người thân cn” ca cng đoàn. Nhà truyn giáo ca thế k 21 phi là nhng con người t nguyn, ch không phi b đưa đi truyn giáo như nhng tên lính đào ngũ b bt đưa ra li tin tuyến. Bi vì có nhng người đi truyn giáo mà thân xác thì nơi min đt truyn giáo, còn hn thì li tn các nước phương Tây vt cht đy đ, vic truyn giáo đi vi h chng qua vì tình thế bt buc, vì “l” ri, cho nên h không quan tâm đến các tín hu trong h đo, không thiết tha vi các sinh hot ca cng đoàn. H ging như nhng người đi làm thuê, chiên b sói ăn mt cũng mc, by chiên tn mác cũng chng hay; h thường chê người dân bn x này n không đoàn kết, ch thích v bên ngoài, ch làm b đo đc mà không có ni tâm.v.v…có thể lời h chê là đúng và có thể có một vài nơi thc s là như thế, nhưng bi vì giáo dân bn x như thế, cho nên h mi cn nhng nhà truyn giáo đến đ giúp h sa cha li nhng gì chưa tt nơi h; h chưa có đi sng ni tâm, thì các nhà truyn giáo giúp h biết sng ni tâm; h không có đoàn kết thì các nhà truyn giáo giúp h sng đoàn kết và yêu thương nhau hơn. Còn như nếu h tt ri, hoàn thin c ri, thì h không cn đến nhà truyn giáo na.

Vì vy, con người ca thế k 21 cn nhng con người truyn giáo nhit tâm vi Li Chúa, tràn đy tinh thn yêu thương ca Đức Chúa Giê-su vi người dân bn x, coi h là nhng anh ch em ca mình, và là người thân cn ca mình. “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vy ”[83](Lc 10, 37). Li thúc gic ny ca Đức Chúa Giê-su vn còn vang di cho đến hôm nay -thế k 21- và vang di mãi cho đến ngày Chúa li đến.

 

9. KINH “LY CHA” LÀM CHO CHÚNG TA

TR NÊN NGƯỜI THÂN CN CA ANH EM

 

Đ cho nhân loi nhn biết nhau là anh em, và cũng đ cho nhân loi được tin tưởng hơn, yêu mến Thiên Chúa hơn trong khi cu nguyn, thì Đức Chúa Giê-su đã dy cho các môn đ (và cho c chúng ta na) mt “khu quyết” đ cu nguyn, lời cu nguyn ny khi tht lên thì có sc mnh kéo ân sng ca Thiên Chúa xung trên mt đt, và làm cho nhân loi nhn ra mình là anh chị em ca nhau và có mt Cha chung trên tri. Li cu nguyn ny, bi vì do chính ming Đức Chúa Giê-su dy, cho nên, không nhng nó tr thành báu vt ca Giáo Hi Công Giáo, ca mỗi một người Ki-tô hu, mà còn đem li ích li cho nhng người chưa biết đến Thiên Chúa nhưng mun dùng li ca Ngài đ cu nguyn.

Li cu nguyn y như thế ny: “Ly Cha chúng con là Đng ng trên tri, xin làm cho danh thánh Cha vinh hin, triu đi Cha mau đến, ý Cha th hin dưới đt cũng như trên tri. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thc hng ngày; xin tha ti cho chúng con như chúng con cũng tha cho nhng người có li vi chúng con; xin đng đ chúng con sa chước cám d nhưng cứu chúng con cho khi s d”. (Mt 6, 9-13).

Không mt ai chi cãi v tính cht trung thc và tm quan trng ca kinh “Ly Cha” ny, trung thc là vì nó din t được lòng yêu thương nhân t ca Thiên Chúa đi vi nhân loi; trung thc là vì nó đáp li khác vng ca nhng ngưòi công chính là xin cho triu đi Chúa mau đến. Quan trng vì nó là mt li cu nguyn đp lòng Thiên Chúa nht do chính Con Mt ca Ngài là Đc Chúa Giê-su dy; nó quan trng là vì Đc Chúa Giê-su là Thiên Chúa, mà vì là Thiên Chúa cho nên Ngài mi biết Thiên Chúa cn gì nơi con người, cái mà Thiên Chúa cn con người chúng ta nhn biết là chúng ta có mt Cha chung trên tri, Ngài cũng cn chúng ta nhn ra chúng ta là anh em ca nhau, nên phi yêu thương nhau và biết tha th cho nhau nhng li lm, như Thiên Chúa đã tha th nhng li lm ca chúng ta vy[84] (Mt 6, 14-15).

 

1.   "Ly Cha chúng con là Đng ng trên tri"

Cha – con là hai ch thân thương và thiêng liêng nht ca tình ph t, cha là nim hnh phúc và vinh d ca con, mt người cha hin lành biết yêu thương và săn sóc con cái thì đem li hnh phúc cho gia đình và là nơi nương ta vng chc cho con cái.

Đức Chúa Giê-su đã dy chúng ta gi Thiên Chúa là Cha, là đ cho chúng ta nhn ra giá tr đích thc ca k làm con, nghĩa là chúng ta tht s là nghĩa t ca Thiên Chúa, khi tin vào Đc Chúa Ki-tô là Đng bi Cha mà đến, và nh s chết ca Ngài mà chúng ta được hoà giãi vi Thiên Chúa, được gi Thiên Chúa là Cha ca chúng ta trên tri. Người Do thái cũng đã có ln tha nhn Thiên Chúa là Cha ca h[85] (Ga 8, 41), nhưng Đc Chúa Ki-tô đã nói vi h như thế ny: “Gi như Thiên Chúa là Cha các ông, hn các ông phi yêu mến tôi, vì tôi phát xut t Thiên Chúa và bi Thiên Chúa mà đến …”[86](Ga 8, 42).

Người Do thái “thua” chúng ta ch là h không nhìn nhn Đc Chúa Ki-tô là Đng bi Cha mà đến, cho nên h đã t chi không đón nhn Ngài trong cng đng ca h, cũng có nghĩa là h không coi Ngài là người thân cn ca mình. Còn chúng ta không nhng tin, mà còn đón nhn Đc Chúa Ki-tô vào trong cuc đi ca mình, và như li thánh Phao-lô tông đ đã nói: “Đ chng thc anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thn Khí ca Con mình đến ng trong lòng anh em mà kêu lên : “Áp-pa, Cha ơi! ”[87](Gl 4, 6). Người Con duy nht ca Cha là Đc Chúa Ki-tô, mà chính nh máu ca Người Con y đã đ ra trên thp giá, mà nhân loi chúng ta được cu chuc và được th tha ti li[88](Ep 1, 7) được giao hoà vi Thiên Chúa, cùng được gi Thiên Chúa là Cha, và Đc Chúa Ki-tô tr thành Anh C ca mình. Thế là nhân loi đã tr nên anh chị em mt nhà, có mt Cha chung tràn đy yêu thương và rt nhân hu, có mt Anh C biết hi sinh và làm Đng trung gian gánh hết mi bt toàn do ti li mang li cho đàn em ca mình, và nh Thn Khí ca Cha soi sáng, thúc đy mà mi người tr thành thân cn ca nhau và cùng nhau kêu lên: “Ly Cha chúng con là Đng ng trên tri ”[89] (Mt 6, 9).

Như thế, t nay gia Thiên Chúa và con người s không còn có s xa cách nghiêm khc na, nhưng rt gn gũi thân thương, và mi người s không còn xa l vi nhau na, vì theo ý mun và lòng nhân ái ca Người, Người đã tin đnh cho ta làm nghĩa t nh Đc Chúa Giê-su Kitô[90](Ep 1, 5). Được gi Thiên Chúa là Cha, đó là mt hng phúc, được tr thành anh em ca nhau đó là mt nim vui, và nim vui ny s tr nên to ln khi chúng ta tr thành “người thân cn” ca nhau.

 

2.   “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hin, triu đi Cha mau đến, ý Cha th hin dưới đt cũng như trên tri”

Các vin bo tàng ngh thut ni tiếng trên thế gii, đu có lưu li nhng tên tui và tác phm ca các ngh thut gia lng ly t c chí kim ca thế gii; các nhà đi tư bn tin bc xài không hết, đem b thí t thin cho các bnh vin dưỡng lão, các cô nhi vin.v.v… đ lưu li tên tui cho hu thế. Có nhng người do thiên tài mà đ li danh thơm tiếng tt cho đi; nhưng cũng có nhng người không phi do thiên tài hay do nhân tài chi c, mà ch chơi ngông, vì kiêu ngo, cũng đã đ li cho hu thế nhng tiếng chi ra.

Con người ta, ai cũng mun tên tui ca mình được ni tiếng vang cùng b cõi trái đt, cho nên đã không ngng tìm mi điu kin, to mi phương tin đ đt được mc đích y. Nhưng th hi, t thu to thiên lp đa cho đến nay, có bao nhiêu người đã sinh ra trên mt đt, và có bao nhiêu người, cho đến nay hu thế còn nhc đến tên tui ca h ? Con người nay sng mai chết, như hoa sm n chiu tàn, như ngn đèn (đèn du ch không phi đèn đin) trước gió mà cũng mun như thế, thì huống chi là danh của Thiên Chúa càng muốn cho nhân loại biết và tôn thờ!

Nhưng Thiên Chúa thì không phi như thế, Ngài không tìm mi cách đ được nhân loi tôn vinh và tri ân Ngài, bởi vì dù cho toàn th con người t ông A-đam cho đến nhân loại hôm nay tung hô ca tng Chúa “lên tn trên mây”, thì Ngài cũng chng tăng thêm chút uy quyn vinh d nào, hoc toàn th nhân loi t trước đến nay, đu đng thanh chán ghét Ngài, chi ra Ngài, thì Thiên Chúa cũng vn cứ là Thiên Chúa đy quyn năng và nhân ái, Ngài không cn nhân loi tôn vinh Ngài, bi vì ngay chính trong nhng to vt do Ngài sáng to, dù thp hèn đến đâu, cũng lưu li danh ca Ngài, như li thánh vnh đã ca khen tung hô: “Ly Chúa, muôn loài Chúa dng nên phi dâng li tán t, k hiếu trung phi chúc tng Ngài"[91](Tv 145, 10). Thiên Chúa không cn chúng ta ca tng Ngài đ Ngài thêm vinh hin, bng chng là nhân loi qua bao thế h, không phi ai cũng ca tng Thiên Chúa c đâu, thm chí có nhiu k phn đi Ngài, không chp nhn s hin hu ca Ngài trong vũ tr, nhiu quc gia dân tc đã ty chay Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu có nói năng gì, Ngài không trách mng, Ngài không gin hn như các cô gái b các chàng trai quên mt cái tên Hoa, tên Hng ca mình, Thiên Chúa ch mun nhân loi nhn ra Ngài là Đng hin hu, biết Ngài là Thiên Chúa toàn năng, là Cha nhân t tràn đy yêu thương, và tin vào Đc Chúa Ki-tô Con Mt ca Ngài, đã gii bày tình thương y cho nhân loi thy qua cái chết trên thp giá ca Ngài, đ nhân loi sng yêu thương nhau hơn trong tình huynh đ, thế thôi.

Nhn ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, là Đng nhân hu, thì đem danh thánh ca Cha khc ghi trong tim trong trí, và bày t ra trong cuc sng đi thường ca mình, đó là điu mong ước ca Thiên Chúa và ca nhng người công chính.

Xin làm cho danh thánh Cha vinh hin, đi vi người Ki-tô hu không phi là xây mt nhà th tht to tht đp, và trước mt tin nhà th khc bảng ch đng màu vàng tht ni vi hàng ch: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU, ri đ đó ngm lui ngm ti, ri khen rng đp và có ý nghĩa thn hc và tình yêu hc, nhưng giáo dân trong giáo xứ thì vẫn c đu đá nhau, cứ chi ra nhau như k thù, như nước vi la thì có ích chi ?

Xin làm cho danh thánh Cha vinh hin, cũng không phi m ming là kêu tên “Giê-su Ma” mà được Chúa vui lòng, vì có rt nhiu người va kêu tên Chúa M xong thì chi như tát nước vào mt người hàng xóm, vì người hàng xóm ny ti hôm qua th gà qua bươi đt nhà ca h, ca tng thánh danh vinh hin ca Chúa không phi như thế, mà như li thánh vnh dy bo chúng ta: “Ly Thiên Chúa con th là Vua ca con con nguyn tán dương Chúa và chúc tng Thánh Danh muôn thu muôn đi. Ngày ly ngày, con xin chúc tng Chúa và ca ngi Thánh Danh muôn thu muôn đi”.[92](Tv 145, 1-2)

Nhân loi nhn biết danh thánh Chúa không phi qua hàng ch đng màu vàng đp mt, cũng không phi qua li kêu (thét) Giê-su Ma-ri-a Giu-se trên ming ca chúng ta, nhưng h nhn ra danh thánh Đức Chúa Giê-su qua chính nhng vic làm và hành đng bác ái c th ca chúng ta. Danh thánh Cha đâu thì Nước Cha cũng s đó, cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã vi dân Ngài trong Lu Hi Ng, và nơi đây, ông Mô-sê đã kêu cu danh thánh Đc Chúa[93](Xh 33, 7-17) và danh thánh Chúa được hin tr nơi dân Ít-ra-en. đâu có yêu thương thì đó có Cha ng tr, đâu có Cha ng tr thì đó chính là Nước Cha đã đến, và cu xin cho nhân loi mi mt người mau mn nhn ra danh thánh vinh hin ca Cha trong cuc sng ca mình, và Nước Cha mau đến trong mi mt tâm hn ca con người.

Nước ca Cha là nước tình yêu, nếu chúng ta có tình yêu ca Thiên Chúa trong tâm hn, thì chính chúng ta là nhng người làm cho Nước Cha mau đến, cũng có nghĩa là mi mt người trong chúng ta là nhng s gi tình yêu ca Nước Cha, là đi din cho Nước Cha trn gian ny, và nh Thn Khí tác đng mà chúng ta tiếp xúc, trò chuyn thân mt, giúp đ mi người và coi h như là người thân cn ca mình vy. Đó chính là nhng du ch mà nhân loi dễ dàng nhn ra danh thánh vinh hin ca Cha và Nước Cha mau đến, như li ca Đức Chúa Giê-su đã cht vn nhng người Pha-ri-sêu: "Còn nếu tôi da vào Thn Khí ca Thiên Chúa mà tr qu, thì qu là triu đi Thiên Chúa đã đến gia các ông ”[94](Mt 12, 28).

Nước Cha đã đến ri, đến trong tâm hn nhng k tin, danh thánh Cha đã vinh hin ri, nhưng ch vinh hin trong các nhà th, trong các kinh sách, nơi nhng cuc rước kiu rm r trong khuôn viên thánh đường. Nhưng còn rt nhiu tâm hn, nhiu nơi trên thế gii chưa đón nhn Nước Cha và không biết danh thánh vinh hin ca Cha là gì c. Do đó, Giáo Hi vi s mnh đã lãnh nhn nơi Đc Chúa Ki-tô Phc Sinh, và được Thn Khí ca Ngài sai đi, đã không ngng n lc loan báo cho con người hôm qua, hôm nay và ngày mai mt s đip ca Thiên Chúa[95] (Lc 4, 18-19): “S đip tình yêu”, là Chúa Cha đã yêu mến Thy thế nào, thì Thy cũng yêu mến anh em như vy. Anh em hãy li trong tình thương ca Thy[96] (Ga 15, 9). Đây là mt s đip được chun n bng s chết và s phc sinh ca Đc Chúa Ki-tô, cho nên nó có giá tr vượt trên mi giá tr, đ nhân loi nhn ra mình là nhng người thân cn ca nhau trong Đc Chúa Ki-tô.

 

3.   Ý Cha th hin dưới đt cũng như trên tri.

Khi cu nguyn, chúng ta thường cu xin cho mình được điu ny điu n, cu xin cho gia đình được làm ăn phát tài.v.v…nhưng hình như không ai cu nguyn xin cho được vâng theo thánh ý ca Thiên Chúa trong cuộc sống của mình ! Trong vườn Giết-sê-ma-ni Đức Chúa Giê-su đã cu nguyn vi Đức Chúa Cha: “Ly Cha, nếu có th được, xin cho con khi phi ung chén ny. Tuy vy, xin đng theo ý con, mà xin theo ý Cha”[97] (Mt 26, 39). Ý con là ý ca thân xác mng dòn, ý ca hưởng th, ý ca sung sướng tho mãn, ý ca s chết; ý Cha là ý ca tinh thn, ý ca hi sinh, ý ca s sng. Ý Cha th hin dưới đt cũng như trên tri, mà dưới đt ny ngoi tr ông Môi-sê ra[98] (Xh 33, 11) thì nhân loi -t trước đến nay- chưa có ai thy Cha bao gi, thì làm sao mà biết được ý ca Cha ch ? Không biết cho nên mi hi, nhưng khi nhân loi chưa hi thế nào là ý ca Cha, thì chính Cha đã tr li cho nhân loi biết ý ca Ngài là như thế nào ri, Thiên Chúa đã tr li và dy d cha ông chúng ta qua ming các ngôn s trong thi Cu ước: “Hãy tuân gi điu chính trc, thc hành điu công minh …”[99](Is 56, 1), nhưng con người đã không chu nghe theo ý ca Thiên Chúa đ thc hành điu công minh chính trc, cho nên, vào thi sau hết ny, Thiên Chúa đã t ý ca Ngài cho nhân loi biết qua Con Mt ca Ngài[100] (Dt 1, 2), cũng như cánh hoa hng là biu tượng ca tình yêu nam n, thì ý mun ca Thiên Chúa cũng tương t như thế, nhưng ni bt hơn, n tượng hơn và thc tế hơn, nhìn vào là biết ngay, và ai cũng nhìn thy, cũng hiu ra là Thiên Chúa yêu mình và t ra cho mình thy tình yêu ca Ngài đó là Đc Chúa Ki-tô và thp giá.

Khi Con ca mình b treo trên thp giá, thì chính lúc y ý ca Cha t rõ mnh m nht, hiu lc nht, đó là tình yêu Cha đã dành cho nhân loi ti li qua cái chết ca Con yêu du, bi vì, không có tình thương nào cao c hơn tình thương ca người đã hi sinh tính mng vì bn hu ca mình[101] (Ga 15, 13). Hi sinh con mình, tc là tâm hn Cha đã chết vi con, vì vy, có th nói, chính Đức Chúa Cha đã vì yêu thương nhân loi mà chia s cái chết vi Con Mt ca mình là Đc Chúa Ki-tô vy. Chính Đc Chúa Ki-tô đã hiu rõ ý ca Cha cách tường tn, cn k, vì thế, trong nhng li di chúc cui cùng cho các tông đ, Ngài đã nói: “Điu làm Chúa Cha được tôn vinh là : Anh em sinh nhiu hoa trái và tr thành môn đ ca Thy”[102] (Ga 15, 8). Tr thành môn đ ca Thy, cũng có nghĩa là mi người tr thành anh em vi nhau, tr thành người thân cn ca nhau trong tình yêu ca Đc Chúa Ki-tô, đó là ý Cha th hin dưới đt cũng như trên tri ri vy.

Vy, khi chúng ta cu nguyn, thì điu quan trng trước tiên là xin cho ý ca Thiên Chúa th hin dưới đt cũng như trên tri, mà ý ca Thiên Chúa là: anh em hãy yêu thương nhau, như thy đã yêu thương anh em[103] (Ga 15, 12). Điu quan trng th hai là xin cho được chp nhn thánh ý ca Thiên Chúa qua mi hoàn cnh vui bun, hnh phúc, đau kh trong cuc sng ca mình.

 

4.   “XIn Cha cho chúng con hôm nay lương thc hng ngày”

 

“Xin Cha cho chúng con” là li cu va khn thiết va thân thương ca nhng đa con ti nghip đi vi cha chúng nó, là li van nài bày t s bt lc ca mình đi vi hoàn cnh hin ti, và cũng là nim hy vng ca nhng đa con khi kêu cu cha chúng nó. “Xin Cha cho chúng con” không phi là mt li cu xin đơn đc, mà là li cu xin ca toàn th nhng người có nim tin trên mt đt, hướng v Đng nm quyn vn mnh ca toàn th vũ tr nhân loi; là li ca người Ki-tô hu tuyên xưng đc tin ca mình vào Thiên Chúa là Cha ca mi loài th to hu hình và vô hình, và tha nhn mình là con cái ca Cha trên tri, mi ngưòi đu là anh em ch em thân cn ca nhau. Bi đó, khi chúng ta m ming kêu cu: Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thc hng ngày, là chúng ta phi tin chc là được như thế, vì Đức Chúa Giê-su đã nói: “Thy còn bo tht anh em: nếu dưới đt, hai người trong anh em hp li cu xin bt c điu gì, thì Cha Thy, đng ng trên tri, s ban cho ”[104] (Mt 18, 19).

Lương thc là nhu cu cn thiết ca con người đ duy trì s sng, không có lương thc thì con người phi chết, đó là điu t nhiên ai cũng biết. Các nước trên thế gii, được phân chia ra ba giai cp rõ ràng : giai cp phát trin (các nước tư bn), giai cp đang phát trin (các nước đang bước qua giai đon kinh tế th trường) và giai cp chm tiến (hay gi là các nước thế gii th ba), dù là giai cp nào đi chăng na, thì cũng có người giàu và người nghèo, giàu nghèo là vn đ nhc nhi cho các chính ph, vì vy h lp ra cái gi là t chc Công Nông Lương thế gii, đ các nước giàu có h tr cho các nước nghèo, thế nhưng mc đ giàu nghèo vn chênh lch nhau gia các quc gia nói chung, và mi người trong các quc gia nói riêng.

Tài nguyên thiên nhiên đã được Thiên Chúa trãi rng ra cho con người hưởng dùng trên mt đt không thiếu, nhưng 2/3 nhân loi vn thiếu đói, và con người vn không ngng tranh chp nhau đ thng tr và giành lương thc ca nhau qua mi hình thc văn minh và mi r. Nói văn minh là hình thc vin tr đ các nước nhn vin tr b l thuc vào nước vin tr mà không làm lng phát trin chi c (mà có làm thì cũng làm rt ít) cho đt nước ca mình (thc dân); nói mi r là đem quân xâm chiếm tàn nhn, gây chết chóc đ máu cho mi người v.v…đ dành dân chiếm đt cho mình (chiến tranh). Đc Chúa Ki-tô mun con người sng công bng và bác ái hơn, khi Ngài dy cho chúng ta cách cu xin: xin Cha cho chúng con hôm nay lương thc hng ngày. Cũng có nghĩa là, xin Chúa ban cho chúng ta hng ngày có lương thc cn thiết đ sng, đ chúng ta làm cho mt đt này ngày càng phát trin, và mi người có cơm ăn áo mc xng vi phm v con cái ca Thiên Chúa.

“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thc hng ngày” không có nghĩa là ngày ngày sáng ti đc kinh Ly Cha, đ ri ngày ngày đi lông bông kết bn rượu chè, ngi lê đôi mách và đòi xin Chúa làm phép l đ có cơm có tht ăn mà không cn phi làm lng chi c. Nhưng cu xin cho có lương thc hng ngày, chính là đem hết sc lc trí óc ra làm vic, bàn tay lem luc du m trong nhà máy, nhưng lòng đy nim tin phn khi, m hôi trên mt rơi xung trên rung đng, nhưng mt mày thì rng lên nét hân hoan hi vng ngày bi thu: “Ai nghn ngào ra đi gieo ging mùa gt mai sau khp khi mng ; h ra đi, đi mà nc n, mang ht ging vãi gieo ; lúc tr v, v reo hn h, vai nng gánh lúa vàng”[105] (Tv 126, 5-6). Thiên Chúa không làm phép l cho nhng người biếng nhác, nhưng Ngài làm cho đt đai ca những người tin tưởng vào Ngài tr nên màu m, và h được hưởng thành qu do tay mình làm nên: “Công khó tay bn làm, bn được an hưởng, bn qu là lm phúc nhiu may”[106] (Tv 128, 2).

Bi vì thân xác con người được dựng nên bng bùn đt[107] (St 3, 19), nên nó cn th lương thc t bùn đt mà ra đ tn ti[108] (St 2, 9), rồi mt ngày nào đó li tr v vi bi đt. Và trong thân xác ny, Thiên Chúa đã thi sinh khí vào và nh đó con người tr nên sinh đng, chúng ta gi là linh hn. Linh hn không t đt mà ra, nhưng bi t Thiên Chúa mà có nên nó bt t, vì vy, nó cũng cn th lương thc bt t đ được sng vĩnh hng vi Thiên Chúa, do đó, khi chúng ta cu xin: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thc hng ngày” cũng là chúng ta cu xin lương thc cho linh hn. Thế gii hôm nay có rt nhiu người đã t kết liu đi mình bng nhng viên thuc ng, bng phát súng trên đu, mc dù h có danh vng tt đnh, có quyn uy tt cùng, tin bc đt cũng không hết.v.v… ti sao vy? Thưa vì h đói lương thc linh hn.

Lương thc linh hn ca chúng ta chính là Mình và Máu thánh ca Đức Chúa Giê-su, và li hng sng ca Ngài, chính Ngài đã ha vi chúng ta: “Vì Tôi là bánh hng sng t tri xung. Ai ăn bánh ny s được sng muôn đi. Và bánh tôi s ban tng, chính là tht tôi đây, đ cho thế gian được sng”[109] (Ga 6, 51). đi ai cũng thích ăn ca ngon vt l, nhưng nhng thc ăn y không làm cho con người được s sng đi đi, bánh hng sng mà Đức Chúa Giê-su đã ban tng cho nhân loi chính là lương thc nuôi dưỡng linh hn bt t, là bánh bi tri xung nên nó quý hơn tt c mi th lương thc trên đi, vì vy nhng ai thành tâm tin tưởng và yêu mến cu xin thì mi được ban tng, và chính h cũng s nếm mùi thơm ngon ca hnh phúc Nước Tri ngay ti trn gian ny. Ngoài ra Li ca Ngài cũng là th lương thc hng sng đ kin toàn đc tin cho chúng ta trong cuc sng hôm nay, như ông Phê-rô đã tr li vi Đức Chúa Giê-su: “Thưa Thy, b Thy thì chúng con biết đến vi ai? Thy mi có nhng li ban s sng đi đi ”[110](Ga 6, 68).

Đó là hai th lương thc cn thiết cho linh hn ca người tín hu, cũng như lương thc nuôi thân xác là đ bi b s mt sc lc, thì Thánh Th cũng tăng cường sc lc cho đc ái là nhân đc có khuynh hướng b yếu đi trong cuc sng thường nht. Do đó, khi chúng ta cu xin vi Cha trên tri: xin cho chúng con hôm nay lương thc hng ngày cho thân xác, thì cũng đng quên cu xin Ngài ban cho chúng ta lương thc linh hn, đ khi được hn an xác mnh, chúng ta không quên nhng anh ch em, là nhng “người thân cn” ca chúng ta, đang cn đến lòng bác ái quãng đi ca chúng ta giúp đ h, như Thiên Chúa đã yêu thương và quãng đi vi chúng ta vy.

 

5.   “Xin tha ti cho chúng con như chúng con cũng tha cho nhng người có li vi chúng con”

Đức Chúa Giê-su là Thiên Chúa cho nên Ngài hiu rt rõ bn tính mng dòn yếu đui và d dàng sa ngã ca con người, vì vy Ngài đã dy chúng ta hng ngày phi cu xin Thiên Chúa tha ti cho mình, bi vì không lúc nào mà chúng ta không xúc phm đến tình yêu ca Thiên Chúa do s kiêu căng ca mình, cùng nhng cám d do dc tình và ca ci phù vân đem li. Nếu chúng ta, mi người bình tâm t kim li đi sng trong ngày ca mình, đếm nhng ti trng ti nh mà mình đã phm đến tình yêu ca Thiên Chúa t khi có trí khôn cho đến bây gi, thì chúng ta s thy kinh khiếp và s hãi, vì nào có ai đếm được ti ca mình đâu, và qu tht, nếu lun theo s công minh ca Thiên Chúa, thì chng có ai còn sng sót trên mt đt.

Thế nhưng, qua mt th kiến, Thiên Chúa đă cho tiên tri I-sai-a thy lòng nhân t xót thương ca Ngài đi vi nhân loi ti li: “Ti các ngươi, du có đ như son, cũng hoá trng như bông”[111] (Is 1, 18), vi trng mà bôi màu đ lên thì khó mà làm cho nó trng li được, mà li trng như tuyết mi chết ch ! Vi điu màu đ thm thì làm sao mà ty ra trng như bông cho được? Vy mà vì yêu thương, Thiên Chúa làm được mi s, và trước mt Ngài tt c ti li chúng ta đu được xoá b, nếu chúng ta tht lòng nghe theo li ca Thiên Chúa mà “Hãy tp làm điu thin, tìm kiếm l công bình, sa pht người áp bc, x công minh cho cô nhi, bin h cho qu ph[112] (Is 1, 17).

“Xin tha ti cho chúng con” chính là mt li kiêu cu khiêm tn ca người con biết nhn ra ti li ca mình mà xin cha tha th, và Thiên Chúa là Cha nhân t lp tc tha th cho chúng ta mt khi đã nghe li cu xin ca chúng ta. Bi vì chính Thiên Chúa đã không tiếc thương Con Mt ca mình, Ngài đã đ Con mình là Đc Chúa Giê-su Ki-tô phi chết nhc nhã trên thp giá vì mc đích duy nht là YÊU THƯƠNG nhân loi ti li, và chính nh máu Con Ngài đã đ ra trên thp giá, mà li cu xin khn thiết ca chúng ta được nhn li và ti đ như son, thm như vi điu đã được xoá b. Bởi vậy, Đức Chúa Giê-su đã dy chúng ta - cũng tha cho nhng người có li vi chúng ta, như Cha đã tha th ti li cho chính bn thân mình- và Ngài, sau khi k câu chuyn d ngôn tên mc n không biết xót thương, cũng đã nhn mnh đến tính cht quan trng và thiết yếu ca vic phi tha th cho nhau: y vy, Cha ca Thy trên tri cũng s đi x vi anh em như thế, nếu mi người trong anh em không hết lòng tha th cho anh em mình”[113] (Mt 18, 35).

Khó mà tha th cho nhau được nếu mi người trong chúng ta không hết lòng khiêm tn nhìn nhn rng, mình cũng có ti li ngang hàng hoc hơn anh chị em đã mc li vi mình, có như thế, chúng ta mi hết lòng tha th cho tha nhân. Đức Chúa Giê-su trên thp giá đã xin Đức Chúa Cha tha ti cho nhng người đã lên án t cho mình: “Ly Cha, xin tha ti cho h, vì h không biết vic h làm”[114] (Lc 23, 34), và noi gương Thy chí thánh ca mình, các thánh t đo là nhng người đã tr nên ging Đức Chúa Giê-su khi tha th cho nhng người làm hi mình, thánh Tê-pha-nô đã kêu ln tiếng cầu nguyện: “Ly Chúa, xin đng chp h ti ny”[115] (Cv 7, 60), xin đng chp h ti ny, cũng có nghĩa là “tôi tha th cho anh đ tôi được tha th”. Tha th cho người anh em là biu l mt tm lòng nhân hu ca con cái Cha trên tri, là đ nói cho mi người nghe biết chúng ta là anh chị em, là người thân cn ca nhau trong Đức Chúa Ki-tô.

Trong cuc sng hng ngày không ai là không mc n nhau, nhưng hãy mc n nhau v đc ái, đng ly oán báo oán, Chúa đã tha th cho chúng ta thì chúng ta cũng phi tha th cho nhau[116] (Cl 3, 13). Ai không biết tha th cho người anh em, thì không đáng nhn s tha th ca Thiên Chúa; ai không biết tha th cho anh em, thì không phi là người thân cn ca mi người, vì tha th là du hiu ca con cái Cha trên tri.

 

Có người ming thì nói tha th cho anh em, nhưng không mun gp mt trò chuyn vi anh em, đó là s tha th di trá ca con cái thế gian; cũng có người ming nói tha th cho anh em, nhưng tìm cách đ bôi nh danh d anh em, đó là s tha th ca lòng ghét ghen. Phi tha th cho anh em by mươi bảy ln by[117] (Mt 18, 22), nghĩa là phi tha th luôn luôn như Thiên Chúa luôn luôn tha th cho chúng ta vy, “vì chính khi th tha, là khi được tha th ” .

Đó cũng là cách đ chúng ta nhìn thy anh ch em là người thân cn ca chúng ta trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô.

 

6.   “Xin đng đ chúng con sa chước cám d”.

Đức Chúa Giê-su không dy chúng ta cu nguyn: xin cho chúng con không b cám d, bi vì bao lâu còn sng trên cõi đi tm ny, thì con người vn luôn luôn b cám d, nhưng Đức Chúa Giê-su dy chúng ta cu xin cho khi sa chước cám d, tc là khi sa vào cm by ca ma qu là k ch mưu ca nhng cám d.

Cám d hay là mê hoc, là đng t nói lên mt trng thái hay mt vt có sc thu hút tâm trí con người, làm cho con người quên mt mình là ai, quên mt thc ti mà ch chú ý đến nó mà thôi. Nhưng b cám d chưa phi là ti, mà ti là do lòng mình ưng chu hay không khi cơn cám d đến, chng hn như có mt cô gái đp, đp đến ni hoa phi nhường nguyt phi thn, thì sc đp ny không phi là ti, mà trái li, chúng ta càng phi cám ơn Thiên Chúa đã to dng nên cái đp và ban tng cho cô gái, nhưng nếu cô gái ny dùng sc đp ny đ đi “d kh” đàn ông con trai vì mc đích bt chính thì cô ta mc ti; và đàn ông con trái nào nhìn thy sc đp ca cô gái mà ao ước cùng cô ta phm ti và tìm mi cách đ tho mãn dc vng, thì h đã phm ti[118] (Mt 5, 28). Như thế, cám dỗ thì luôn luôn có sn trên mt đt ny, và không ngng đeo đui chúng ta, do đó mà Đức Chúa Giê-su đã dy chúng ta phi luôn tnh thc và cu nguyn đ khi sa vào chước cám d[119] (Mt 26, 41).

Cu xin đ khi sa chước cám d thì vic trước tiên là phi cu nguyn, cu nguyn đ xin ơn chiến thng cơn cám d, đ tìm ra phương pháp hu hiu tránh né mê hoc, cu nguyn cũng là mt cái “máy đin đài cá nhân” liên lc trc tiếp vi “tng đài” là Thiên Chúa đ xin cu vin và đ chiến đu vi k thù là ma qu. Và kinh nghim ca nhiu v thánh khi đi mt vi cám d, khôn ngoan hơn c là chy xa nó, đng khinh thường nó, đng chn ch vi nó, đng thương lượng vi nó, vì con cái đi ny khôn khéo hơn con cái ánh sáng[120] (Lc 16, 8), không nhng trong giao tiếp mà ngay c trong li mi mc mê hoc.

Cám d không đâu xa, nó ngay trong tâm trí chúng ta mà các nhà tu đc hc gi là ba thù: thế gian, xác tht và danh vng, khi gp hoàn cnh thun tin nó lin chi dy và gic lòng ham mun ca chúng ta, nó bày v ra lm điu mê hoc lý trí con người, kích thích tính tò mò, lòng hiếu thng.v.v…đ chúng ta sa ngã và đm mình trong s ti. Đức Chúa Giê-su đã ba ln b tên cám d đến mê hoc, nhưng c ba ln nó đu tht bi trước li cu nguyn và quyết tâm chống trả ca Ngài[121] (Mt 4, 1-11; Mc 1, 12 ; Lc 4, 1-13), vì vy, Ngài đ kinh nghim đ dy chúng ta phi cu xin cho khi sa chước cám d, nhưng đng thi cũng phi quyết tâm đ chiến thng cám d, và như li thánh Phao-lô đã nói: “Không mt th thách nào đã xy ra cho anh em mà li vượt quá sc loài người. Thiên Chúa là đng trung tính: Người s không đ anh em b th thách quá sc; nhưng khi đ anh em b th thách, Người s cho kết thúc tt đp, đ anh em có sc chu đng”[122] (1 Cr 10, 13).

Vy, chúng ta có th nói: cám d là chuyn thường tình ca ma qu, luôn tnh thc sn sàng đ chiến đu vi cám d là chuyn ca chúng ta, và chiến thng cám d hay không là do s cu nguyn và quyết tâm ca chính bn thân mi người.

 

7.   “Nhưng cu chúng con cho khi s d" .

Sóng to gió mnh, bin đng kinh hoàng làm cho con thuyn lc lư như mun lt úp, các môn đ kinh hãi và cu cu vi Đức Chúa Giê-su: “Thưa ngài, xin cu chúng con, chúng con chết mt”.[123] (Mt 8, 23-25).

S d là sóng to gió mnh trên cấp mười hai, con thuyn là mi mt người trong chúng ta đang hành trình trên bin trn gian. Con người t khi sinh ra cho đến khi tr v vi bùn đt, th hi chúng ta có bao nhiêu ngày nếm mùi hnh phúc chân tht trên trn gian ny? Người ta thường nói thế gian là bin kh, kh là vì thế gian đã b s d thng tr, mà đâu s d thng tr thì đó có ti li và nhng mm mng ca nó là gian dâm, ngoi tình, kiêu căng, ghen ghét.v.v…

“S d (điu ác) không phi là mt quan nim tru tượng, nhưng là mt ngôi v, là sa-tan, là K D, là thiên thn chng li Thiên Chúa”; s d và ti li liên kết mt thiết như cha con cùng nhau thng tr thế gian, làm cho thế gian ngày càng xa ri Chân-Thin-M là khuôn mt tt đp ban đu ca nó.

Trong cơn s hãi ca các môn đ, Đức Chúa Giê-su vn hin din gia các ông, vn bình thn trong gic ng, và ch thc dy sau khi các môn đ cu cu, và ch mt li nói, tc thì bin yên sóng lng như t[124] (Mc 4, 39). Cuc hành trình v Nước Tri ca chúng ta ngày hôm nay cũng như thế, gia nhng tn công như bão táp ca s d là sa-tan, có nhng lúc chúng ta tưởng mình như b ngn cung phong y cun mt trôi trong giòng chy ca ti li, nhưng dù ch còn mt hơi th, chúng ta vn luôn luôn trông cy và cu xin s cu giúp ca Thiên Chúa, như các môn đ đã cu xin: “Thưa Ngài, xin cu chúng con, chúng con chết mt”.

“Nhưng cu chúng con cho khi s d” cũng là li cu xin cho được bình an trong tâm hn, mt tâm hn bình an thì sa-tan khó mà làm gì ni, bi vì s bình an được xây dng trên nn tng ca Li hng sng, và được cng c bng các bí tích, nht là bí tích Thánh Th nuôi dưỡng và kin toàn đi sng tâm linh, đ đ sc đương đu vi s d và chiến thng nó. Do đó, khi chúng ta cu xin cho đựơc thoát khi s d, thì cũng có nghĩa là chúng ta cu xin cho cuc sng hôm nay và ngày mai được thoát khi tay K D là sa-tan, và trong gi phút sau hết ca cuc đi, được thoát khi bàn tay K D, bình an tr v vi Cha trên tri.

Qu tht, kinh “Ly Cha” là mt li cu nguyn đc đáo, không nhng làm cho chúng ta ý thc mình là con ca Cha trên tri, mà còn làm cho chúng ta tr thành anh em chị em thân cn vi nhau hơn, trong Đc Chúa Ki-tô. Vì thế, nó phi chiếm v trí hàng đu trong nhng li cu nguyn ca chúng ta, và phi được ưu tiên trên ming chúng ta hơn nhng li cu xin khác; như tr con luôn ming gi ba nó trong gia đình, chúng ta cũng không ngng kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi ! ”. Ước gì được như vy ! Amen.

 

10.ĐC MẸ MA-RI-A,

MU GƯƠNG CA NGƯỜI THÂN CN

 

Cũng là ph n như các ph n khác, nhưng vượt trên tt c các ph n trn gian v đc hnh và ân sng ca Thiên Chúa, vì vy Đc Mẹ Ma-ri-a được công nhn và được cung kính gọi là M ca Đng cu chuc.

Tuy được nhc lên cao trong tt đnh vinh quang, nhưng Đc Mẹ Ma-ri-a đã không vì thế mà quên mt vai trò "đng công cu chuc" vi Con ca mình là Đc Chúa Ki-tô, ngay ti trn gian M đã th hin vai trò “đng công” rt đc bit và rt đi thường, đc bit là vai trò “đng công” ca M không rùng rn như nhng v bi kch khóc lóc, git tóc nm lăn dưới đt hét la rn rùng khi con ca mình b đem đi hành quyết cách oan ung. Nhưng đc bit ch M đã chôn giu nhng kh đau y trong lòng, tr thành sc mnh như nhng r cây bám cht vào trong đt, đng vng hiên ngang dưới chân thp giá, chia s vi Con nhng đau kh trong gi phút cui cùng ca cuc đi.

Đi thường, là vì M cũng ging như các ph n khác ngày ngày lo công vic ni tr, sp xếp vic nhà, dy d con cái.v.v…nhưng chính trong cnh đi rt thường y, M đu biết kết hp vi Thiên Chúa, và khiêm tn dâng lên Ngài nhng hn chế ca mình trong vic dưỡng nuôi và dạy dỗ Con Mt ca Ngài là Đc Chúa Ki-tô, và cũng là con ca M, vì thế, trong cách cư x vi mi người, không ai tế nh cho bng Đc Mẹ Ma-ri-a. Chúng ta dng li hai thi đim ln trong cuc đi ca Đc Mẹ Ma-ri-a, đ nhìn thy cái hay, cái tuyt đp khi x thế ca M, đã tr nên mu gương cho chúng ta khi tr nên người thân cn ca mi người:

 

1.S thn truyn tin

S thn Gáp-ri-en nói vi trinh n Ma-ri-a: “Mng vui lên, hi Đng đy ân sng, Đc Chúa cùng bà”[125] (Lc 1, 28), cô Ma-ri-a tht s bi ri trước li chào ny ca s thn, không bi ri sao được khi có mt vic trng đi như thế xy đến cho đi mình? Theo thói thường ca con người, khi gp chuyn trng đi đt xut như thế, thì hong ht, trí óc quên đu quên đuôi, nhưng đi vi cô Ma-ri-a thì không phi vậy, ch bi ri chút xíu (có l là e l) ri hi li chào y có ý nghĩa là gì?

Đây không phi là mt câu chuyn thn thoi trong truyn c tích: có mt tiên n giáng trn, báo tin cho mt cô thôn n s mang thai và sinh ra mt v quân vương đánh đông dp bc, lên ngôi vua oai hùng lm lit.v.v…nhưng đây là mt câu chuyn lch s và là mt li đ ngh nghiêm chnh, mt li mi gi cng tác vào chương trình đã vch sn ca Thiên Chúa, nhưng thiếu “vai chính”, hay có th nói, đã có vai chính trong ý đnh ca Thiên Chúa, nhưng vì đ tôn trng s t do ca con người, nên Thiên Chúa mi đ ngh và “thương lượng” vi cô Ma-ri-a, mt s thương lượng mà “phn l lã” thuc v Thiên Chúa, còn “phn li” thì thuc v con người. Cô Ma-ri-a vi s khiêm tn tt cùng ca mt nữ tỳ tôi t, cng vi s am hiu thánh kinh như bc thông thái, đã nhìn thy nhân loi ti li là nhng “người thân cn” ca mình đang b thng tr bi ti li ác thn, nên đã vâng phc thánh ý ca Thiên Chúa, sn sàng chp nhn nhng đau kh s xy ti cho mình trong tương lai, đ hoàn thành ý đnh cu chuc nhân loi ca Thiên Chúa, và cô đã khng khái tr li: "Vâng, tôi đây là n tỳ ca Chúa, xin Chúa c làm cho tôi như li s thn nói”[126] (Lc 1, 38). Và thếng nghim li ngôn s I-sai-a:

“Dân đang ln bước gia ti tăm đã thy ánh sáng huy hoàng ;

đám người sng trong vùng bóng ti,

nay được ánh sáng bng lên chói li”.[127](Is 9, 1).

Dân đang đi trong ti tăm y không ai khác hơn chính là nhân loi ti li, nhng “người thân cn” ca Đc Mẹ Ma-ri-a, nhng người mà chính M đã “nhìn thy” ngay trong li đ ngh ca s thn Thiên Chúa, và thế là M đã vì “người thân cn” ca mình mà vâng phc thánh ý ca Thiên Chúa, đã tr nên Đng đng công trong chương trình cu đ nhân loi ca Ngài.

Không có s vâng phc nào mà không có hi sinh: T ph Áp-ra-ham vì vâng phc Đc Chúa nên đã t b quê cha đt t ra đi đến vùng đt xa la; Đc Chúa Ki-tô đã vâng phc ý muốn của Đức Chúa Cha và đã chết trên thp giá. Nhưng nhng hi sinh bi s vâng phc ny đu sinh hoa kết trái qúa sc mong ước ca con người. S hi sinh ca Áp-ra-ham làm cho ông tr thành t ph ca mt dân tc Chúa chn; s hi sinh ca Đc Chúa Ki-tô làm cho Ngài tr nên Đng cu đ trn gian, và Đc Mẹ Ma-ri-a đã tr nên M Thiên Chúa khi qung đi tr li “Xin vâng” vi s thn Gáp-ri-en.

 

2. Tic cưới Ca-na

Trong cuc đi ca chúng ta, ai cũng có ít nht là mt ln đi d tic cưới, tc là đã tr nên người thân cn ca đôi tân hôn, dù là đám cưới giàu có được t chc nhà hàng, hay đám cưới nhà nghèo được t chc ti gia đình, thì chúng ta cũng là khách được mi ca cô dâu và chú r. Mi “đám” có th không có rượu cay v nng, nhưng đám cưới thì không th thiếu rượu được, rượu ngon thì làm cho tâm hn con người phn khi[128](Tv 104, 15), có chút men rượu thì mi người cm thy gn gi nhau hơn, thân tình hơn.

Nơi tic cưới làng Ca-na min Ga-li-lê, Đc Mẹ Ma-ri-a và Đức Chúa Giê-su cũng đã được mi[129] (Ga 2, 1-11), thánh Gio-an tông đ đã rt thc tế khi k li vic Đức Chúa Giê-su và các môn đ tham d tic cưới, đ chng minh cho chúng ta thy rng, Chúa Giê-su là mt con người như chúng ta, và đã tr nên người thân cn ca mi người khi Ngài và các môn đ đến chung vui vi cô dâu chú r. Tic vui đến na chng thì hết rượu, chng mt ai biết, k c ông qun tic; tic vui s mt vui, và ch nhà s “mt mt” vi bà con hai h, nhưng không ai nhìn thy hu qu ny, ch có Đc Mẹ Ma-ri-a[130] (Ga 2, 3). Là người ph n, M có tính nhy bén ca ph n; là n tỳ ca Thiên Chúa, M có mt đc tin tuyt đi vào Ngài, cho nên khi thy hết rượu, M đã tế nh nói vi Đức Chúa Giê-su: “H hết rượu ri”[131] (Ga 2, 3).

Khi nói: “H hết rượu ri”, Đc Mẹ Ma-ri-a đã bày t cho chúng ta thy M luôn quan tâm hết thy mi người, và t trong li “nhc nh” khéo léo y, Đc Mẹ Ma-ri-a đã tr nên “người thân cn” ca mi người trong Đc Chúa Ki-tô.

Khi nói vi Đức Chúa Giê-su: “H hết rượu ri” thì vai trò trung gian ca M gia Đức Chúa Giê-su và nhân loi tht s ni bt, bi chính M -ch không ai khác- đã chăm sóc, dy d, bàu cha và thông chuyn ơn Thiên Chúa xung cho nhân loi, khi nhn lãnh s mnh làm m ca Con Thiên Chúa –Đc Chúa Giê-su Ki-tô.

Nơi tic cưới Ca-na, M không n ào khoe khoang vi mi người là con mình biết làm phép l biến nước thành rượu, M cũng không hách dch ch tr người ny phi làm cái ny, người kia phi làm vic n, đ chng t mình là m ca đa con biết làm phép l, bi vì khi làm như thế, M s tr nên xa l vi mi người, trái ngược vi bn tính khiêm tn nơi con người ca M, và hơn thế na, người ta s nhìn M như nhng người Pha-ri-sêu chính hiu. Nhưng t bn thân, M đã hiu được mình ch đóng vai trò đng công vi Thiên Chúa, chính Con ca mình mi là “vai chính” trong chương trình ny, cho nên, như người m nhà quê hin t cht phác mà phúc hu, M đã nói vi nhng người giúp vic: “Người bo gì, các anh c vic làm theo”[132] (Ga 2, 5). Và t đó tr đi trong toàn b sách Phúc âm ca thánh Gio-an, không h nghe li li ca M nói, bi vì hai câu nói quan trng và cn thiết nht cho nhân loi, M đã nói ri: “H hết rượu ri ” (Ga 2, 3) và “Người bo gì, các anh c vic làm theo” (Ga 2, 5).

C làm theo như Đức Chúa Giê-su dy bo, cũng có nghĩa là M đã dy cho chúng ta có mt đc tin tuyt đi vào Đc Chúa Ki-tô và Li ca Ngài, Li ban s sng đi đi, vì chính M đã tin và đem tt c Li ca Chúa ghi nh trong lòng[133] (Lc 2, 51). M tht s đã tr nên người thân cn ca mi người -như Đc Chúa Ki-tô- khi đến tham d tic cưới, và ch có người thân cn mi quan tâm đến người thân cn ca mình, không ch trong lúc vui v (tic cưới) mà ngay c trong lúc khó khăn, đau kh (hết rượu), và người thân cn ca Đức M Ma-ri-a không phi ch là gia đình ca cô dâu chú r, mà là c nhân loi chúng ta, tng người mt đu được M ân cn chăm sóc, dy d và bàu cha trước toà án công thng ca Thiên Chúa.

Qu tht, trong cuc đi ca chúng ta, nht là trong thi đi hôm nay, không ai mun t mình cô lp mình, hay nói cách khác, không ai là mt hòn đo, nhưng là chúng ta cùng sng chung, sng vi người khác. Người khác đó không ai khác hơn là nhng người chung quanh chúng ta, là người chúng ta tiếp xúc trên đường, trong công s, trên công trường.v.v…nhưng có my ai trong chúng ta nhìn thy h chính là “người thân cn” ca mình ?

Cũng như không mt người ph n nào mà không cm thy nhói đau khi nhìn nhng em bé bt hnh, tt nguyn, m côi.v.v…ti sao vy? Thưa, vì khi nhìn thy nhng em bé y, h lin nghĩ ngay đến đa con ca h, nếu con ca h gp bt hnh như nhng em bé y? Hơn c nhng người m trn gian, Đức M Ma-ri-a đã nhìn thy nhân loi là nhng người thân cn ca mình, bi vì M đã nhìn thy Con ca mình là Đức Chúa Giê-su Ki-tô nơi nhân loi bt hnh, mà vì s d, vì ti li đã làm cho h tr nên đi nghch vi Thiên Chúa; M cũng đã nhìn thy nhân loi là người thân cn ca mình, vì Con ca M đã mang ly thân phn con người, đ tr nên người thân cn ca mi người, và đ chia s nhng ni đau kh và hnh phúc ca con người qua mi thi đi.

Đc Mẹ Ma-ri-a đã tr nên người thân cn ca chúng ta, và M cũng mun chúng ta hãy tr nên người thân cn ca nhau trong Đc Chúa Giê-su Ki-tô.

 

LI KT

 

“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vy”[134] (Lc 10, 37b). “Làm như vy” tc là tr nên người thân cn ca mi ngươi; “làm như vy” tc là cúi xung nâng đ người b nn nm bên v đường đng lên; “làm như vy” cũng có nghĩa là nhy ra khi cái v thành kiến, phá tan cái cung cách đo mo xa cách tình người, vượt khi cách gi l lut máy móc bên ngoài.v.v… đ đến gn người anh em chị em thân cn, mà không s b “ô nhim” đn th tráng l ca Thiên Chúa là tâm hn ca chính mình.

Thế k 21, không cn phi thăm dò dư lun, hay làm mt bn thng kê dài lê thê đ coi con người ca thế k này cn gì, thì người ta cũng dư sc đ biết rng, nhu cu cn thiết ca con người thế k 21 này chính là hòa bình, yêu thương và thông cm nhau. Nhưng s không có hoà bình, yêu thương và thông cm nếu chúng ta không tr thành người thân cn ca nhau. Hãy đi, và hãy làm như vy, đ biết ai là người thân cn ca tôi?

     Anh em con đó, con chưa thương

Nói chi đến Chúa thiên đường,

Linh thiêng, thánh thin, cao vi vi

Làm sao vi ti đ yêu thương?

Anh em con đó, con chưa thương

Nói chi đến k bên v đường,

Không quen, không biết, không thân cn

Làm sao cúi xung nói yêu thương?

Anh em con đó, con chưa thương

Nói chi đến k con chán chường,

Ghét cay, ghét đng, ghét thm t

Làm sao ôm ly đ yêu thương?

Anh em con đó, con chưa thương

Nói chi đến k l lm đường,

Người khinh, k tránh, bao ti nhc

Làm sao thông cm đ yêu thương?

(Trích trong tập thơ: “Trong Chúa Mình Yêu Nhau”, cùng một tác giả. http://www.vietcatolic.net/nhantai  http://www.nhantai.info

Bây gi thì chúng ta không còn hi: “Ai là người thân cn ca tôi” nữa, nhưng mi người phi t hi: “Tôi phi làm gì cho người thân cn ca tôi?” đ trong cuc sng đi thường, chúng ta tht s tr nên nhng chng nhân sng đng cho Tin Mng mà chúng ta đã nghe, đã biết và đã sng. 

Alleluia- Alleluia

 

*** *** ***

 

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.



[1] Lc 10, 29.

[2] Mt 25, 31-46.

[3] Rm 13, 10.

[4] Lc 1, 22-24; Mt 17, 24-27.

[5] Mt 5, 17.

[6] Mt 15, 3.

[7] Mt 5, 21-22.

[8] Mt 5, 21-22.

[9] Mt 5, 27-28.

[10] Mt 5, 33-37.

[11] Mt 10, 40,

[12] Mt 10, 40.

[13] Mt 22, 37-39.

[14] Mt 18, 15-17.

[15] Mt 23, 12-32.

[16] Mt 23, 4-5.

[17] Mt 23, 11.

[18] Mt 20, 28.

[19] Pl 2, 8.

[20] Rm 12, 18.

[21] Ga 13, 4-15.

[22] Ga 13, 14.

[23] Ga 3, 15.

[24] Rm 15, 16.

[25] Rm 15, 17.

[26] 1 Ga 3, 18.

[27] Ga 13, 35.

[28] Mt 12, 50.

[29] Lc 23, 24.

[30] Ga 13, 34.

[31] Ga 15, 13.

[32] Ga 15, 13.

[33] Lc 10, 29-35.

[34] Mt 9, 13b.

[35] Lc 10, 27.

[36] Lc 10, 29.

[37] Mt 9, 13.

[38] Lc 10, 27.

[39] Lc 10, 29-36.

[40] Dt 4, 14.

[41] Dt 4, 15.

[42] Pl 2, 7.

[43] Dt 5, 6.

[44] Lv 3, 1-17.

[45] Lv 4, 1.

[46] Lv 7, 1.

[47] Mt 16, 19.

[48] Dt 5, 1.

[49] Mt 9, 11.

[50] Lc 19, 7.

[51] Dt 6, 20.

[52] Lc 10, 37.

[53] Lc 10, 29.

[54] Lc 10, 37.

[55] Dt 4, 14.

[56] Lc 10, 37.

[57] Lc 10, 32.

[58] Ds 3, 5-13.

[59] Lc 10, 27.

[60] Mt 13, 32.

[61] Mt 10, 40.

[62] Mt 10, 42.

[63] Lc 4, 16-19.

[64] Mt 18, 8.

[65] Mt 4, 19.

[66] Mt 9. 9.

[67] Mt 9, 36.

[68] Mt 18, 22.

[69] Lc 10, 17.

[70] Pl 2, 7-8.

[71] Is 5, 37.

[72] Lc 23, 29.

[73] Lc 23, 42.

[74] Lc 23, 43.

[75] Gc 2, 2.

[76] Gc 2, 5-6.

[77] Gv 4, 7.

[78] Lc 10, 37.

[79] Is, 61, 8.

[80] Lc 17, 10.

[81] Tv 133, 1.

[82] Ga 10, 12-13.

[83] Lc 10, 37.

[84] Mt 6, 154-15.

[85] Ga 8, 41.

[86] Ga 8, 42.

[87] Gl 4, 6.

[88] Ep 1, 7.

[89] Mt 6, 9.

[90] Ep 1, 5.

[91] Tv 145, 10.

[92] Tv 145, 1-2.

[93] Xh 33, 7-17.

[94] Mt 12, 28.

[95] Lc 4, 18-19.

[96] Ga 15, 9.

[97] Mt 26, 39.

[98] Xh 33, 11.

[99] Is 5, 61.

[100] Dt 1, 2.

[101] Ga 15, 13.

[102] Ga 15, 8.

[103] Ga 15, 12.

[104] Mt 18, 19.

[105] Tv 126, 5-6.

[106] Tv 128, 2.

[107] St 3, 19.

[108] St 2, 9.

[109] Ga 6, 51.

[110] Ga 6, 68.

[111] Is 1, 18.

[112] Is 1, 17.

[113] Mt 18, 35.

[114] Lc 23, 34.

[115] Cv 7, 60.

[116] Cl 3, 13.

[117] Mt 18, 22.

[118] Mt 5, 28.

[119] Mt 26, 41.

[120] Lc 16, 8.

[121] Mt 4, 1-11; Mc 1, 12; Lc 4, 1-13.

[122] 1 Cr 10, 13.

[123] Mt 8, 23-25.

[124] Mc 4, 39.

[125] Lc 1, 28.

[126] Lc 1, 38.

[127] Is 9, 1.

[128] Tv 104, 15.

[129] Ga 2, 1-11.

[130] Ga 2, 3.

[131] Ga 2, 3.

[132] Ga 2, 5.

[133] Lc 2, 51.

[134] Lc 10, 37b.