Thứ Năm, 18 tháng 4, 2013

Tập truyện: những câu chuyện ngụ ngôn (1)

Trần Huệ Tĩnh
 

 
 
 

NHỮNG CÂU CHUYỆN NGỤ NGÔN
Qua ngụ ngôn,
biết được khôn ngoan của người xưa,
mở ra tâm linh của trẻ em.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
 1.ĐẠI NIÊN VÀ TIỂU NIÊN
Ngày xưa, có một người tên là Bành Tổ, truyền thuyết nói ông ta sống được bảy tám trăm tuổi, cho nên khi người ta chỉ cần nói đến trường thọ, thì không ai là không lấy ông ta ra làm mẫu mực.
Nhưng, ở phía nam của nước Sở có một con linh quy lớn, qua mùa xuân nó sống lâu được năm trăm năm, qua một mùa thu nó sống được năm trăm năm. Con linh quy nhìn ông Bành Tổ đoản mệnh thì lấy làm buồn.
Nhưng trước thời cổ nữa thì có một cây xuân lớn, một mùa xuân của nó phải qua tám ngàn năm mới qua hết, mùa thu cũng phài tám ngàn năm, cho nên cũng coi con linh quy không ra gì. Ba loại sinh vật này ngày tháng qua gọi là “đại niên”.
Ngược lại, con ve sầu mùa xuân sinh, mùa hạ chết; mùa hạ sinh, mùa thu chết, sống không qua một năm. Ngoài ra có một loại trùng buổi sáng sinh, chạng vạng tối chết, nguồn gốc không biết tại sao gọi là “một tháng”. Loại sinh vật này theo ngày tháng gọi là “tiểu niên”.
Sinh vật sống qua “tiểu niên”, làm sao có thể hiểu được cảm giác sống qua ngày của những sinh vật “đại niên” chứ ?
(Trang tử: Tiêu dao du)

2.TIỀN ĐỒ RỘNG LỚN
Ở nơi rất xa rất xa nọ là một địa phương mà ngay cả ngọn cỏ cao năm phân cũng không thể mọc được.
Nơi đó có một con chim lớn trú ngụ gọi là đại bàng. Lưng của nó giống núi Thái Sơn, hai cánh như đám mây ở góc trời. Khi gió thổi tới thì đại bàng giương đôi cánh bay vào gió lốc, và có thể dựng đứng bay lên cao chín vạn dặm, vượt qua làn mây mỏng, trong trời xanh mênh mông bát ngát bay qua hướng nam.
Con chim sẻ trú ngụ trong vùng có nhiều hồ ao nhỏ nhìn thấy thì cười nhạo đại bàng, nói:“Nó muốn đi đâu vậy chứ ? Ta dùng hết sức lực vượt qua mà bay lên, nhưng cũng chỉ có thể bay cao mấy trượng mà thôi, làm thế nào rồi cũng bay không qua khỏi cái đám cây cao rậm rạp này, nhưng như thế cũng là quá lắm rồi, nó bỏ ra nhiều sức bay thật cao để làm gì chứ ?”
(Trang tử: Tiêu dao du)
Suy tư 2:
      Người có kiến thức nông cạn thì không thể hiểu nổi người có chí hướng cao xa, con chim sẻ quanh năm suốt tháng ở nơi cái vũng nho nhỏ, bay không quá ngọn cây cao rậm rạp, thì làm gì hiểu nổi chí hướng tận tầng mây của chim đại bàng !
     Người có chí hướng cao xa trong trời đất thì có nhiều, nhưng đa phần bị kẻ tiểu nhân kiến thức nông cạn –họ hoặc là có quyền, hoặc là nịnh hót cấp trên- mà cản trở những người có kiến thức nhìn xa thấy rộng, cho nên thế giới vẫn cứ mãi chiến tranh, cộng đoàn không thấy có niềm vui chân thật, và hằng ngày chỉ đóng lại màn kịch yêu thương đoàn kết giả tạo...
     Có một vài linh mục trẻ được làm cha sở, quanh năm chỉ ở trong chủng viện, nhà dòng, khi được làm cha sở thì cứ tưởng kiến thức và kinh nghiệm của mình bao trùm cả giáo xứ, nên bác bỏ ý kiến của người giáo dân có kinh nghiệm lâu năm làm việc, chê bai kế hoạch của ban hành giáo đưa ra và lấy quyền cha sở mà áp đặt, thế là giáo xứ mất đoàn kết, cha con nhìn nhau không sửa. Ôi buồn thật.
     Khiêm tốn là cốt lõi của kiến thức.

3.CHIM SA CÁ LẶN
Mao Tường và Tây Thi là hai người đẹp nổi tiếng thời cổ đại, chỉ cần họ xuất hiện, thì mọi người nhất định tranh đua tiến lên giành nhau, để muốn tận mắt mình nhìn thấy dung nhan đẹp đẽ của họ.
Nhưng, khi hai nàng đi đến bên bờ hồ, thì những con cá vốn tung tăng tự tại bơi lội trong nước, bị thân thể to lớn của hai nàng dọa sợ hãi nên lặn xuống đáy hồ. Hai nàng đi vào rừng cây, lũ chim nhìn thấy hai nàng vội vàng vỗ cánh bay thật nhanh thật cao, bọn nai rừng kinh hoảng chạy mất tăm nhìn không thấy tung tích.
(Trang tử: Tề vật luận)
Suy tư 3:
     Người ta thường đồn thổi bà Tây Thi và Mao Tường đẹp đến nổi chim phải e thẹn mà bay, cá phải lặn sâu xuống không dám nhìn, nên mới có câu: đẹp chim sa cá lặn. Nhưng làm gì có chuyện đó, câu chuyện trên cũng giải thích rõ cho chúng ta thấy rồi, bởi vì cá lội dưới nước tự nhiên có bóng dáng người to lớn đến thì phải sợ lăn sâu xuống đáy hồ, chim đang vui vẻ hát ca trong rừng, tự nhiên thấy người là phải sợ bay mất...
     Sắc đẹp của con người không ảnh hưởng gì đến loài vật, nhưng tình thương của con người lại có ảnh hưởng đến chúng nó, nên mới có câu nói: cứu vật vật trả ơn, cứu nhơn (người) nhân trả oán”.
     Người Ki-tô hữu biết rằng, người đẹp hay người xấu trước mặt Thiên Chúa không là gì cả, nhưng nét đẹp của tâm hồn thì rất có giá trị trước mặt Ngài, bởi vì khi có tâm hồn đẹp thì đồng thời họ cũng biết đem yêu thương đến cho mọi người, và như thế họ dễ dàng đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người hơn.
4.TRANG CHU MỘNG ĐIỆP
Một con bướm bay trong gió nhẹ, trên không trung bay lượn tung tăng, khi thì bay thấp bịn rịn giữa những đóa hoa; khi thì bay cao nhìn núi nhìn cây, tự tại nhàn nhã vô cùng.
Đột nhiên, một trận trời rung đất động, thân mình con bướm trở nên nặng nề, biến thành ông Trang Chu. Chính ngay lúc này, Trang Chu từ trong mộng tỉnh dậy, ông ta nằm mơ thấy mình biến thành con bướm.
Nhưng, không biết là Trang Chu nằm mơ thấy mình biến thành bướm, hay con bướm nằm mơ thấy mình biến thành Trang Chu ?
(Trang tử: Tề vật luận)
Suy tư 4:
      Có người nằm mơ thấy mình đang trở nên một ông vua oai phong lẫm liệt, có nhiều hoàng cung, có nhiều gái đẹp cung phụng.v.v...và tưởng mơ là thực, nên khi tỉnh dậy thì thấy nuối tiếc những gì mình đã thấy được trong giấc mơ.
     Cuộc sống của con người giống như một giấc mơ, hư hư thực thực, sự tình chân chân giả giả có lúc rất khó mà bàn luận, cho nên có nhiều người đang sống trong thời hiện tại mà vẫ cứ mơ đến “cái thưở xa xưa lưu luyến ấy” của thời huy hoàng mấy chục năm trước, và thế là họ bỏ quên mất bổn phận của mình, khi sực tỉnh lại thì đã lãng phí rất nhiều thời gian, sức lực, tiền bạc và sức khỏe...
     Người Ki-tô hữu không sống trong mơ, cũng như không mơ trong thực tế, nhưng đem hết tài năng của mình để làm tốt công việc hiện tại, để giấc mơ của em bé nghèo có sách vở đi học được hiện thực, để giấc mơ có một mái nhà tranh nương tựa của đồng bào bị bảo lụt được hình thành, để tình liên đới giữa người với người được thực hiện bằng sự phục vụ rất thực tế của họ.
     Trang Chu không biến thành con bướm, mà con bướm cũng không biến thành Trang Chu, nhưng giấc mộng hưởng thụ một cuộc sống đầy đủ đã làm cho một số người quên mất thực tại của cuộc sống hôm nay.

5.BÀO ĐINH GIẢI THÍCH VỀ TRÂU
Người đầu bếp Bảo Đinh có phương pháp dùng đao giết trâu thật tuyệt vời, động tác của ông ta rất lưu loát, giữa cái đưa đao lên xuống có thể ăn khớp với niêm luật của âm nhạc, ngay cả quốc vương Huệ Văn Quân khi nhìn thấy cũng không thể nhịn được nói kỷ thuật của ông ta thật giỏi.
Bảo Đinh nói, khi ông ta bắt đầu giết trâu thì cũng như bao người khác, trong mắt chỉ nhìn thấy toàn là đầu trâu, nhưng ba năm sau thì ông ta không nhìn thấy hình dáng của đầu trâu nữa, mà chỉ dùng tâm để tìm hiểu cách kết cấu của thân hình con trâu, dùng đao xỉa vào các khe hở, xẻ thịt cắt gân, động tác tự nhiên lưu loát, ngay cả nơi các kinh lạc liên quan với nhau đều không ngừng nghỉ..
Bảo Đinh nói tiếp:“Một đầu bếp bình thường dùng đao chặt xương, một tháng sau thì thay một con đao, còn tôi dùng cây dao này đã gần mười chín năm rồi, giết trên một ngàn con trâu, lực đao vẫn như cũ không có gì cùn lụt. Đó là vì trong tâm tôi khi nghĩ đến giữa những đốt xương và thịt, thì đao cứ theo đó mà đến, đương nhiên là lưỡi đao đưa đi rất ngọt. Sau khi hoàn thành, thu đao, toàn bộ con trâu giống như đất sét tan tác rơi xuống đất, mà trâu vẫn cứ không nghĩ rằng mình đã chết rồi.”
Huệ Văn Quân rất vui vẻ tán thưởng nói:“Giỏi thật, ta nghe xong lời nói này thì học được đạo lý dưỡng sinh.”
(Trang tử: Dưỡng sinh chủ)

Suy tư 5:
      Người đầu bếp dùng tâm để giết trâu cách tài tình.
     Người Ki-tô hữu dùng tâm để thấy cái ưu điểm của tha nhân mà khuyến khích và học tập, đó là người khiêm tốn; dùng tâm để thấy cái khuyết điểm của người khác mà không ồn ào la ó phê bình, đó là người thấu hiểu lẽ rộng lượng trong trời đất; dùng tâm để thấy nguyên nhân phạm tội của tha nhân mà tha thứ, đó là người bao dung không câu nệ; dùng tâm để thấy Chúa Giê-su nơi tha nhân để yêu thương và phục vụ là người có cái tâm yêu thương của Chúa Giê-su.
     Xây nhà cho người nghèo, viện trợ kỷ thuật để giúp đỡ cho các bệnh nhân, mở trường dạy nghề cho các thanh thiếu niên hoàn lương, nhưng không dùng tâm yêu thương để cảm thông với họ, thì những việc làm trên chỉ có tính cách quảng cáo mà thôi, mà quảng cáo thì lúc nào cũng nói láo ăn tiền...Ha ha ha...

6.NGƯỜI YÊU NGỰA BẮT MUỖI TRÂU
Có một người rất yêu ngựa, trong nhà cũng có nuôi ngựa, ông ta không hề hà tiện với ngựa, nên lấy những thứ tốt nhất cho ngựa sử dụng. Ông ta dùng cái sọt tre tinh xảo đựng phân ngựa, dùng đồ đựng quý báu để đựng nước đái ngựa, ngựa của ông ta, có thể nói là hưởng thụ phú quý ở nhân gian.
Một hôm, khi ông ta đến chuồng ngựa để coi ngựa, thì phát hiện một con muỗi trâu đang chích (đốt) ngựa, lập tức không chần chừ vung tay đánh bắt muỗi. Kết quả, làm kinh sợ ngựa nên ngựa cất vó hí vang, không những cắn đứt giây cương, mà còn phá nát cái hàm thiết trên ngực.
(Trang tử: Nhân gian thế)
Suy tư 6:
      Yêu ngựa thích ngựa của người xưa bên Tàu thì cũng giống ngư yêu chó kiểng thích chó kiểng thời nay của một số người ở giàu có.
-       Có người chửi mắng như tát nước vào người giúp việc, vì bà ta vô ý đụng phải con chó kiểng làm nó đau: họ coi trọng con chó hơn hân phẩm con người.
-       Có người ôm con chó kiểng hôn hít hơn cả hôn con mình: họ bị bệnh hoạn về tinh thần.
-       Có người dẫn chó ra đường chơi, nâng niu nó hơn cả cha mẹ nâng niu con cái: họ có một tâm hồn ích kỷ.
-       Có những người bỏ ra hàng triệu đồng để mua sắm cho con chó, nhưng lấy làm tiếc khi bố thí vài đồng bạc cho người nghèo...
Con ngựa là loài dùng để cỡi hoặc dể kéo xe giúp cho con người, nuôi cho nó khỏe mạnh để phục vụ công việc của mình là điều phải làm, nhưng cung phụng nó hơn cả con người thì là điều bất bình thường, bởi vì con ngựa chỉ là con ngựa.
Thích nuôi chó là một sở thích chẳng tội vạ gì cả, nhưng coi con chó hơn nhân phẩm của người khác là điều phải lên án, bởi vì con chó kiểng –xét cho cùng- chẳng giúp ích được gì cho họ cả.
Săn sóc con cái và đặt hết tình thương vào chúng nó, thì có phúc hơn là để hết thời giờ lo cho con chó kiểng; nhận chăm nom một trẻ em bất hạnh thì có phúc hơn là chăm sóc một con chó kiểng; đem số tiền lớn giúp đỡ người nghèo thì có phúc hơn là làm đẹp cho con chó kiểng, bởi vì con chó kiểng, dù cho nó có đeo vòng vàng, cắt lông mô-đen, nhuộm xanh đỏ thì nó vẫn chỉ là một con chó mà thôi.
Người có tinh thần lành mạnh thì không bao giờ yêu con chó, chăm sóc con chó hơn cả con người.

7.NGƯỜI XẤU AI THAI THÁC
Nước Vệ có một người tên là Ai Thai Thác, diện mạo của anh ta rất xấu, nhưng những người đã tiếp xúc với anh ta thì rất thích anh ta. Đàn ông thì không muốn rời anh, đàn bà thì muốn gả cho anh.
Lỗ Ai công nghe nói chuyện của Ai Thai Thác thì rất tò mò, nên triệu anh ta đến để tiếp kiến. Vừa nhìn thấy, quả nhiên xấu đến khiếp người, nhưng Ai công ở với anh ta một tháng thì cảm thấy anh ta có một vài chỗ hơn người; ở với nhau một năm thì rất tin tưởng anh ta; cuối cùng còn cương quyết đem 7quốc sự giao cho anh ta giải quyết.
Ai Thai Thác cai trị nước Lỗ rất giỏi, nhưng một năm nọ, người của anh ta đột nhiên mất tích. Từ đó về sau, Ai công cũng có mất đi cảm giác.
(Trang tử: Đức sung phù)
Suy tư 7:
      Đừng nhìn mặt mà bắt hình dong” đó là câu nói của người xưa, bởi vì hình dong không thể phản ảnh hết tình trạng của tâm hồn.
     Có những người diện mạo không đẹp, nhưng tâm hồn thì đẹp, họ hay giúp đỡ người khác, họ biết choa sẻ với người khác niềm vui nổi buồn, họ biết thông cảm và tha thứ; và ngược lại, có những người diện mạo rất đẹp nhưng tâm hồn thì xấu xa, họ tốt mã nhưng lòng thì đầy thù hận, họ đẹp khuynh nước nghiêng thành, nhưng lòng dạ thì độc hơn cả rắn độc, họ đẹp trai như Phan An Tống Ngọc bên Tàu, nhưng lòng dạ thì sâu hiểm hại người không gớm tay...
     Con người ta được Thiên Chúa tạo dựng không bao giờ trở thành kẻ vô ích thừa thải, bởi vì ngay cả con sâu xấu xí cũng là thứ hữu ích, huống hồ là con người được Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Ngài, mà người xấu xí Ai Thai Thác là một điển hình.
     Nhờ đức tin mà người Ki-tô hữu đều nhìn thấy cái ưu điểm nơi cả những người tội lỗi, và đối với những người có diện mạo xấu xí, thì người Ki-tô hữu vẫn luôn nhìn thấy cái hay của họ, bởi vì họ không nhìn thấy cái hình dong xấu xí, nhưng nhìn thấy Chúa Giê-su đang ở trong cái xấu xí ấy của họ.
     Đó chính là cái đắc nhân tâm của người Ki-tô hữu vậy !

8.VÔ DỤNG CHI DỤNG
Một người thợ mộc họ Thạch cùng với đệ tử đi trên đường thì nhìn thấy một cây sồi, bóng cây của nó có thể che cả ngàn con trâu, gốc cây lớn cả trăm mét, chiều cao thẳng vút đến ngọn núi, nhưng ông thợ mộc thì không vừa mắt nên cứ thẳng mà đi, đệ tử của ông ta cảm thấy kỳ quặc nên vượt lên trước để hỏi nguyên do.
Ông thợ mộc nói:“Cây đó không làm gì được cả, làm thuyền, thuyền sẽ chìm; làm quan tài thì rất mau bị mục, làm đồ để đựng thì sẽ bị nứt nẻ ngay, không có chỗ nào để dùng được cả, cho nên mới để cho nó sống rất lâu là vậy.”
Một tối nọ, ông thợ mộc nằm mơ thấy cây sồi đến nói:“Có phải hôm nay ông đem tôi ra để so sánh cái gọi là “hữu dụng chi dụng” phải không ? Trái lê, quýt, bưởi, quả thật khi chín thì bị các ngươi hái xuống, các cành cây khô cũng bị các người bẻ gảy, đó là bởi vì chúng nó “hữu dụng” nên mới bị hại bản thân, khiến cho cuộc sống không thể sống trường thọ. Còn tôi thì cố gắng tự mình làm được đến mức độ “không có chỗ dùng được” đã rất lâu rồi, có mấy lần tựa hồ như bị đốn ngã, thật không dễ dàng mới bảo toàn tính mạng mình, đó chính là công dụng lớn của tôi. Nếu như tôi hữu dụng, thì có thể được cao lớn như ngày hôm nay hay sao ?”
(Trang tử: Nhân gian thế)
Suy tư 8:
      Cây có ích thì bị đốn để sử dụng, cây vô dụng thì được để lại; lợn béo thì đem làm thịt bán, lợn gầy thì được giữ lại; người có tài thì làm không hết việc, người bất tài thì cứ tà tà mà sống...
     Nhưng thà làm người hữu dụng hơn là vô dụng.
     Người hữu dụng thì đi đến đâu, làm việc gì cũng đều có ích lợi cho người khác, không những họ biết việc để làm mà còn đem tình thân ái đến cho người khác; người vô dụng thì như cây sồi cao to béo tốt, nhưng không một ai cần đến họ.
     Người Ki-tô hữu hữu dụng thì luôn thấy mình vô dụng, bởi vì họ biết rằng tất cả tài năng mình có được đều bởi Thiên Chúa ban cho, và việc hữu ích mà họ làm là vì đó là bổn phận của một người Ki-tô hữu phải làm[1] mà thôi, cho nên họ làm việc với tinh thần yêu mến và phục vụ.
     Ngược lại người vô dụng thì luôn tự cho mình là hữu dụng, họ thường la lối khoe khoang, thích kể những thành tích mà mình làm được cho cộng đoàn này hay đoàn thể nọ, họ thích mọi người cao rao tên tuổi và việc làm của mình khắp bốn phương thiên hạ...
     Thật ra, Thiên Chúa rất công bằng trong việc sáng tạo nên con người, nên không một người nào là người vô dụng cả, chỉ có những ai tự cao tự đại mới trở thành người vô dụng mà thôi.
Ai hiểu được thì hiểu !

9.MỞ HUYỆT CHO HỖN ĐỘN
Vua của Nam Hải gọi là Trữ, vua của Bắc Hải gọi là Hốt, vua của trung ương gọi là Hỗn Độn. Trữ và Hốt thường đến trung ương để du ngoạn, Hỗn Độn vẫn luôn tận tâm tiếp đãi họ.
Trữ và Hốt rất cảm ơn Hỗn Độn, nên quyết định sẽ làm một việc gì đó cho ông ta để đền đáp. Ngày hôm ấy, hai người cùng bàn luận nên làm thế nào cho tốt:“Người có thất khiếu, dùng để nghe, ăn uống, hít thở, nhưng Hỗn Độn lại không có gì cả, thật đáng tiếc, chúng ta nên giúp ông ta đục khiếu.”
Thế là hai người giúp Hỗn Độn đục mở một khiếu (lỗ), đến ngày thứ bảy thì bảy khiếu đã đục xong, Hỗn Độn cũng chết luôn.
(Trang tử: Ứng đế vương)
Suy tư 9:
     Vạn vật trên thế gian, mọi thứ đều có bộ mặt và đặc tính của chúng nó, không cần phải hết lòng thay đổi, đẹp nhất chính là sự đơn giản tự nhiên.

-Có những con sư tử được nuôi trong sở thú, nó không còn vẽ oai hùng nhanh nhẹn tự nhiên nữa, vì đã được con người chăm sóc cung phụng.

-Có những người khi cuộc sống còn khó khăn cơm ngày ba bữa không đủ, mà đời sống của họ rất đơn sơn tự nhiên ai cũng mến, nhưng khi giàu có lên thì không còn như thế nữa, bởi vì từ giọng nói cung cách của họ đều thay đổi cho phù hợp với vẻ trưởng giả của mình.

-Có một vài vị khi chưa làm linh mục thì tính tình đơn sơ dễ thương, vâng lời, chịu khó học tập, nhưng khi làm linh mục rồi, được giáo dân gọi bằng cha thì không còn đơn sơ tự nhiên nữa, ăn nói “đao to búa lớn”, xa cách mọi người, không còn chịu khó học tập, và dành cho mình quyền hưởng thụ.
Ông vua Hỗn Độn không cần có thất khiếu nhưng vẫn đối xử tận tình tốt lành với bạn bè, đừng đem cái hiểu biết nông cạn của mình mà thay đổi cái vĩ đại của Thiên Chúa nơi vạn vật theo ý của mình.
     Mà ý của bản thân mình thì chỉ có kiêu căng, khoe khoang và khoác lác mà thôi.

10.HAI NGƯỜI CHĂN DÊ
Có một người giàu có, trong nhà nuôi một bầy dê, một hôm, người chuyên môn chăn dê bị bệnh, ông chủ bèn kêu một người đầy tớ nam và một đầy tớ nhỏ cùng đi chăn dê, nhưng không ngờ lần này lại để cho toàn bộ bầy dê mất tiêu.
Chủ nhân rất tức giận, lớn tiếng hỏi:“Lúc đang chăn dê, tụi mày làm gì ?”
Nguyên do là người đầy tớ nam vì bận công việc nên không có thời giờ đọc sách, nên mang sách theo lợi dụng thời gian đó để đọc, còn đầy tớ nhỏ thì mãi mê chơi ném con súc sắc và hoàn toàn không chú ý đến bầy dê chạy đi đâu.
Chuyện của hai người này mặc dù khác nhau một trời một vực, nhưng lại giống nhau là đều làm mất bầy dê.
(Trang tử: Biền mẫu)
Suy tư 10:
      Chăn dắt đàn chiên của Thiên Chúa cũng có hai loại: người mục tử chân chính và người làm thuê.
     Người mục tử chân chính thì biết chiên của mình, và chiên cũng biết họ và luôn nghe lời họ, bởi vì người mục tử biết yêu thương và hy sinh vì chiên của mình.
Người làm thuê thì không biết chiên mà chỉ biết tiền; không nhìn thấy chiên đói mà chỉ thấy mình thiếu thốn cần phải được phục vụ; không dẫn dắt chiên đi theo đường lối của chủ chiên, mà chỉ dẫn chiên đi theo những cá tính chủ quan kiêu ngạo của mình; không nghe tiếng những con chiên nghèo khổ kêu đói, nhưng chỉ nghe những lời nịnh hót tâng bốc của một vài con chiên giàu có...
Thế là mất cả bầy chiên, vì chiên không còn nghe tiếng của người làm thuê nữa; thế là cộng đoàn không phải là cộng đoàn nữa, mà là cộng đoàn của một số người có tiền và tiếng nói của họ rất nặng ký với cha sở...
Đến ngày phán xét Thiên Chúa cũng sẽ hỏi hai loại người chăn chiên ấy:“Khi đang chăn chiên thì các ngươi làm gì ?”
Ai vui vẻ trả lời được thì thật hạnh phúc vô cùng...

11.ĐẠO (CƯỚP) CŨNG CÓ ĐẠO LÝ
Ngày xưa, có một tên cướp rất nổi tiếng tên là Đạo Chích, những chuyện xấu mà hắn ta đã làm thì không thể nào đếm nổi, ngay cả Khổng tử cũng có đến sơn trại để khuyên giải hắn, nhưng hắn ta vẫn cứ làm theo ý mình. Những người đi theo Đạo Chích rất sợ một ngày kia phải bị hại đến thân, nên hỏi hắn ta:“Làm cướp cũng có quy tắc sao ?”
Đạo Chích trả lời:“Bất cứ việc gì cũng đều có đạo lý nên có thể tuân theo, làm cướp cũng như thế. Đoán trong nhà có cất những của cải nào quý giá, đó là thánh; dẫn đầu đi vào trước, đó là dũng; ra sau cùng, đó là nghĩa; căn cứ theo tình huống có thể hay không có thể hạ thủ, đó là trí; tất cả của cải cướp được phân phối đều nhau, đó là nhân. Có đủ năm điều ấy, mới có khả năng trở thành một tên đại ăn cướp.”
(Trang tử: Khứ khiếp)
Suy tư 11:
     Có những băng cướp chỉ đi ăn cướp của người giàu, đạo lý của họ là lấy kẻ giàu cho người nghèo; có những băng nhóm tập họp nhau lại để nhậu nhẹt phá phách, quý tắc của họ là uống quắc cần câu, quậy phá tới bến, đạo lý của họ là chơi cho đời bớt buồn.v.v...
     Đã là ăn cướp thì dứt khoác là không có đạo lý thật, dù cho họ ăn cướp của người giàu giúp cho người nghèo, bởi vì đó là một tội; đã là băng nhóm nhậu nhẹt quậy phá tới bến, thì nhất định là không thể gọi là đạo lý giải trí được, bởi vì làm hư hại tài sản của người khác và có khi làm hại đến danh dự nhân phẩm của tha nhân nữa...
     Chúa Giê-su thành lập nhóm Mười Hai (12 tông đồ) để các ngài trở thành những chứng nhân cho Tin Mừng, đạo lý mà các ngài nhận được từ nơi Thầy chí thánh là: “kính mến Thiên Chúa và yêu người như chính mình”. Nhóm Mười Hai ấy chính là Giáo Hội Công Giáo, là đại gia đình của những ai tin, yêu và thực hành lời dạy của Chúa Giê-su.
Đôi lúc chúng ta cũng nên tự hỏi lại bản thân: tôi thuộc nhóm nào đây, khi mà tôi chưa thực sự làm chứng cho Tin Mừng giữa xã hội hôm nay ?

12.NGƯỜI GIÀ TƯỚI VƯỜN
Học trò của Khổng tử là Tử Cống có lần đi qua phía nam của Hán Thủy, nhìn thấy một cụ già đang múc nước bên giếng, ông lão dùng cái chum lấy nước từ giếng lên, đem nước đổ vào cái mương nước nhỏ, để nước chảy vào trong vườn tưới hoa màu, thao tác liên tục không nghỉ.
Tử Cống nhìn thấy ông già khổ như thế, động lòng nói:“Có một loại máy móc gọi là cái cần kín nước, có thể tiết kiệm công sức, vừa bơm nước có hiệu suất. Lợi dụng cần kín nước ấy thì một trăm công ruộng trong một ngày có thể tưới xong, sao ông không dùng nó ?”
Lão già nói:“Có cần kín nước nhanh nhẹn khéo léo ấy thì nhất định có chuyện linh hoạt khéo léo và cũng là có tâm hồn nhanh nhẹn khéo léo. Có ý niệm linh hoạt khéo léo, thì tâm trí sẽ không thể giữ nguyên bầu trời sáng thuần khiết, thì sẽ tâm thần bất định, cho nên tôi không muốn dùng cái cần kín nước nhanh nhẹn khéo léo ấy.”
(Trang tử: Trời đất)
Suy tư 12:
      Suy nghĩ của ông già tưới hoa màu chỉ đúng một nửa và sai một nửa. Đúng là con người ta khi có đầu óc linh hoạt khéo léo mà không có đạo đức thì tâm bất định, dễ dàng suy tính đến những chuyện hại mình hại người; sai là vì khoa học kỷ thuật được vận dụng vào trong đời sống hằng ngày của con người, để giúp con người tiết kiệm được sức lực mà hiệu suất tăng lên gấp nhiều lần...
     Có người có đầu óc linh hoạt ứng xử khéo léo đến mức người khác phải thốt lên: gian xảo, đó là sự linh hoạt khéo léo của người không có lòng thành, cho nên xã hội vẫn còn có nhiều tệ nạn xảy ra; có người chỉ linh hoạt khéo léo khi công việc ấy có lợi ích cho mình, bằng không thì trở nên kẻ “ngu ngơ” như những người khác nếu việc ấy chẳng liên quan đến mình, thế là thế gian vẫn còn có nhiều người bàng quan dửng dưng trước những thiệt hại to lớn của xã hội và Giáo Hội...
     Linh hoạt khéo léo của máy móc thì có lợi cho con người, nhưng sự linh hoạt khéo léo của người không có đạo đức, không có khiêm tốn thì chỉ làm hại người khác mà thôi. 

13.NHƯ Ý MUỐN THOẢI MÁI
Hoàn công đọc sách ở lễ đường, dưới lễ đường có một công nhân làm bánh xe đang làm việc tên là Biển, người ta kêu hắn ta là Biển Bánh Xe. Biển Bánh Xe bỏ công cụ xuống đi lên lễ đường hỏi:“Xin hỏi quận chủ đang đọc sách gì vậy ?”
Hoàn công trả lời:“Những lời nói của thánh nhân.”
Biển Bánh Xe hỏi:“Thánh nhân còn đó không ?”
Hoàn công nói:“Thánh nhân đã chết rồi.”
Biền Bánh Xe nói:“Như vậy thì ngài đang đọc những tàn dư cặn bã của người xưa.”
Hoàn công nghe xong thì rất là không vui, muốn xử tử Biển Bánh Xe.
Biển Bánh Xe nói:“Tôi là người làm bánh xe, nếu làm nhịp bánh xe lỏng thì không kiên cố, nếu làm quá cứng thì khi bỏ vào bánh xe thì khó khăn. Công việc của tôi chú trọng đến việc không chậm không nhanh, thoải mái như ý muốn, cái kỹ thuật ảo diệu nầy khi ở trong tay thì thi triển rất tốt, miệng không thể nói hết. Cho nên khi nghe tôi nói, thì con trai tôi không cách gì thể nghiệm cái tâm đắc của tôi để kế thừa kỹ thuật của tôi, nó chỉ có thể tự mình động thủ thao tác. Cũng vậy, cổ nhân không thể dùng ngôn ngữ truyền thụ nên tinh hoa đã biến mất, chỉ còn lại những tàn dư cặn bã chính là ngài đang đọc sách thánh hiền đó ạ.”
(Trang tử: Thiên đạo)
Suy tư 13:
      Các vua chúa quan to quan nhỏ thời xưa đều có đọc sách thánh hiền, nhưng vua vẫn hoang dâm vô độ, quan phủ quan huyện thì bốc lột hà hiếp bá tánh, có chút chức sắc thì đã làm cha thiên hạ. Tại sao vậy ? Thưa là vì họ chỉ đọc những lời của thánh hiền, mà không đặt mình vào trong cuộc sống của thánh hiền, cho nên họ không thể sống như thánh hiền mà họ đã đọc và đã học.
     Cũng có những người Ki-tô hữu đọc làu làu Thánh Kinh, kể chuyện Thánh Kinh rất sôi nổi, nhưng lại không hề thực hành lời dạy của Chúa trong Thánh Kinh.

-Có nhiều người đọc Thánh Kinh nhưng họ cảm thấy khô khan chán nản, bởi vì họ không dùng cái tâm để đọc và để thấy cuộc sống của Chúa Giê-su.

-Có nhiều người nghiên cứu Thánh Kinh nhưng họ tìm không thấy Chúa Giê-su ở trong Thánh Kinh, bởi vì họ không dùng con mắt đức tin và lòng khiêm tốn để tìm Ngài.

-Có nhiều người giảng dạy lý luận về Thánh Kinh, nhưng họ không hiểu tại sao có nhiều người tin vào Chúa Giê-su, bởi vì họ không dùng cái tâm đồng hành với cái trí của họ.

-Có nhiều người chê bai Thánh Kinh là ấu trỉ, hoang đường nhiều óc tưởng tượng, nhưng họ không hiểu tại sao sách Thánh Kinh lại được xuất bản nhiều nhất trên thế giới, và được dịch ra nhiều ngôn ngữ nhất trên thế giới, bởi vì họ không nhận ra quyền năng của Thiên Chúa hiện diện trong vũ trụ này...
Đọc Thánh Kinh không như đọc sách thánh hiền hay các loại sách khác, bởi vì khi đọc Thánh Kinh thì cần phải có đức tin và lòng khiêm tốn, bởi vì đức tin và lòng khiêm tốn chính là chìa khóa để mở khon tàng â sủng của Thánh Kinh.

14.BẮC HẢI NHƯỢC VÀ HÀ BÁ
Mùa thu trời mưa âm u không ngừng rơi, mực nước của con sông nhỏ không ngừng dâng cao. Tất cả đều chảy dồn về trong sông Hoàng Hà, thần nước của sông Hoàng Hà là Hà Bá nhìn thấy dòng sông của mình lượng nước tràn đầy, biến thành rộng lớn, nên dương dương tự đắc nói:“Tất cả hưng thịnh đẹp đẽ của thiên hạ đều tụ tập lại trên con người ta !”
Ông ta trôi theo dòng nước chảy về phía đông, đến Bắc Hải, vẻ mặt không thay đổi. Bởi vì ông ta cứ cố gắng làm như thế nào để mở to đôi mắt, mà cũng nhìn không thấy giới hạn của nước, nên ông ta nói với thần Bắc Hải là Nhược:“Nếu không đi đến chỗ ngài đây, và nhìn thấy ngài quá rộng lớn như thế này, tôi làm sao có thể dương dương tự đắc được chứ, như thế chẳng lẽ không bị người ta cười vì không biết đạo lớn sao ?”
(Trang tử: Thu thủy)

Suy tư 14:
      Sông Hoàng Hà rộng, nhưng không rộng bằng biển Bắc Hải, biển Bắc Hải lớn, nhưng không lớn bằng đại dương, thế mới biết mình tài giỏi thì có người còn giỏi giang hơn mình.
     Thời nay, có một vài người lấy tiêu chuẩn học hành ở ngoại quốc để đánh giá trình độ học vấn của mình, nên kênh kênh kiệu kiệu coi thường bạn bè anh em học ở quốc nội, tự cho mình là “đồ ngoại” và người khác là “đồ nội”, nên cứ lên mặt ta đây được học ở nước ngoài, mà không có sự khiêm tốn để nói như thần sông là Hà Bá:“Nếu không thấy công việc và năng lực của anh, thì tôi làm sao dương dương tự đắc được chứ.”
     Có vài người mang tiếng là học các trường lớn ở ngoại quốc, nhưng viết tiếng Anh không chuẩn, tiếng Tàu nói không thông, trái lại có những người bị coi là “đồ nội” nhưng trở thành những nhân tài cho đất nước, và thầy dạy của nhiều thế hệ...
     Chúa Giê-su không xét theo học lực để cho người Ki-tô hữu vào thiên đàng, nhưng Ngài phán xét như thế này:“Con có dùng học vấn, tài năng, quyền lực, mà Ta đã ban cho con, để con trở nên khí cụ bình an của Ta giữa tha nhân không ?”

15.KHỔNG TỬ DU NGOẠN Ở KHUÔNG
Khổng tử và các đệ tử chu du ngoại quốc, có một lần, đi đến đất Khuông của nước Vệ, người nước Vệ hiểu lầm Khổng từ là Dương Hổ kẻ thù của họ, do đó mà bao vây thầy trò của ông ta, tình huống lúc ấy thật nguy kịch, chỉ một chút không cẩn thận có thể bị giết ngay, nhưng Khổng tử vẫn điềm nhiên tự tại gãy đàn xướng ca, Tử Lộ cảm thấy nghi hoặc, bèn hỏi thầy nguyên do.
Khổng tử nói:“Một người khốn cùng là chủ định của thiên mệnh, như diều gặp gió là bởi vì thời cơ khá tốt. Thánh nhân có thể giải thích đạo lý này là: khi gặp đại họa đến thân mà không sợ hãi, đó là cái dũng của thánh nhân, cho nên, Tử Lộ, con không nên lo lắng làm gì.”
(Trang tử: Thu thủy)
Suy tư 15:
      Cái dũng của thánh nhân (tức là người hiểu đạo lý còn gọi là thánh hiền) là cái tâm luôn an định tự tại trong mọi tình huống: không sợ hãi trước bạo lực, không xiêu lòng trước lời dụ dỗ, không hãi hùng trước lời dọa nạt, không phân tâm trước nguy khốn.v.v...đó là một vài cái dũng của thánh nhân.
     Cái dũng của người Ki-tô hữu hữu cũng tương tự như thế, nhưng hơi khác một chút nhưng rất quan trọng, đó là: họ không vì để được người đời phong danh hiệu anh hùng mà dũng cảm, nhưng vì đức tin vào Chúa Giê-su ; họ không vì để được thế gian ca ngợi là dũng cảm mà đấu tranh cho công bằng, nhưng họ vì Chúa Giê-su nơi những người bất hạnh, bị đối xử bất công mà đấu tranh cho công bằng bác ái; họ không vì để được phong thánh mà sống hy sinh phục vụ tha nhân, nhưng họ bắt chước gương hy sinh quên mình của Chúa Giê-su để mọi người biết Chúa qua cuộc sống hy đầy hy sinh và phục vụ của mình...
     Cái dũng của thánh nhân thì được thế gian ca tụng, cái dũng của người Ki-tô hữu thì bị người đời chê là dại dột, nhưng thực ra, họ là những người khôn ngoan nhất trên đời, bởi vì Chúa Thánh Thần dạy bảo họ sự khôn ngoan ấy... 

16.CON NHÁI TRONG GIẾNG CẠN
Có một cái giếng cạn, trong giếng có một con nhái, nó nói với con ba ba rất lớn của biển Đông rằng:“Tôi một mình chiếm một vũng nước, muốn đi ra thì đi bên giếng nhảy nhót, muốn trở về thì nằm trên viên gạch vỡ mà nghỉ ngơi, nước giếng, xi măng, tôi nổi hứng dùng thế nào thì cứ việc dùng, tôi ở đây rất vui vẻ. Này ông anh, ông anh có thể đi vào coi xem sao ?”
Con ba ba của biển Đông mới bỏ cái chân vào liền bị vướng lại, thế là đem tình hình của biển lớn nói với con nhái:“Tôi ở biển Đông rộng mấy ngàn hải lý, độ sâu khoảng bảy tám ngàn mét, dù cho có lụt lội lớn hay hạn hán, thì đối với nước như thế đều không ảnh hưởng gì cả, đó là vui sướng nhất của biển Đông.”
Con nhái trong giếng cạn nghe xong thì ngây người ra, mù tịt không biết gì cả.
(Trang tử: Thu thủy)
Suy tư 16:
      Ở bên Tây có truyện ngụ ngôn “con nhái muốn to bằng con bò” nên nín hơi phình bụng, kết quả là bụng bị bể và con nhái tiêu đời nhà ma. Ở bên Tàu cũng có truyện con nhái ở trong giếng cạn đem cái nhỏ bé của mình so sánh với cái rộng lớn của biển Đông, kết quả ngây người ra khi nghe sự rộng lớn của biển Đông.
     Ở đời có hai loại kiêu ngạo: một là người học rộng tài cao nhưng không có đạo đức, họ là những người không coi ông trời ra cái thá gì cả huống gì là tha nhân; hai là những người kiến thức hẹp hòi, tức là trình độ không đến đâu, nhưng vẫn luôn khoe khoang cái hiểu biết tài giỏi của mình, những người này thường làm khổ anh chị vì cái kiêu ngạo “không đúng chỗ” của mình.
     Thiên Chúa không thiên vị ai cả, nhưng con người ta cứ lấy cái tài năng của mình ra để đối xử thiên vị với tha nhân, bắt người khác phải phục vụ mình vì mình tài giỏi, có công lao to lớn, đó chính là họ muốn bằng Thiên Chúa vậy.
Hãy coi gương con nhái muốn to bằng con bò mà sống khiêm nhường với mọi người hơn nữa.

17.CHỈ CỦA UYÊN SỒ
Ở phương nam có một loại chim tên là Uyên Sồ, cùng loại với phượng hoàng, nó biết cố định bay từ biển nam hải di dời đến biển bắc hải. Trên đường bay, không phải cây ngô đồng thì nó không hạ cánh để nghỉ, không phải quả cây tre thì nó không ăn, không phải nguồn nước ngọt lịm thì không uống.
Có một con chim cú phát hiện một con chuột chết đã rữa nát, khi nó đang muốn ăn thì thấy con chim Uyên Sồ bay qua đó, vì sợ chim Uyên Sồ giành giựt thức ăn nên nó lập tức ngẫng đầu lên, dùng hết lực kêu lên một tiếng “xịa”, cảnh cáo con chim Uyên Sồ phải rời khỏi đó. Uyên Sồ vẫn thản nhiên cảm thấy không hiểu gì cả, mà con cú mèo rõ ràng là không ngờ con Uyên Sồ không thèm ăn con chuột thối ấy.
(Trang tử: Thu Thủy)

Suy tư 17:
      Kẻ tiểu nhân thì đem lòng dạ của mình ra để đoán lòng dạ của người khác, nên họ suốt đời không tìm được sự chân thành trong cách sống, như con chim cú tham ăn cứ tưởng chim Uyển Sồ lại giành giựt thức ăn của mình.
     Có một vài người Ki-tô hữu cứ lấy lòng đạo đức của mình ra để đo lòng đạo đức của người khác, nên họ luôn cảm thấy người khác là tội lỗi, không xứng đáng là người con của Chúa, và thế là quỷ kiêu ngạo từ từ xâm lấn làm cho lòng đạo đức của họ trở thành pháo đài công kích người khác.
     Con chim Uyên Sồ bay cố định và bay cao, không thèm nghỉ ngơi nếu không gặp cây ngô đồng quen thuộc, không thèm ăn nếu không gặp quả cây trúc tử. Người Ki-tô hữu đạo đức thì tâm hồn bay rất cao lên tới Thiên Chúa, họ không đem ai ra so sánh với họ, nhưng họ chỉ bắt chước gương của Chúa Giê-su; họ không suy nghĩ như người khác là chỉ có bản thân mình mà thôi, nhưng là vì Chúa Giê-su và vì mọi người mà làm việc bác ái và phục vụ tha nhân.
     Kẻ tiểu nhân không bằng quân tử, người quân tử không bằng người Ki-tô hữu hữu, mà người Ki-tô hữu biết thực hành Lời Chúa thì trở nên giống Chúa Giê-su.
Đó là bí quyết nên thánh vậy.
 
18.NGÂY RA NHƯ TƯỢNG GỖ
Chu Tuyên vương rất thích đá gà, và vì để có loại gà đá ưu tú nhất, nên ông đã đặc biệt mời một người chuyên về gà đá đến nuôi gà cho ông ta. Kế Tinh Tử thì phụ trách bồi dưỡng và huấn luyện gà đá ở trong cung.
Mười ngày sau Tuyên vương hỏi:“Gà có thể đá được chứ ?”
Kế Tinh Tử đáp:“Chưa được, dáng dấp của nó còn kiêu ngạo tự cao tự đại.”
Qua mười ngày sau nữa, Tuyên vương lại hỏi:“Gà có thể đá được chưa ?”
Kế Tinh Tử nói: “Chưa được, ở bên hể có động tĩnh thì nó có phản ứng.”
Lại qua thêm mười ngày nữa, Tuyên Vương lại hỏi:“Gà có thể đá được chứ ?”
Kế Tinh Tử nói:“Chưa được, khí thế của nó còn mạnh, nhãn thần còn hung dữ,”
Mười ngày sau, Tuyên vương lại vội hỏi, Kế Tinh Tử trả lời:“Cũng gần được rồi, thật ra nếu có gà khác kêu, nó cũng sẽ không động, tinh thần của nó ngưng đọng trầm ổn, thì giống như một con gà gỗ, những con gà khác nhìn thấy dáng nó như thế, thì nhất định không dám nghênh chiến, quay đầu mà chạy.”
(Trang tử: Đạt sinh)
Suy tư 16:
     Phàm làm việc gì thì nên bình tĩnh, bình tĩnh đem lại hành động thận trọng, thận trọng thì tránh được những điều đáng tiếc xảy ra.

-Đừng thấy nhiều người nghe mình rồi cho là thời cơ đến, bởi vì quần chúng thì hay thay đổi, có khi tham gia cho vui, xong việc thì quên mất, không mấy mặn nồng, cho nên phải bình tĩnh.

-Đừng thấy có nhiều lời khen ngợi rồi cho rằng cơ hội đã đến, nhưng hãy thận trọng vì lời khen suông của mọi người, bởi vì lời khen không thể làm gì được cả, ai khen cũng được, cho nên cái thận trọng là để bảo vệ mình.

-Khi chuyện không đáng xảy ra mà đã xảy ra thì đừng lấy làm tiếc, hoặc hối hận, bởi vì mình không bình tĩnh và thận trọng nên mới như thế.
Nuôi gà đá không phải một sáng một chiều mà có thể đá được, và càng không thể trở thành gà đá vô địch, nhưng cần phải có thời gian huấn luyện, huấn luyện và theo dõi tính cách của con gà mới có thể cho ra trường đấu...
Có một vài người Ki-tô hữu thấy mọi người khen mình là đạo đức thánh thiện, là tài giỏi năng nổ, nên có lúc tự mình đi quá quyền hạn của một giáo dân trong giáo xứ; có một vài cha phó được các bạn trẻ khen ngợi tài xốc vác, nhanh nhẹn, nên cứ tưởng mình giỏi hơn cha sở già, thế là vượt quyền của cha sở và đi sai giáo luật.
Con gà mạnh chưa chắc đá giỏi, nhưng phải bình tĩnh; con gà có nhiều đòn độc chưa chắc đã vô địch, nhưng nó phải có sự thận trọng...

17.CÁI VUI CỦA CÁ
     Trang tử có một người bạn thân tên là Huệ Thi, hai người nói chuyện rất là hợp nhau và thường cùng nhau đi du ngoạn, nói chuyện thế sự. Ngày nọ, hai người đi đến hồ nước, đứng trên cầu, Trang tử nói:“Cá thong dong bơi lội , thật là vui vẻ a !”
     Huệ Thi nói:“Anh không phải là cá, sao biết được là cá vui vẻ chứ ?”
     Trang tử đáp:“Anh không phải là tôi, làm sao biết tôi không biết cá vui vẻ ?”
     Huệ Thi nói:“Tôi không phải là anh nên đương nhiên là không biết, nhưng anh cũng không phải là cá, cho nên cũng không biết cá vui vẻ hay không vui vẻ.”
     Trang tử nói:“Nhưng, anh vừa mới bắt đầu thì liền hỏi tôi: “làm sao biết được cá không vui vẻ ?” Chính câu này bày tỏ anh biết là cá đang vui vẻ.”
(Trang tử: Thu thủy)
Suy tư 20:
      Lý luận là để làm sáng tỏ thêm vấn đề, nhưng không thể hiểu thấu tâm trạng của người lý luận, bởi vì có khi họ lý luận một đường mà lại làm một nẻo; lý luận không có nghĩa là cãi chày cãi cối, nhưng là để hiểu và thông cảm nhau hơn.
     Những vấn để lớn trong Giáo Hội như đức tin, tín lý và luân lý, thì từ ngàn xưa đã có những vị thánh, những bậc thầy vĩ đại đã thắc mắc, đã lý luận, đã chịu bắt bớ tù đày và chết vì lập trường chân chính của Giáo Hội, việc của chúng ta –người Ki-tô hữu- bây giờ là lấy tất cả niềm tin và yêu thương để thực hành những điều mà Thiên Chúa dạy qua Giáo Hội.
     Con cá vui vẻ hay không vui vẻ thì chỉ nó biết, nhưng người Ki-tô hữu thì khi nhìn con cá tung tăng bơi lội trong nước, nhìn bầu trời xanh xanh, nhìn mặt trời chói lọi, nhìn trăng sao đẹp dịu vợi trong màn đêm.v.v... thì trong lòng cảm tạ Thiên Chúa, và biết lý luận rằng: có một Thiên Chúa toàn năng vĩ đại tạo dựng nên vũ trụ vạn vật đẹp và hùng vĩ này...

20.GÕ CHẬU MÀ HÁT
Vợ của Trang tử chết, hôm ngày lễ tang ông ta không khóc, chỉ ngồi xổm trên đất, gõ một cái chậu mà xướng ca.
Bạn của ông ta là Huệ Thi đến viếng, nhìn thấy tình cảnh như thế thì không thể tha thứ, trách móc ông ta là quá vô tình. Trang tử nói:“Không phải như thế đâu, khi bà ta mới chết tôi làm sao không buồn thương chứ ? Sau đó tôi suy nghĩ thật kỷ, vạn vật trong thiên nhiên đều là từ trong cái vô hình sinh ra sự sống, sau đó tuổi thọ kết thúc thì lại biến thành hư vô, như thế biến hóa từ sống qua chết giống như bốn mùa vậy. Bây giờ bà ta an nghỉ yên lặng, mà nếu tôi tỉ tỉ tê tê khóc lóc náo động, thì không phải là tôi hoàn toàn không hiểu đạo lý của cuộc đời sao ?”
(Trang tử: Chí lạc)
Suy tư 19:
    Cha mẹ, vợ con chết, đương nhiên là buồn thương và khóc; bạn bè người thân thương chết, đương nhiên là buồn và khóc, đó là chuyện thường tình của con người, và chính Chúa Giê-su cũng đã thổn thức trong lòng[2] khi ông La-da-rô chết đã chôn được bốn ngày.
     Đạo lý cuộc đời là thuận theo lẽ tự nhiên: người thân qua đời là phải khóc, và dù tuy không khóc nhưng trong lòng vẫn thổn thức, chứ không thể nói khóc là làm ồn ào động tĩnh đến người chết, bởi vì con người đã chết rồi thì những tiếng động ồn ào, những lời cãi lý, những lời chửi mắng.v.v..sẽ không làm cho thân xác sống lại, và cũng chẳng ảnh hưởng gì đến thân xác đã chết ấy.
     Đạo lý của Giáo Hội Công Giáo là người chết rồi nhưng linh hồn thì không chết, linh hồn sẽ nhờ những lời cầu nguyện của các tín hữu còn sống để được Thiên Chúa tha tội, để nhờ việc dâng thánh lễ, cầu nguyện hy sinh của giáo hữu mà linh hồn người thân được mau hưởng nhan thánh Thiên Chúa trên thiên đàng, thân xác sẽ trở về với bụi đất đợi chờ ngày kết hợp với linh hồn trong ngày Chúa quang lâm.
     Vì sợ người ta cười là không hiểu đạo lý cuộc đời nên Trang tử không khóc khi vợ chết, đó không phải là thái độ của người quân tử, bởi vì để làm một người quân tử thì không sợ người khác cười khi mình làm đúng, mà khóc vợ chết là không đúng hay sao ?

20.NGƯỜI GÙ BẮT (DÍNH)[3] VE
Khổng tử đi qua một rừng cây, nhìn thấy trong rừng có một người lưng bị gù đang bắt ve sầu, tốc độ nhanh giống như dùng tay mà nhặt, Khổng tử rất bái phục, bèn đi đến thỉnh giáo anh ta bắt ve có bí quyết gì không.
Người lưng gù ấy nói:“Khi mới bắt đầu, tôi chồng trên cần câu hai viên thịt băm, luyện năm sáu tháng thì viên thịt băm không rơi xuống, tiếp theo luyện thêm ba viên thịt băm, năm viên thịt băm, kỷ thuật càng ngày càng thuần thục. Thực ra khi mới bắt đầu bắt ve, tôi im lặng đứng như cái cọc gỗ, trên tay cầm cái cần câu giống như cành cây khô vậy, khi đối diện với sự luân chuyển rộng lớn của trời đất, thì tôi chỉ bỏ tâm ở nơi cánh của con ve sầu. Chuyên tâm, thế là bắt ve rất nhanh.”
(Trang tử: Đạt sinh)
Suy tư 20:
      Có nhiều giáo giáo dân khi đi xưng tội thì đa phần cáo lỗi:“Con có không chuyên tâm khi dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện...”
Chuyên tâm là nổ lực tập trung tâm hồn về một điểm mà mình nhắm tới.

-Điểm nhắm đến khi dâng lễ là Thiên Chúa, là Chúa Giê-su hiện diện trong bí tích Thánh Thể trên bàn thờ, chứ không phải là công việc làm ăn ở công ty.

-Điểm nhắm đến khi cầu nguyện là Thiên Chúa và những vinh quang của Ngài, chứ không phải nghĩ đến giờ này người yêu đang làm gì, có nhớ đến mình không...

-Điểm nhắm đến khi đọc kinh là Thiên Chúa và những lời tán tụng quy hướng về Ngài, chứ không phải là những chuyện làm ăn buôn bán bên ngoài chợ...
Chuyên tâm khi dâng thánh lễ, chuyên tâm khi cầu nguyện, chuyên tâm khi đọc kinh là việc làm khó, bởi vì ít có ai chuyên tâm được như thế khi mà gia đình không có gạo ăn, khi mà công việc làm ăn thua lỗ, khi mà người này chửi người kia giận hờn.v.v...
     Thiên Chúa biết rõ tâm hồn và cuộc sống của chúng ta, Ngài chỉ yêu cầu chúng ta cố gắng chuyên tâm khi đến với Ngài, cố gắng và cố gắng, đó là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn cả.

21.NGOÀI NẶNG TRONG CHUYẾT
Khi Nhan Uyên ở trong cốc sâu thẳm, gặp một người có kỹ thuật chèo thuyền rất cao chở qua sông. Người chèo thuyền nói với ông ta:“Học điều khiển thuyền nhỏ, nếu biết bơi thì học được nhanh, còn nếu như biết lặn xuống nước thì không học cũng biết.”
Khổng tử nghe mấy câu nói này, bèn nói:“Người biết bơi thì hiểu tính của nước, nên khi rơi xuống nước thì không kinh hoàng, nên học rất nhanh. Còn đối với người biết lặn thì biển sâu cũng giống như trên đất, nếu thuyền lật thì chẳng nhằm nhò gì với họ, tự nhiên có thể bơi thuyền cách khoan thai. Nhưng, nếu đem vàng đi đánh bạc, mà trong tâm người chèo thuyền cứ nghĩ đến chuyện thua tiền, thì không thể có cách biểu hiện tốt như thế. Cho nên có thể nói, người coi trọng những việc bên ngoài, thì nội tâm ắt phải chậm chạp.”
(Trang tử: Đạt sinh)
Suy tư 21:
      Cha Vincent Lebbe đã dạy các đệ tử của ngài:“Tu sĩ nào coi trọng dáng vẻ bên ngoài như áo quần, ăn uống.v.v...thì bên trong nội tâm không có gì cả...”
     Các nhà tu đức học của Giáo Hội Công Giáo cũng nói như thế.
     Có một vài người dâng mình làm tôi tớ Chúa, nhưng luôn thích coi trọng những việc bên ngoài không có ích gì cho đời sống tu đức của họ:

-Lợi dụng đi giúp xứ, khi xong việc thì chưa muốn về nhà dòng, la cà hết nói chuyện người này đến người nọ. Họ ít tham gia giờ kinh với cộng đoàn.

-Lợi dụng đi học, rồi đi đến tối mới về với lý do là phải vào thư viện, phải học nhóm.v.v...họ ít tham gia các việc tập thể của nhà dòng như: làm vệ sinh nhà ở, chơi thể thao, đọc kinh chung...
Lại có một vài linh mục, tu sĩ quá chú trọng đến việc ăn mặc: thức ăn phải ngon, phải đầy đủ dinh dưỡng, và cằn nhằn khi nhà bếp nấu quá mặn hoặc quá nhạt. Áo quần thì phải mỗi ngày mỗi là (ủi), phải mặc những loại vải đắc tiền, phải chải chuốt thật bảnh chọe khi ra ngoài.v.v...

Ôi, thức ăn ngon sẽ thành phân và bị thải ra ngoài, áo quần đẹp rồi thì cũng sẽ bị rách nát, hai thứ này không thể đem đến trước tòa Thiên Chúa được.

22.BỎ NGỌC CÕNG CON
Có một người tên là Lâm Hồi, từ Giả Quốc phiêu bạt ra ngoài, khi rời khỏi nhà, ông ta đem theo ngọc bích giá trị hơn ngàn vàng, tay ẳm con nhỏ vội vội vàng vàng lên đường, nhưng nào ngờ khi trên đường đi thì gặp tình huống khẩn cấp, ông ta đành bỏ ngọc để ẳm con mà chạy.
Người đi đường hỏi ông ta:“Nói theo tiền tài thì con nhỏ không đáng đồng tiền; nói theo kiểu rườm rà thì em bé thật rườm rà. Vậy thì tại sao lại vứt ngọc bích trị giá cả ngàn vàng, mà ẳm em bé mà chạy ?” Lâm Hồi nói: “Tôi và ngọc bích là vì lợi ích mà kết hợp, với em bé thì lại là liên quan đến bẩm tính trời ban.”
Cho nên có thể nói, nếu vì lợi ích mà kết hợp quan hệ, thì khi gặp hoạn nạn sẽ vứt bỏ ngay.
(Trang tử: Sơn mộc)
Suy tư 22:
     Vì lợi ích mà liên kết với con người thì có những thứ sau: tiền tài, danh vọng và xác thịt, chúng nó chỉ đem lại hạnh phúc tạm bợ và đau khổ lâu dài cho con người mà thôi. Bởi vì người ta thường thấy tiền tài đem lại đau khổ cho con người khi tan gia bại sản; danh vọng đem lại bất an cho con người khi quyền cao chức trọng không còn; xác thịt trói cột con người trong những đam mê nhục dục, khiến cho con người bỏ bê những lý tưởng cao cả của mình.

-Kết bạn vì lợi ích cho mục tiêu: khi mục tiêu đã đạt thì tình bạn sẽ tan rã.

-Tình yêu vì lý do lợi dụng: khi gặp hoạn nạn thì tình yêu sẽ bay mất.

-Phục vụ để lợi dụng cho lợi ích cá nhân: khi bị lợi ích không còn thì trở mặt.
Người Ki-tô hữu có hai thứ quý giá để ẳm khi còn sống ở trần gian này, đó là: thế gian và đức tin. Nhưng khi cấp bách, bức thiết thì họ sẵn sàng vứt bỏ những gì là của thế gian như tiền tài, danh vọng, chức quyền, để chỉ giữ lại đức tin mà thôi, bởi vì “thế gian chỉ vì lợi ích mà kiếm tìm, nhưng đức tin là thiên tính Chúa ban cho họ.”
     Bỏ ngọc cõng con là ở đó, ai hiểu được thì hiểu !

23.NƯỚC LỖ NHIỀU NHO SĨ
Trang tử đi gặp Lỗ Ai công, Ai công rất đắc ý, nói:“Nước Lỗ chúng tôi có rất nhiều người đi học, trên phố có thể bất kỳ lúc nào cũng nhìn thấy nho sĩ mặc áo nhà nho.”
Trang tử nói:“Tôi nghe nói các nhà nho đội mão tròn thì hiểu được thiên thời; nho sĩ mang giày vuông thì hiểu được địa hình; nho sĩ mà dùng dây ngũ sắc để buộc ngọc quyết, khi gặp chuyện thì có thể quyết đoán. Nhưng, người mang những thứ trang sức ấy vị tất hiểu được những điều đó, nếu ngài cảm thấy lời của tôi là đúng, thì tại sao không ra lệnh: “Nếu quốc dân ai không hiểu những đạo thuật ấy mà mặc áo nhà nho, thì phải xử chết.”
Ai công hạ lệnh chỉ mới năm hôm, thì nước Lỗ từ trên xuống dưới chỉ có một người dám mặc áo nho sĩ mà thôi.
(Trang tử: Điền tử phương)
Suy tư 23:
      Một quốc gia mà có nhiều nho sĩ thì là một đất nước hiền hòa, công bằng; một đất nước hiền hòa công bằng là vì ai cũng có học hành biết lễ nghĩa.
     Thời nay, các cử nhân nhan nhãn đầy đường như lá mùa thu rụng, nhưng cử nhân dõm thì nhiều hơn cử nhân thật, bởi vì có những cử nhân viết sai lỗi chính tả hơn các em cấp hai, có những cử nhân viết luận án thì “loan chi ba chao” (lộn xộn không thứ tự); thời nay có rất nhiều tiến sĩ, nhưng tiến sĩ giấy nhiều hơn tiến sĩ thật, bởi vì tiến sĩ giấy không nặn ra được một đề tai để bảo vệ luận án, chỉ lấy của người khác sửa vài chữ rồi đề tên mình vào, rồi chạy chọt, thế là có một mãnh giấy học vị tiến sĩ như ai...
     Nếu các nhà giáo dục nghe lời của Trang tử mà ra thông cáo:“Nếu ai có bằng cử nhân hay tiến sĩ mà không có một đề án thiết thực, cụ thể do mình suy ra, thì bị chém đầu.” Bảo đảm là sẽ có những vị tiến sĩ giỏi giang, là nhân tài quý báu của đất nước.
     Đất nước có nhiều nho sĩ thì không nên mừng rỡ khoe khoang, nhưng nếu đất nước có nhiều người hiền, có tâm huyết vì tiền đồ đất nước thì nên vui mừng hớn hở, bởi vì đó chính là tài sản của quốc gia.

24.LIỆT NGỰ KHẤU BẮN CUNG
Liệt Ngự Khâu biểu diễn bắn cung cho Bá Hôn Vô Nhân coi. Anh ta kéo căng dây cung, trên cánh tay để một ly nước, bắn liên tiếp mũi tên này đến mũi tên kia, toàn thân bình tĩnh giống như một hình người nộm.
Bá Hôn Vô Nhân không những không khen ngợi anh ta, mà còn nói:“Cách bắn này của ông không phải vô tâm mà tự nhiên. Ta sẽ đi cùng ông đi lên núi cao kia, đứng trước vực thẳm trăm trượng ông dám bắn không ?”
Bá Hôn Vô Nhân đi đến vực thẳm, lưng hướng về phía vực thẳm mà bước lui, để hai phần ba bàn chân trên không, sau đó mời Liệt Ngự Khâu làm theo tư thế đứng của ông ta mà bắn cung. Liệt Ngự Khâu vẫn có thể bắn thành công sao ? Độ cao như thế làm anh ta sợ rơi xuống vực, chảy mồ hôi lạnh toát...
(Trang tử: Điền tử phương)
Suy tư 24:
      Khi hai chân đứng vững vàng trên núi thì có thể xạ tiễn bách phát bách trúng, nhưng khi một chân co lên một chân còn lại hai phần ba bàn chân đứng bên vách núi của vực thẳm thì chưa chắc đã bắn trúng, vì tư thế đứng không ổn định và vì tâm lý sợ rơi xuống vực thẳm.
     Có một vái giáo dân khi nhà ở gần bên nhà thờ thì sớm tối đều đi lễ đọc kinh vì thuận tiện, nhưng khi ở xa nhà thờ thì không muốn đến nhà thờ, không phải vì giao thông không tuận tiện, mà cũng không phải vì bận công việc nhưng vì làm biếng, họ đi lễ nhà thờ là vì để được khen; có một vài người Ki-tô hữu khi no ấm đầy đủ vật chất thì thích ra tay làm việc thiện bố thí, nhưng khi kinh tế gia đình không còn dồi dào nữa thì một xu họ cũng không bố thí, bởi vì họ chỉ bố thí những đồng bạc dư thừa mà thôi...
     Ở gần bên nhà thờ, chỉ bố thí khi giàu có thì giống như Liệt Ngự Khâu đứng vững vàng trên đất bắn cung, siêng năng đi lễ đọc kinh, vui vẻ bố thí giúp người những của dư thừa. Nhưng Thiên Chúa chỉ muốn chúng ta kiên định đức tin và đức ái ngay cả khi cuộc sống có nhiều gian nan vất vả, bởi vì chỉ có gian nan thử thách mới làm cho đức tin được sáng chói, chỉ có sự nghèo khó mới chứng minh được lòng yêu người thật.
     Và đó chính là người Ki-tô hữu chân thật vậy.
25.THỢ ĐÁ GỌT BÙN
Quốc đô của nước Sở là Sính có một thợ nề, anh ta cùng với người thợ đá góp sức với nhau. Ông người Sính này khi xử lý bùn, vì không cẩn thận nên bùn giọt trên mũi từng giọt, anh ta bèn nói với thợ đá giúp gọt sạch nó.
Anh thợ đá cầm cái rìu múa may mạnh như gió, “xòa” một tiếng, vết bùn bay mất tiêu, cái mũi hoàn toàn vô sự. Trong toàn bộ quá trình, người đất Sính rất bình tĩnh, sắc mặt như không có gì xảy ra.
Sau khi người đất Sính chết, câu chuyện của họ truyền đến tai Tống nguyên quân, ông ta sai người đi tìm người thợ đá đến, nói:“Ông cũng đến giúp tôi gọt xem sao !”
Người thợ đá trả lời:“Không làm được, trước đây tôi có thể gọt, nhưng hôm nay bạn đối thủ của tôi đã chết rồi.”
(Trang tử: Từ vô quỷ)

Suy tư 25:
     Có những tuyệt kỷ công phu khi nổi hứng lên mới thi triển được, có những tuyệt chiêu khi ở trong trạng thái tự nhiên thì mới phát huy công lực, có những biệt tài mà khi gặp bạn tri kỷ mới thi triển được...
Thợ đẽo đá và thợ nề là hai công việc khác nhau hoàn toàn, nhưng họ vẫn trở thành một cặp bạn bè tương xứng vì biết tin tưởng nhau, vì tin tưởng vào tài nghệ của bạn mình, anh thợ đá thi triển tuyệt chiêu gọt bùn cách tài tình vì có người bạn rất bình tĩnh và tin tưởng anh ta.
     Cộng đoàn sẽ không phát triển được nếu các thành viên không tin tưởng nhau; cộng đoàn cũng sẽ không bao giờ có đoàn kết, nếu người có trách nhiệm mà trình độ hiểu biết và kinh nghiệm quá nông cạn, bởi vì như thế họ chỉ a dua theo khi làm việc chung mà không có một sáng kiến giúp cộng đoàn phát triển...
     Khi bạn tri kỷ không còn nữa thì người ta không hề muốn thi triển tuyệt kỷ công phu của mình. Cũng vậy, khi không còn tinh thần nữa thì người ta cũng không muốn làm việc gì khác ngoài việc làm tốt bổn phận của mình mà thôi.

26.HOÀNG ĐẾ GẶP TIỂU ĐỒNG
Hoàng đế muốn đi đến núi Cụ Từ để gặp Đại Ngỗi, để mời ông ta giảng giải về đạo lớn của trời đất, đội xe rầm rộ xuất phát, đi đến bên ngoài đồng của Tương Thành thì đội xe bị lạc đường. Có một em bé chăn ngựa từ xa chậm chậm đi đến, hoàng đế bèn hỏi đường đi, nói:“Em bé có biết núi Cụ Từ không ?”
Mục đồng đáp:“Biết.”
Hoàng đế lại hỏi::Vậy thì em biết Đại Ngỗi ở đâu không ?”
Em bé chăn ngựa cũng nói biết. Hoàng đế rất kinh ngạc, nói:“Kỳ thật, em bé chăn ngựa nhỏ như thế mà biết núi Cụ Từ, lại còn biết nơi ở của Đại Ngỗi là thánh nhân hiểu được đạo lý của trời đất, xin hỏi em, phải làm như thế nào để cai trị thiên hạ ?”
Tiểu đồng nói:“Cai trị thiên hạ có cái gì hả ? Chẳng qua là như thế này, không cần phải đặc biết tìm việc để làm. Giống như chăn ngựa vậy, cứ để ngựa trưởng thành theo tính tự nhiên của chúng nó, chỉ cần thiết loại trừ những gì làm hại ngựa là được rồi !”
Hoàng đế nghe xong gọi em bé chăn ngựa là sư phụ trời gởi đến, bái ba lạy, rồi cáo từ trở về hoàng cung.
(Trang tử: Từ vô quỷ)
Suy tư 26:
      Cái đạo lý to lớn của trời đất trong việc cai trị thiên hạ mà một em bé chăn ngựa cũng hiểu thấu, vậy mà một vị hoàng đế lại không hiểu, cái đạo lý ấy là: cứ để mọi việc thuận theo lẽ tự nhiên của trời đất. Làm hoàng đế thì chỉ nên canh chừng diệt trừ loại bỏ những gì làm hại cái tự nhiên của con người là được rồi, mà cái làm hại sự phất triển tự nhiên hài hòa của xã hội con người là: trộm cắp, gian dâm, cáo gian, vu khống, lừa bịp.v.v...
     Chúa Giê-su đến trần gian không phải để bãi bỏ lề luật nhưng là để kiện toàn[4], Ngài vẫn tuân giữ lề luật nhưng làm cho lề luật được hoàn hảo hơn, xuất phát bởi lòng yêu mến lề luật cách tự nhiên, chứ không phải vì sợ lỗi luật mà sống cách gượng ép và cuối cùng là lén lút lỗi luật...
    Đừng tìm lẽ trời đất ở đâu xa xôi mà lạc đường, bởi vì lẽ trời đất ở ngay trong lòng của mình, khi lòng trí thuận theo lương tâm mà hành động thì đó là lẽ trời đất, mà lẽ trời đất đối với người Ki-tô hữu không phải là đạo sao, đạo chính là Thiên Chúa vậy.

27.CÁI KHÉO CỦA NGÔ VÀ HẦU
Ngô vương ngồi thuyền du lãm ở sông Trường Giang, đi đến núi mỹ hầu, bầy khỉ nhìn thấy người thì vội vàng chạy núp trong rừng sâu, chỉ có một con khỉ không chạy núp, nó nhảy lui nhảy tới trên cành cây ra vẻ vui mừng, khoe khoang sự nhanh nhạy của mình.
Ngô vương dùng cung bắn nó, nhưng bị nó mau lẹ bắt được mũi tên, Ngô vương tức giận gọi thêm mấy thuộc hạ nữa cùng nhau bắn tên giết chết con khỉ này. Ông ta quay đầu nói với Nhan Bất Nghi đứng bên cạnh:“Con khỉ này ỷ vào thân pháp nhanh nhẹn của mình, trước mặt ta mà kiêu ngạo tự đại như thế, mới biết mất mạng là bởi đó, ngươi phải lấy đó mà đề phòng.”
Trong lòng Nhan Bất Nghi rất kinh hãi, sau khi về nhà thì bắt đầu đi bái sư lại, sửa chữa thái độ ngạo mạn kiêu căng của anh ta.
(Trang tử: Từ vô quỷ)
Suy tư 27:
     Cái khéo của con khỉ (hầu) là nhảy nhót nhanh nhẹn nên không sợ cung tên bắn, cái khéo của Ngô vương không phải là tài xạ tiễn, nhưng là biết dùng hoàn cảnh để dạy người có tính ngạo mạn, làm cho Nhan Bất Nghi rùng mình sợ hãi.
     Người kiêu ngạo mà ngạo mạn trước người có tính tự ái, thì trước sau gì cũng bị hạ gục, bởi vì người có tính tự ái thì không thích những kẻ ngạo mạn đùa cợt mình. Con khỉ chết là đáng lắm, vì quá ỷ lại vào sự nhanh nhẹn của mình mà đùa cợt với Ngô vương.
     Lòng tự ái là động cơ thúc đẩy chúng ta vươn lên đạt đến lý tưởng chứ không phải để trả thù nhỏ nhen; tài năng là để chúng ta xây dựng một xã hội tốt đẹp chứ không phải để ngạo mạn với tha nhân. Thành đạt và thất bại là ở chỗ hiểu được cái lý của nó.
     Cho nên, thái độ ngạo mạn và tự ái “dỏm” không những ngăn trở mình tiến bộ, mà càng dễ dàng trở thành nguồn gốc mọi tai họa.

28.XÚC MAN TRANH CHẤP
Quốc quân Huệ Vương của nước Ngụy đang suy nghĩ có nên phát động chiến tranh hay không.
Đới Tấn Nhân đi gặp ông ta, nói:“Có một quốc gia tên là Xúc Thị, vị trí nằm ở bên râu trái của con ốc sên; có một quốc gia tên là Man Thị, vị trí năm ở bên râu phải của con ốc sên, hai nước vì tranh đất nên thường hay đánh nhau, dẫn đến tử thương cả vạn, truy đuổi đội quân bại trận phải đến mười lăm ngày mới ban sư hồi triều.”
Ngụy Huệ vương nghe xong thì nổi giận, chửi ông ta ăn nói xằng bậy, Đới Tấn Nhân nói:“Trời đất bốn phương không có cùng tận, mở rộng tấm lòng rong chơi trong hoàn cảnh vô tận thì rất tốt, ngài lại hà tất giống như hai nước Xúc Man kia phát động chiến tranh sao ?”
(Trang tử: Trắc dương)
Suy tư 28:
     Hòa bình hai tiếng tuy đơn sơ dể nói và là mong muốn ngàn đời của nhân loại; chiến tranh là phá hoại, là không những giết chết thân xác, hủy hoại vật chất, mà còn để lại vết thương lòng cho con người, người phát động chiến tranh là đệ tử của ma quỷ, bởi vì ma quỷ là nguyên nhân và là cha đẻ của hận thù.
     Chúa Giê-su đã dạy chúng ta:“Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.”[5] Mà người xây dựng hòa bình, trước hết, phải có tâm hồn hòa bình, nghĩa là biết tha thứ và cảm thông và bao dung.
     Thánh Phan-xi-cô Assisi đã “ngộ” ra lời Chúa Giê-su dạy, nên ngài cầu nguyện với tâm hồn hòa bình như sau:
“Lạy Chúa từ nhân!
Xin cho con biết mến yêu
và phụng sự Chúa trong mọi người.
Lạy Chúa xin hãy dùng con
như khí cụ bình an của Chúa,
để con đem yêu thưong vào nơi oán thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,
đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan,
chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,
để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa xin hãy dạy con:
tìm an ủi người hơn được người ủi an,
tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết,
tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con,
xin thương ban xuống
những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình.”
Ki-tô hữu là người luôn mang lại bình an và hòa bình cho tha nhân, bởi vì họ là những môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô.

29.NHẬM CÔNG TỬ CÂU CÁ
Nhậm công từ đem sợi dây thừng lớn buột nơi cần câu thật  lớn, dùng năm mươi con trâu để làm mồi, đi lên núi Hội Kê, và dùng hết sức vung cần câu, lưỡi câu bay đến biển Đông, nhẫn nại ngổi đợi cá đến ăn mồi.
Ngày này qua ngày nọ, đợi cả năm mà không thấy cần câu cá động đậy gì cả. Đột nhiên, có một con cá lớn đến ăn mồi, cần câu bị kéo xuống nước, cá lớn vùng vẫy, nước cuồn cuộn, sóng bạc trên biển dâng cao như ngọn núi, khí thế to lớn, truyền xa vạn lý.
Nhậm công tử câu được con cá lớn này thì mỗ bụng nó làm cá khô, người từ Triết Giang cho đến phía đông, từ Thương Ngô cho đến phía bắc đến ăn thịt cá này đến no cành hông. Về sau, thấy rất nhiều người cầm cần câu đứng gần bên khe nước nhỏ, đợi cá nhỏ đến để câu.
(Trang tử: Ngoại vật)
Suy tư 29:
     Dùng năm mươi con trâu để làm mồi câu cá chỉ là chuyện thần thoại, kiên trì ngồi câu cá từ ngày này qua ngày nọ liên tiếp cả năm thì cũng là chuyện bịa đặt kể cho vui, nhưng người biết dùng ngoại vật để suy tư thì rút ra được bài học như thế này:
     Con cá lớn là linh hồn của con người; Nhậm công tử dùng năm mươi con trâu để câu cá là ma quỷ dùng tiền tài danh vọng và xác thịt để câu linh hồn; kiên trì ngồi câu cá từ ngày này qua ngày nọ là ma quỷ nhất quyết không bỏ con mồi, nó chuyên môn rình rập tìm mọi cơ hội để cám dỗ bắt linh hồn người ta mới thôi...
     Nhưng ma quỷ thì lợi hại hơn Nhậm công tử nhiều, vì nó biết linh hồn nào thì nên dùng con mồi nào để câu:

-Người dâng mình làm tôi Chúa thi nó dùng cả ba loại cám dỗ: tiền tài, danh vọng và xác thịt.

-Người có tiền có của thì nó dùng xác thịt và danh vọng để cám dỗ.

-Người có chức quyền thì nó dùng xác thịt và tiền bạc để cám dỗ.

-Người có chút nhan sắc thì nó dùng tiền bạc và xác thịt để cám dỗ.
Vì ma quỷ biết kiên trì cám dỗ và nhắm đúng đối tượng, nên thế gian vẫn chưa có hòa bình, xã hội chưa có an vui, gia đình chưa không yêu thương hòa thuận, và bản thân của con người thì luôn xao xuyến trước tiền tài, danh vọng và xác thịt.
     Chỉ có cầu nguyện, hy sinh, hãm mình và siêng năng chịu các bí tích thì mới có thể chiến thắng được cám dỗ của ma quỷ mà thôi.

30.THẦN RÙA TÍNH SAI
Vào một đêm tối, Tống Nguyên quân nằm mộng thấy có một người đầu tóc rũ rượi đứng bên cửa phòng ngủ, và nói với ông:“Nguyên quân ạ, ta đến từ nơi biển sâu, Thanh Giang phái ta làm sứ giả đi gặp Hà Bá, vì không cẩn thận nên lúc đi đường ta bị ngư phủ tên Dư Thư bắt.”
Nguyên quân kinh hoàng tỉnh dậy, kêu thầy bói đến hỏi, thầy bói bóc quẻ xong thì biết người trong mộng ấy là thần quy (rùa thần), Nguyên quân hỏi:“Trong nước có ngư phủ nào tên Dư Thư không ? Kêu nó đến gặp ta.”
Ngày hôm sau, Dư Thư đến trong cung, Nguyên quân hỏi ông ta:“Gần đây nhà người bắt được gì ?”
Dư Thư trả lời::Tôi lưới được một con rùa trắng, dài khoảng năm thước[6].”
Nguyên quân nghe xong thì bắt ông ta mau mau dâng con rùa lên. Sau khi con rùa được dâng lên thì Nguyên quân phân vân không quyết, không biết nên nuôi hay giết nó, cho nên mới kêu thầy bói đến hỏi, cuối cùng ông ta quyết định giết con rùa. Quả nhiên, dùng cái mu rùa để coi bói, thì không có lần nào mà không linh nghiệm, khiến cho Nguyên quân rất thỏa mãn.
Khổng tử biết được chuyện này, cảm thán nói:“Thần quy có thể báo mộng cho Tống Nguyên quân, nhưng không thể trốn khỏi lưới của Dư Thư; có thể bói lần nào cũng linh nghiệm, nhưng không thể tránh khỏi bị nạn moi ruột mỗ bụng.”
(Trang tử: Ngoại vật)

Suy tư 30:
     Khổng tử luận rất chí lý về việc con rùa thần có thể báo mộng, có thể coi bói rất hay, tức là biết trước những chuyện chưa xảy ra, thế mà không thể biết được bản thân mình bị nạn moi ruột mỗ bụng, đúng là tội nghiệp...
     Thế mới biết, chuyện quá khứ, hiện tại và tương lai thì chỉ có một mình Thiên Chúa biết mà thôi, người Ki-tô hữu luôn xác tín như thế trong đời sống của họ.
     Có những ông thầy bói đi coi bói chuyện tương lai của người khác, nhưng tương lai của mình thì mù tịt; có những ông thầy bói chuyên coi bói chuyện tình duyên gia đạo của người khác, nhưng tình duyên và gia đạo của mình thì cứ rối ren không ra gì cả; có những bà thầy bói hành nghề dùng mu rùa để coi công danh sự nghiệp của người khác, nhưng không hiểu tại sao cuộc đời của mình thì cứ lận đận lao đao mãi không thôi. Thế mới biết, bói ra ma quét nhà ra rác.
     Người Ki-tô hữu biết rằng: làm tốt công việc trong hiện tại, tức là làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình, thì sẽ có một tương lai hạnh phúc, vui vẻ, bình an, dù cho quá khứ có nhiều gian nan cay đắng.

31.KHÔNG LẤY THIÊN HẠ ĐỂ HẠI MẠNG SỐNG
Vua Nghiêu muốn đem thiên hạ nhường lại cho người tài năng đức độ hơn mình cai trị, ông ta muốn nhường cho Hứa Do, nhưng Hứa Do không muốn nhận; ông ta lại muốn nhường cho Tử Châu Chi Phu, Tử Châu Chi Phu nói:“Muốn tôi làm thiên tử cũng được, nhưng hiện tại tôi đang mắc bệnh, vừa mới đi trị bệnh, nên không có thời gian để cai trị thiên hạ.”
Quyền thế ngôi báu thiên hạ thì người người đều muốn chiếm đoạt, nhưng ông ta lại không vì địa vị cao quý mà làm hại đến sức khỏe và cuộc sống của mình, như thế có thể suy ra mà biết, ông ta nhất định cũng không vì lợi ích nhỏ mà làm hại đại sự của thiên hạ. Người như thế sẽ không đem thiên hạ biến thành công cụ quyền lực cho riêng mình, nên an tâm đem thiên hạ trao cho họ vậy.
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 31:
      Vua Nghiêu là một vị vua đạo đức của thời cổ đại bên Tàu, nhưng lại muốn tìm người đạo đức hơn mình để truyền ngôi báu thiên hạ, đúng là một ông vua đạo đức, thời nay hiếm có mấy ông vua như thế, khi mà danh vọng và tiền bạc át cả lương tâm !
     Chức quyền là miếng mồi hấp dẫn nhất mà ma quỷ dùng để phỉnh gạt nhân loại, bởi vì hể có chức là phải có quyền lợi, chức vụ càng to thì quyền lợi càng nhiều, thế gian đảo điên cũng vì chức và quyền.
     Chúa Giê-su đã dạy các môn đệ:”Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em.”[7]
    Cho nên có thể nói, không một người có chức quyền nào lại trở thành đầy tớ của mọi người, nếu họ không có tâm hồn Ki-tô giáo, tức là có một quả tim yêu thương người thân cận như chính mình.

32.TỬ HOA TỬ GẶP CHIÊU HY HẦU
Nước Hàn và nước Ngụy đang tranh chấp lãnh thổ, lúc ấy Tử Hoa tử đến nước Hàn để gặp Chiêu Hi hầu, mà Chiêu Hi hầu vì chuyện tranh chấp này nên đang buồn bực. Tử Hoa tử nói:"Nếu người trong thiên hạ đứng trước mặt ngài lập thề ước, nói: Đoạt đất được rồi thì có thể đoạt cả thiên hạ, nhưng tay trái đoạt thì phải chặt tay phải đi, tay phải đoạt thì phải chặt tay trái đi, vậy thì ngài muốn đoạt chứ ?”
Chiêu Hi hầu nói:“Không muốn.”

-“Tốt lắm, vậy thì có thể nói hai tay không quan trọng bằng thân thể, thiên hạ lại không quan trọng bằng hai tay, nước Hàn lại không quan trọng bằng thiên hạ, bây giờ tranh đoạt lãnh thổ cũng không quan trọng bằng nước Hàn, vậy thì hà cớ gì vì cái chuyện không quan trọng ấy mà ngài phải buồn rầu, rồi làm tổn thương đến sức khỏe của mình chứ !”
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 32:
      Không ai đoạt miếng đất cỏn con để rồi nói mình đoạt được cả thiên hạ, cũng không ai đi cướp đoạt của người khác mà nói rằng mình được lòng cả thiên hạ, bởi vì những việc làm vô lương tâm thì không thể tồn tại và cũng không có gì để rêu rao.
     Tử Hoa tử khuyên Chiêu Hi hầu thật chí lý: chiếm đoạt được cả thiên hạ đâu quan trọng bằng nước Hàn của mình, tức là được lòng dân của nước Hàn, bởi vì nếu được cả thiên hạ mà mất lòng dân thì thiên hạ trước sau gì cũng mất.
     Chúa Giê-su dạy rằng:“Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra tòa, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan tòa, quan tòa lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. Tôi bào cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẻm cuối cùng.”[8] Đồng kẻm (xu) thì quá nhỏ mà phải trả cho hết, huống gì là miếng đất to lớn hơn đồng kẻm cả hàng triệu lần, nếu không trả thì đúng là ở trong hỏa ngục đời đời kiếp kiếp, khiếp thật.
     Người Ki-tô hữu hiểu rất rõ ràng câu Lời Chúa trên đây.

33.LẤY NGỌC CỦA NƯỚC TÙY BẮN CHIM SẺ
Nước Tùy ở gần bên Bộc Thủy, Bộc Thủy là nơi sản xuất ngọc quý, chất lượng và thành phần thật là đệ nhất phẩm, được quân vương của nước Tùy là Tùy hầu lấy làm báu vật của quốc gia. Mọi người đều biết, ngọc của Tùy hầu rất quý và hiếm có chính là loại ngọc quý thuộc hạng nhất nhì trên thế gian.
Có một người có rất giàu có, vì chim sẻ ồn ào làm cho sân nhà của ông ta không được tĩnh lặng, nên ông ta giận dữ cầm ngay viên ngọc Tùy hầu để trên bàn, lấy súng cao su, đi thẳng ra ngoài sân, nhắm ngay chim sẻ mà bắn, mặc dù chim sẽ bị ông ta bắn đã bay mất tiêu, nhưng viên ngọc quý Tùy hầu ấy cũng bay theo mất tăm dạng.
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 33:
      Giận dữ thì luôn làm cho người ta mất khôn, không phải vì ỷ mình giàu có mà ông phú hộ lấy viên ngọc quý Tùy hầu làm đạn bắn chim sẻ, nhưng là vì sự tức giận mà ra, bởi vì khi giận dữ thì sự sáng suốt không còn nữa, sự khôn ngoan cũng bỏ đi, sự thông minh cũng chạy trốn, chỉ còn lại cái...dại dột mà thôi.
     Có nhiều người tan gia bại sản cũng vì giận mà mất khôn, có nhiều người vào tù cũng vì giận mất khôn, có nhiều người ôm hận cả đời cũng vì cái giận mất khôn của mình.

-Sự khôn ngoan thì quý báu hơn viên ngọc quý của Tùy hầu, đừng vì giận mất khôn mà làm mất nó, trở thành kẻ dại dột.

-Trí thông minh thì quý báu hơn viên ngọc quý của Tùy hầu, đừng vì một chút giận dữ mất khôn mà để nó bỏ đi, trở thành người ngu, dù ngu trong chốc lát.

-Tính điềm đạm thì quý hơn viên ngọc quý của Tùy hầu, đừng vì một chút giận dữ mất khôn mà trở thành kẻ vũ phu.
Con người ta ai cũng có tính nóng và giận, nhưng người Ki-tô hữu thì lấy Lời Chúa để khống chế cơn nóng giận, lấy việc năng chịu các bí tích làm phương thuốc chữa trị sự nóng giận, và noi gương Chúa Giê-su, Đức Mẹ Maria và các thánh nam nữ để sống hiền hòa hơn...

34.NHAN HỒI NHÀ NGHÈO NHƯNG KHÔNG LÀM QUAN
Nhan Hồi là người đệ tử mà Khổng tử thích nhất, nhưng gia đình ông ta quá nghèo, Khổng tử bèn nói với ông ta:“Nhan Hồi, nhà con rất nghèo, tại sao không ra làm quan ?”
Nhan Hồi đáp:“Thưa thầy, ở ngoài thành con có năm mươi mẫu ruộng[9], trồng cây cũng đủ để con ăn cháo; ở trong thành con có mười mẫu ruộng, có thể cung ứng cho con chút ít vải vóc. Khi nhàn rỗi thì con đánh đàn, nghiên cứu văn học, cuộc sống như thế rất là khoái lạc, con không muốn làm quan.”
Khổng tử nói:“Ta nghe nói: người biết đủ thì không tìm kiếm lợi lộc mà làm tổn thương mình; người tự nhiên tự tại thì không lo lắng bị thất bại; người tu dưỡng nội tâm khi không có tước vị thì hoàn toàn không cảm thấy xấu hổ. Ta có thể chứng minh được điều ấy nơi con người của con.”
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 34:
     Ở đời có rất nhiều người giàu có nhưng vẫn cứ băn khoăn lo lắng bươn chải kiếm tiền, bởi vì họ không biết đủ; có nhiều người dù làm những công việc nhỏ nhặt cũng không cảm thấy an tâm, cứ sợ thất bại, vì họ không có lòng tự tin nơi mình; có nhiều người cảm thấy xấu hổ vì gia đình nghèo, cảm thấy buồn bực vì không có chức tước, đó là tại vì họ không biết tu dưỡng nội tâm...
     Người ta thấy có những người Ki-tô hữu sống trong những hoàn cảnh rất bất công, rất tồi tệ, rất phân biệt đối xử của người khác, nhưng họ vẫn an vui, bởi vì:

-Cái “biết đủ” của người Ki-tô hữu là vui vẻ sống trong hoàn cảnh hiện tại, chu toàn bổn phận của mình rất có trách nhiệm.

-Lòng tự tin của người Ki-tô hữu là biết tín thác cho Thiên Chúa tất cả các công việc mà họ làm với lòng nhiệt tâm.

-Tu dưỡng nội tâm của họ là luôn nhìn thấy Chúa Giê-su ở trong mình và ở nơi người khác.
Khổng tử vui vẻ chứng thực học trò mình là Nhan Hồi có đầy đủ những đức tính rất tốt, nhưng càng cảm phục hơn khi nghe Nhan Hồi trình bày lý lẽ tại sao mình không ra làm quan.
Người ta cũng sẽ vui vẻ chứng thực Ki-tô hữu là người có Chúa Giê-su trong mình, qua cung cách hành xử đầy tình Chúa tình người của họ, và càng cảm phục hơn khi người Ki-tô hữu sống và thực hành tinh thần Phúc Âm giữa một xã hội đầy bất công, bạo lực và thù hận.

35.LIỆT TỬ KHÔNG NHẬN KÊ
Liệt tử là một vấn gia đại học, nhưng trong nhà rất nghèo, ăn cơm thì bữa có bữa không, cho nên nhìn lên mặt thì thấy vàng ệnh.
Có người nói với tướng quốc nước Trịnh là Tử Dương::Liệt tử là học giả có đạo đức, cư trú trong nước Trịnh của ngài đó, nhưng gia cảnh rất nghèo. Nếu chuyện này truyền ra ngoài, thì người ta nhất định sẽ nói ngài là người không hiểu được việc đối đãi tử tế với học giả.”
Thế là, Tử Dương sai người đem gạo kê đến cho Liệt tử, Liệt tử nhìn thấy sứ giả, ba bốn lần từ chối cám ơn không dám nhận.
Sau khi sứ giả trở về, vợ của Liệt tử oán trách ông ta, nói:“Tôi nghe nói vợ của người có đạo đức đều có thể sống cách an vui lạc nghiệp, nhưng chúng ta ngày hôm nay ngay cả cái bụng đều lấp không đủ no, thật sự thì ông không nên từ chối lương thực đem đến tận cửa nhà !”
Liệt tử cười nói:“Tướng quốc hoàn toàn không hiểu được con người của ta, kính phục học vấn của ta mà thành tâm tiếp tế cho ta. Hôm nay ông ta nghe lời của người khác nên mới đem gạo kê đến cho ta, sau này chắc là rất có thể nghe lời của người khác mà trách cứ tội của ta, đó chính là nguyên nhân mà ta không nhận gạo kê.”
Về sau, nhân dân không thỏa mãn với việc chấp chánh của Tử Dương, quả nhiên đứng lên nổi loạn và giết chết ông ta.
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 35:
     Các thánh nam nữ thà mất tất cả mọi sự ở đời này để được hạnh phúc viên mãn đời sau trên thiên đàng, các ngài đã nhìn xa thấy rộng bằng con mắt đức tin và ân sủng của Thiên Chúa; các thánh tử đạo Việt Nam thà mất mạng sống mình ở đời này, để được sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng với Thiên Chúa, đó là cái nhìn xa thấy rộng của các ngài.
Gạo kê là để lấp đầy bụng cứu đói, là ý nghĩ của những người chỉ nghĩ đến mình và không nhìn xa thấy rộng; nhưng lòng tự trọng là để răn mình và dạy người, là cái nhìn xa thấy rộng của người quân tử chân chính: thà bụng đói còn hơn để người khác coi thường thương hại.
Tiền tài, danh vọng và xác thịt là những hạt kê chỉ để lấp đầy lòng tham sân si của người chỉ nhìn thấy và hưởng thụ ở đời này mà thôi. Nhưng sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban cho sẽ làm cho người Ki-tô hữu nhìn thấy cuộc sống đời sau mới là đời sống thật và vĩnh cửu của họ.
Ai có con mắt nhìn xa thấy rộng thì suy để biết...

36.ĐỒ TỂ DUYỆT KHÔNG NHẬN THƯỞNG
Có một đồ tể giết dê, người ta gọi là Đồ Tể Duyệt. Khi Sở Chiêu vương bị bức phải lưu vong đến quốc gia khác, thì ông ta cùng đi với Sở Chiêu vương, về sau Sở Chiêu vương trở về nước Sở làm vua, bèn muốn thưởng cho những người trung tín đã đi theo ông ta, Đồ Tể Duyệt cũng có tên trong số ấy.
Nhưng Đồ Tể Duyệt cự tuyệt, ông ta nói:“Đại vương mất đi quốc thổ, tôi mất đi công việc giết dê; đại vương về nước nắm quyền, tôi cũng trở lại với nghề giết dê, chức vụ của tôi đã được khôi phục, thì có gì mà được thưởng chứ.” Triệu vương muốn sứ giả gò ép ông ta nhận, Đồ Tể Duyệt trả lời:“Đại vương mất lãnh thổ quốc gia không phải lỗi tại tôi, tôi không đáng bị phạt. Đại vương được lại quốc thổ không phải công lao của tôi, cho nên tôi cũng không nhận khen thưởng.”
Thế là, Chiêu vương muốn sứ giả triệu ông ta về tiếp kiến, Đồ Tể Duyệt cự tuyệt nói:“Pháp lệnh của nước Sở quy định, chỉ có trọng thưởng người tài lập đại công mới lên triều đình tiếp kiến, mà tôi thì vô tài vô dũng, hồi đó vì sợ địch quân mới bỏ gia đình cố hương mà chạy, chứ không có tâm để đi theo đại vương, nên thật ra không có tư cách để yết kiến đại vương.”
Chiêu vương rất thích cách đối xử của ông ta, nên muốn mời ông ta ra làm quan, nhưng Đồ Tể Duyệt nói:“Tôi biết làm quan thì tôn quý hơn đồ tể nhiều, bổng lộc so với đồ tể thì cũng thu vào nhiều hơn, nhưng tôi lại không dám tham lam, tôi vẫn muốn trở lại chợ để làm đồ tể thì tốt hơn nhiều.”
(Trang tử: Nhường vương)
Suy tư 36:
     Chiêu vương rất thích cách đối xử của Đồ Tể Duyệt, mặc dù ông đồ tể giết dê ba lần không nghe lời của Chiêu vương để nhận thưởng và làm quan.
     Thông thường cái tính tự ái thường nhiều hay ít, lớn hay nhỏ đều tùy thuộc vào chức vụ và đạo đức của người ấy, làm vua thì tự ái sẽ lớn cao như núi, làm quan thì tự ái sẽ như các ngọn đồi. Chính những tự ái này của các ông vua và các ông quan vô đạo đức đã làm khổ không biết bao nhiêu là bá tánh: có người bị bắt bỏ tù vì tự ái của ông quan, có người bị chém đầu vì tự ái của ông vua, lại có người tha phương cầu thực vì đất đai hương hỏa của tổ tiên để lại đã bị quan địa phương chiếm đoạt làm của riêng mình...
     Người Ki-tô hữu luôn biết rằng:“Càng cao danh vọng càng nhiều gian nan”, cho nên họ luôn nhớ cầu nguyện co các chủ chăn của mình luôn sống khiêm tốn, thánh thiện và yêu thương, không để tự ái mù quáng lãnh đạo cộng đoàn, bởi vì một khi đã để tự ái lãnh đạo, thì cũng có nghĩa là họ đang đem sói rừng thả giữa bầy chiên của mình: cấu xé nhau vì quyền lợi, phân hóa cộng đoàn mất đoàn kết...
     Lời dạy của Chúa Giê-su vẫn còn đây:“Tôi chính là Mục Tử nhân lành, Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên...”[10]
Cầu nguyện cho các vị mục từ của mình, cũng như cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia là bổn phận của mỗi người Ki-tô hữu.

37.NGƯỜI SỢ BÓNG
Có một người không hiểu sao lại ghét cái bóng và dấu chân của mình, nhìn thấy chúng nó theo đuôi anh ta, anh ta càng nhìn càng thấy ghét, càng nhìn càng muốn ném nó.
Anh ta đi nhanh để chúng nó theo không kịp, nhưng cái bóng và dấu chân thì vẫn cứ cắn theo anh ta không buông. Kết quả, anh ta càng đi càng nhanh, đi nhanh liên tục nên thành chạy chậm, chạy chậm rồi thành chạy nhanh, anh ta chạy đến mặt đỏ hụt hơi, toàn thân mềm nhũng, bởi vì làm thế nào cũng không thể ném được cái bóng và dấu chân ra khỏi mình.
Ai nhìn thấy cũng đều cười nhạo anh ta sao mà ngu thế, chỉ cần đến chỗ có bóng râm thì cái bóng tự nhiên mất; dừng bước không đi nữa, thì dấu chân tự nhiên sẽ không xuất hiện.
(Trang tử: Ngư phụ)

Suy tư 37:
      Dưới ánh sáng thì hình và bóng luôn đi đôi với nhau, hết ánh sáng thì hình cũng mất bóng;
     Cám dỗ thì luôn đi với con người như hình với bóng, chỉ khi nào nhắm mắt tắt hơi hồn lìa khỏi xác mới hết bị cám dỗ, đó là bài học tu đức căn bản của người Ki-tô hữu, ai muốn chặt đứt sự cám dỗ ra khỏi đời mình là làm chuyện hão huyền, bởi vì Chúa Giê-su đã dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha như sau:“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.”[11]
     Có nhiều người cầu xin Chúa cất sự cám dỗ ra khỏi họ, nhưng càng cầu xin thì càng gặp cám dỗ, bởi vì Thiên Chúa sẽ không cất sự cám dỗ ra khỏi chúng ta, nhưng Ngài luôn ban ơn cho chúng ta để chúng ta chiến thắng cám dỗ. Ơn của Chúa là chúng ta luôn cầu nguyện, luôn lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Hòa Giải và bí tích Thánh Thể, cùng thực hành những việc hy sinh có ích cho tha nhân.
     Có người sợ cái bóng của mình là vì họ không biết đi vào chỗ bóng râm không có ánh sáng. Người Ki-tô hữu không sợ cái bóng –là cám dỗ- bởi vì họ biết cậy vào ơn Chúa và dùng ơn Chúa ban để chống trả với cám dỗ, bởi vì họ là những người khôn ngoan...

38.HOÃN NHO SINH THOÁT MỘNG
Có một người nước Trịnh tên là Hoãn, anh ta nghiên cứu học thuyết nhà Nho, ba năm đọc sách nên trở thành nhà Nho.
Anh ta để cho em trai mình đi học học thuyết của Mặc tử, thế là trong nhà của họ luôn luôn xuất hiện tình huống cùng nhau biện luận chủ trương của Nho gia và Mặc gia, mà phụ thân của anh ta thì tán thành cách nhìn của em trai anh ta hơn.
Mười năm sau, Hoãn tự sát.
Vào một đêm nọ, ba của anh ta nằm mộng thấy anh ta nói với mình:“Để con trai của ba trở thành người của Mặc tử là con, tại sao ba không đến nhìn trên mộ con cho biết, cây hương bá trồng trên mộ đã ra hoa kết trái rồi đó !”
(Trang tử: Liệt ngự khấu)
Suy tư 38:
     Chết không phải là hết, nhưng là khởi đầu cuộc sống mới với Thiên Chúa, đó là đức tin của người Công Giáo, thân xác dù con trở thành tro bụi, nhưng nấm mồ vẫn luôn là dấu chỉ nơi an nghĩ ngàn thu của người thân, cho nên có người nói: quên đi nấm mồ của tổ tiên ông bà cha mẹ là quên mất nguồn gốc cội nguồn của mình. Suy nghĩ cũng thấy đúng thật.
Có những người chồng (vợ) khi đưa tiển vợ ra nơi phần mộ rồi thì trồng hoa trồng bông, khóc lóc thảm thiết, nhưng chỉ có mỗi năm ra thăm mộ vợ (chồng) một lần hoặc có khi không ra thăm; có những người con khóc lăn khóc lóc khi tiễn đưa bố (mẹ) ra nghĩa địa, xây lăng trồng bông trồng hoa, nhưng phần mộ của bố (mẹ) thì vắng lặng nhang khói, bởi vì chẳng có đứa con nào ra thăm mộ (bố) mẹ) cả...
     Nấm mồ nơi nghĩa trang, hủ hài cốt để trong nhà hài cốt nơi nhà thờ (hay để nơi chùa, miếu) đều nói lên sự hiện diện tại thế của người đã qua đời, đừng để người thân yêu đã qua đời hiện về nhắc nhở đi thăm mộ của họ, nhưng đi viếng nghĩa địa hoặc đi viếng hài cốt đều bày tỏ một tâm tình ghi ơn, hiếu thảo của của người sống đối với người đã an nghĩ trong Chúa.

39.TRANG TỬ SẮP CHẾT
Trang tử sắp chết đến nơi, các học trò của ông ta muốn dùng lễ nghi thật long trọng để làm hậu sự mai táng cho ông ta. Trang tử biết được bèn nói với các học trò:“Sau khi ta chết, các ngươi trực tiếp đem giục nơi khe suối trong núi là được rồi. Ta dùng trời đất làm quan tài, ngày tháng làm song tường, tinh tú làm ngọc quý, lại còn vạn vật làm phẩm vật chôn theo ta, tang lễ như thế chưa đủ long trọng sao ? Có gì tốt đẹp hơn lễ tang ấy chứ ?”
Học trò của ông ta nói:“Như vậy thì chúng con sợ chim chóc hoặc diều hâu sẽ đến ăn xác thầy ạ.”
Trang tử trả lời:“Đem ta ném đi là cho quạ và diều hâu ăn, đem chôn ta là để kiến và côn trùng ăn, lòng các con quá lệch, không thể không nên từ trong mõm con quạ lấy ra để cho kiến ăn sao ?”
(Trang tử: Liệt ngự khấu)

Suy tư 39:
      Xác chết, dù chôn sâu dưới đất cũng bị giòi bọ ăn, dù phơi trên núi cũng bị chim chóc ăn, dù thiêu đốt thì cũng ra tro, dù đem đi thủy táng thì cũng bị cá ăn, tóm lại, con người một khi đã chết thì thân xác sẽ không còn nguyên vẹn, sẽ trở về với bụi đất...
     Thân xác của người Ki-tô hữu đã được xức dầu thánh hiến trở để nên con cái của Thiên Chúa trong bí tích Rửa Tội, được xức dầu thánh để trở nên chiến sĩ của Chúa Giê-su Ki-tô trong bí tích Thêm Sức, và có những người được xức dầu thánh hiến để trở thành linh mục và giám mục trong bí tích Truyền Chức thánh. Cho nên, mặc dù họ đã chết, nhưng thân xác ấy kết hợp với linh hồn đã được nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, và sẽ được sống lại trong ngày sau hết, do đó mà đòi buộc chúng ta phải tôn trọng thân xác của người đã qua đời.
     Dù an táng trong mộ, hay đi hỏa thiêu đều không quan trọng, bởi vì thân xác ấy cũng sẽ sống lại trong ngày tận thế, để cùng với linh hồn chịu phán xét chung, đó chính là niềm tin “xác loài người sẽ sống lại” của chúng ta, những người Ki-tô hữu.
     Cái quan trọng là bây giờ -ở thế gian này- chúng ta sống làm sao để khi thân xác được sống lại, thì sẽ cùng với linh hồn được sum họp với Chúa Giê-su trên trời, cùng với Đức Mẹ Maria và các thánh nam nữ hưởng hạnh phúc vĩnh cữu...

40.TÀO THƯƠNG ĐI SỨ NƯỚC TẦN
Tào Thương người nước Tống là bạn học với Trang tử, Tống Nguyên quân mời ông ta làm sứ giả, bỏ ra mấy cổ xe cho ông ta, để ông ta đi sứ sang nước Tần, Tần vương rất thích ông ta, tặng cho ông ta một trăm cổ xe, để ông ta cuồn cuộn lướt gió trở về nước Tống.
Tào Thương vừa về đến nước Tống, thì không nhịn được bèn kêu trưởng đoàn xe đi thẳng đến nhà Trang tử để khoe. Ông ta nói với Trang tử:“Mặc dù cuộc sống của tôi trước đây rất nghèo khó, nhưng chỉ cần để tôi đối diện với quân vương thì có thể được một trăm cổ xe, đó mới là bản lãnh của tôi.”
Trang tử cười nói:“Tôi nghe nói vua Tần bị bệnh, người nào có thể phá vỡ cái nhọt độc vừa đỏ vừa sưng tấy lại vừa chảy mủ ấy, thì được thưởng hai cổ xe ngựa; người giúp ông ta liếm mụt nhọt thì có thể được thưởng năm cổ xe. Làm những việc càng thấp hèn, thì càng được thưởng nhiều cổ xe, tôi thấy vua Tần thưởng cho anh rất nhiều cổ xe, lẽ nào anh đi liếm mụt nhọt cho ông ta sao ?”
Trang tử nói xong thì cười lớn tiếng, muốn đuổi Tào Thương và đội xe của ông ta đi gấp.
(Trang tử: Liệt ngự khấu)
Suy tư 40:
      Tào Thương không liếm mụt nhọt cho vua Tần để được một trăm cổ xe, nhưng vì vua Tần thích Tào Thương nên mới tặng xe; Trang tử đã dùng những lời độc địa để chê bai Tào Thương khi chỉ nghe nói những việc làm của vua Tần, mà không kiểm chứng, phải chăng vì ghen tức với Tào Thương ?
     Xét cho cùng, nếu Tào Thương không đến khoe cái tài giỏi của mình với Trang tử, thì chắc sẽ không bị Trang tử nói lởi bẻ mặt. Tình ngay mà lý gian là ở đó.
     Lòng dạ con người không thể nghe một vài lời nói để đo rồi nói: người này tốt; cũng không thể thấy một vài việc làm của họ mà lường rồi nói: người kia đáng làm bạn, nhưng phải trãi qua nhiều chặng đường vui sướng đau khổ, giàu có nghèo hèn mới biết được lòng dạ của nhau. Bời vì có những người khi hoạn nạn thì là bạn bè, nhưng khi giàu có thì hết bạn hết bè; có người khi giàu có thì bạn bè, nhưng khi bạn trở thành kẻ nghèo thì tình bạn cũng bay mất tiêu luôn.
     Mỗi người Ki-tô hữu là một sứ giả của Thiên Chúa tại trần gian này, phần thưởng Chúa ban cho không phải là trăm cổ xe nhưng là ân sủng, không phải là tiền bạc nhưng là tình yêu, do đó đừng nên khoe khoang những gì mình đã nhận được, nhưng hãy đem cho đi để làm lợi cho linh hồn mình và linh hồn của tha nhân, bằng không thì chúng ta sẽ không những mất ơn nghĩa với Chúa, mà còn bị người khác buông lời chế giễu...
     Khiêm tốn là nền tảng để xây dựng mọi giao hảo hòa bình ở trần gian này.

41.LO BÒ TRẮNG RĂNG
Nước Kỷ[12] có một người ngày đêm lo lắng sợ trời sập, vừa nghĩ đến tình hình ấy thì ông ta ăn không ngon, ngủ không yên giấc.
Lại có một người khác biết được người nước Kỷ ấy buồn rầu thì cảm thấy nực cười, nên chạy đến gặp ông ta, nói:“Trời là do khí tích tụ mà thành, không có chỗ nào mà không có khí, chúng ta cả ngày đều ở trong khí mà hoạt động, sao lại lo lắng có ngày trời sập chứ ?”
Người nước Kỷ lo lắng hỏi:“Nếu trời chỉ do khí tích tụ mà thôi, tại sao nhật nguyệt tinh tú không bị rơi xuống ?”
Người ấy nói:“Nhật nguyệt tinh tú cũng là sự tích khí của ánh sáng, có rơi xuống thì cũng không làm hại người.”

-“Vậy thì địa cầu sẽ không bị sụp sao ?”

-Địa cầu là do đất tích tụ mà thành, đầy đủ bốn phương, không có chỗ nào mà không có đất, chúng ta cả ngày ở trên đất đi lại, địa cầu làm sao có thể sụp được chứ ?”
Người nước Kỷ sau khi nghe người ấy giải thích xong, thì hiểu rõ sự thật, sự lo lắng cũng biến mất luôn.
(Liệt tử: Thiên thụy)
Suy tư 41:
     Con người ta ai cũng có những nổi lo của mình: có người lo ngày mai lấy gì ăn lấy gì mặc; có người lo tháng này lấy tiền đâu mà đóng học phí cho con; có người lo chạy áp phe bể mánh; có người lo tiền hối lộ chia chác bị cấp trên phát hiện; lại có người lo không biết ngày nào thì “ủ tờ”, bởi vì buôn bán ma túy thuốc phiện.v.v... Tóm lại là người giàu có thì có nổi lo lắng của người giàu có, người nghèo khó thì có sự lo của người nghèo khổ, ai cũng lo lắng cả.
     Lo chuyện trời đất sập không phải là lo bò trắng răng, nhưng là mọt cái lo chính đáng, đó là cái lo mà ngày nay khoa học đang lo lắng không biết quả đất này nó sẽ như thế nào, nếu có một thiên thạch khổng lồ tông vào, ghê thật.
     Ai cũng có cái để lo lắng cả, nhưng người Ki-tô hữu biết đem cái lo lắng của mình đặt vào trong sự quan phòng của Thiên Chúa, và hết sức làm tròn trách nhiệm của mình, đó chính là cái lo lắng cách chính đáng mà bất kỳ người Ki-tô hữu nào cũng có thể làm được, chỉ có điều là họ có sự tín thác không mà thôi.

42.THƯƠNG KHÂU KHAI
Phạm Tử Hoa là hào chủ nước Tấn rất có quyền thế, người người trong toàn quốc từ trên xuống dưới đều sợ ông ta. Hòa Sinh và Tử Bá là hai người thực khách của nhà họ Phạm, cả hai người kết bạn đi du ngoạn, vì trời tối nên ngụ nhờ trong nhà lão nông phu là Thương Khâu Khai, đêm về, họ nói về chuyện thế lực của Phạm Tử Hoa, nói ông ta có thể làm cho người sống bị chết, người chết được sống. Cái ông thật thà là Thương Khâu Khai nghe được thì tin là thật, quyết định đi đầu quân cho Phạm Tử Hoa, để sống qua ngày tháng.
Thương Khấu Khai đến nhà Phạm Tử Hoa, thực khách của nhà họ Phạm liên kết nhau lại bắt nạt và nói với ông ta:“Chỉ cần ông bò lên trên đài cao rồi nhảy xuống thì thưởng cho một trăm lượng.” Thượng Khâu Khai rất phấn khởi nhảy xuống, nào ngờ thân thể của anh ta giống như chim đập cánh bay lên, đáp nhẹ xuống đất mà không bị thương tích gì cả.
Một hôm, nhà kho của nhà họ Phạm bốc cháy, Tử Hoa nói với Thương Khâu Khai:“Nếu anh có thể đi vào trong lửa lấy chăn mùng vải lụa, thì ta thưởng cho.” Thương Khai Khâu không chút chần chờ vội vả đi vào trong đám lửa đang cháy, lấy chăn mùng vải lụa rất thoải mái, thân thể hoàn toàn không bị cháy bỏng.
Mọi người nhìn thấy, cho rằng ông ta là người có đạo hạnh, nên chen nhau đến xin lỗi ông ta nói rằng trước đây không nên nói dối ông. Lúc này Thương Khâu Khai mới biết trước đây mình bị lừa bịp, thế là lòng tin tưởng hoàn toàn bắt đầu hoài nghi, nhớ lại những hành vi trước đây của mình, càng nghĩ càng sợ hãi, và cũng không làm lại được một vài việc đã làm.
(Liệt tử: Hoàng đế)

Suy tư 42:
     Khi lòng tin đã mất thì khó mà lấy lại, bởi vì tin tưởng chính là đem hết tâm trí tình cảm của mình cho một ai đó, và khi biết mình bị lừa -vì lòng tin của mình đã bị lợi dụng và bị coi thường- thì con người ta sẽ mất tất cả tin tưởng, và hậu quả là sẽ trở thành đối đầu với nhau, cái đối đầu không đáng có.
     Con người ta sống là sống với nhau, sống cùng nhau và cho nhau; là một hợp quần xã hội chứ không phải là một ốc đảo, cho nên lòng tin tưởng lẫn nhau phải đặt lên hàng đầu trong cuộc sống. Có rất nhiều công ty bị giải tán là vì thiếu lòng tin của khách hàng, có nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ là vì không trọng chữ tín, có nhiều người thất điên bát đảo vì coi thường lời hứa của mình cũng như coi thường lời hứa của người khác...
     Chúa Giê-su dạy chúng ta một cách đối xử rất tình và rất lý, Ngài dạy rằng:“Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.”[13] Lời dạy này không những dạy chúng ta về chữ tín, mà còn dạy cũng ta tôn trọng và thực hành chữ tín với mọi người, bởi vì tất cả lề luật và các lời ngôn sứ là như thế[14].
     Càng làm quan to càng phải giữ chữ tín, càng có học càng tôn trọng chữ tín, bởi vì chữ tín không thể có nơi quan to mà không có đạo đức, và chữ tín cũng không mặn nồng với những kẻ hãnh tiến coi mình là cái rốn của vũ trụ...

43.LƯƠNG UYÊN NUÔI THÚ
Trong hoàng cung của Châu Tuyên vương, có một người tên là Lương Uyên chuyên phụ trách chăm sóc các động vật, anh ta hiểu cách đặc biệt về cách nuôi động vật hoang dại. Các động vật được Lương Uyên nuôi trong vườn, dù cho là các loại cầm thú dũng mãnh như hổ, lang sói, điểu, chim ó, cũng đều biểu hiện được sự hoàn thuận ôn thuần.
Châu Tuyên vương lo là sau khi Lương Uyên chết thì kỷ thuật cũng bị thất truyền, nên phái Mao Khâu Viên đến học nghệ cùng anh ta.
Lương Uyên nói với Mao Khâu Viên:“Công việc tôi làm thật đơn giản, hoàn toàn không có gì đặc biệt để dạy cho anh, bèn tạm đem một vài nguyên tắc dạy hổ nói cho anh vậy.”

“Phàm là động vật có khí huyết, chỉ cần chiều theo nó thì nó rất vui mừng, làm nghịch lại với nó thì nó giận dữ, đó chính là bản tính. Chỉ cần chiều theo bản tính của con hổ, thì hổ cũng sẽ lấy lòng người nuôi dưỡng nó, nhược bằng vi phạm bản tính của nó, thì nó sẽ cắn người. Do đó, chỉ cần khống chế chuẩn xác cách ăn uống của thú hoang dại, không nên để chúng nó đói; chiều theo tính khí của chúng nó, không nên để chúng nó giận dữ, như thế chúng nó coi chúng ta là đồng loại với chúng, tự nhiên sẽ không nghĩ đến núi sâu đất dã.

“Động vật trong vườn của tôi, chính là bị tôi trung hòa bản tính nên mới như thế đó.”
(Liệt tử Hoàng đế)

Suy tư 43:
     Có hai bí quyết để chế phục động vật hoang dã, đặc biệt là những loài có khí huyết: một là hiểu được bản tính của nó, hai là không chế việc ăn uống của nó. Bởi vì dù là động vật có khí huyết –như con người- nhưng nó vẫn là loài không có trí khôn như con người.
     Con người là một động vật có khí huyết đồng thời cũng có trí khôn, có lý trí, cho nên không thể dùng vật chất để khống chế, càng không thể dùng bạo lực để chế ngự, nhưng chỉ có sự công bằng trong tự do mới có thể khắc chế loài người có trí khôn và lý trí mà thôi.
     Người Ki-tô hữu đều biết rằng, con người không những có thân xác, có linh hồn mà còn là được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa nữa, mà Thiên Chúa chính là chân lý, là hoàn thiện, là tuyệt mỹ và rất thánh. Cho nên con người bao lâu còn ở thế gian này thì vẫn luôn khát khao tìm kiếm chân lý để được sống hoàn thiện, tìm sự đẹp đẽ trong tư tưởng và việc làm để cuối cùng trở nên thánh khi diện kiến với Cha trên trời.
     Hiểu được bản tính của động vật hoang dã và chế phục cách ăn uống của nó là việc làm của người nuôi dạy thú; dùng tự do và công bằng để thu phục và kiến tạo lòng tin của mọi người, là việc làm của những người có trách nhiệm với mọi người, trách nhiệm này sẽ giải bày công khai khi ra trước tòa án công thẳng của Thiên Chúa.
     Đáng sợ thật.

44.NGƯỜI THÍCH CHIM HẢI ÂU
Có một người dựa vào biển mà sinh sống, ngày ngày đều bắt cá trên biển, lâu dần thì say mê những con chim hải âu ẩn hiện trên thuyền, mỗi ngày ở không đều đùa giỡn với chim hải âu. Chim hải âu cũng thích anh ta, nên thường kết thành đoàn đội vây quanh anh ta.
Ông bố của anh ta biết chim hải âu thích con mình, nên muốn thử đùa giỡn với hải âu cho biết mùi vị, bèn nói với con mình:“Bố nghe nói hải âu thích đùa giỡn với con, ngày mai con bắt vài con đem về để ba giỡn với tụi nó.”
Ngày hôm sau, đứa con xách cái lồng đi ra biển, anh ta hú gọi chim hải âu đến để muốn lợi dụng bắt vài con, nhưng ngày hôm ấy hải âu đều bay trên trời cao, không bay gần thuyền nữa.
(Liệt tử: Hoàng đế)
Suy tư 44:
     Cái dễ thương của người Ki-tô hữu là biết chia sẻ với người khác những niềm vui nỗi buồn, bởi vì qua lời dạy của thánh Phao-lô tông đồ họ hiểu được việc chia sẻ với tha nhân chính là chia sẻ với Chúa Giê-su, thánh Phao-lô đã chia sẻ như thế này:“Họ là người Híp-ri ư ? Tôi cũng vậy ! Họ là người Ít-ra-en ư ? Tôi cũng vậy ! Họ là dòng giống Áp-ra-ham ư ? Tôi cũng vậy ? Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư ? Tôi nói nhju7 người điên: tôi còn hơn họ nữa...”[15] bởi vì Chúa Giê-su xuống thế làm nguời không những chỉ cứu chuộc người Do Thái mà thôi, nhưng là cứu chuộc cho toàn thể nhân loại.
     Người con vì muốn để cho ông bố vui lòng –dù anh ta không muốn- nên muốn lợi dụng tình bạn giữa chim hải âu và mình để bắt chim hải âu về cho bố đùa giỡn, nhưng trời không muốn như thế...
Trở nên như người nghèo để phục vụ và chia sẻ với người nghèo, trở nên như bệnh nhân để phục vụ và an ủi họ, trở nên như người bị áp bức để nâng đỡ họ.v.v...là lý tưởng của người Ki-tô hữu của mọi thời đại, dù họ biết rằng những việc làm của họ đôi lúc được trả giá bằng hy sinh, đau khổ và tù đày...

45.CÂY BƯỞI BIẾN THÀNH BƯỞI ĐẮNG
Vị trí của nước Ngô và nước Sở đều ở phía nam, khí hậu tương đối ẩm ướt nóng nực. Nơi biên giới của hai nước có một loại cây đại thụ gọi là cây bưởi, thân cây hiện lên màu xanh biếc, dù cho mùa đông cũng không khô vàng, trái của cây bưởi là màu hồng, vị rất chua.
Thân cây bưởi có thể dùng làm thuốc, cành cây của nó chảy ra chất dịch rất tốt cho phổi, có thể trị được bệnh suyễn, đối với đất đai các nước Trung Nguyên ở miền bắc, khí hậu lạnh mà khô thì rất quý các dược liệu này. Các nhà thuốc địa phương vì để tiện lợi lấy vỏ cây bưởi, nên đem cây bưởi dời qua trồng ở sông Hoài miền bắc. Không ngờ, cây bưởi sau khi trồng ở miền bắc, bởi vì thổ nhưỡng và khí hậu không giống nhau, nên lớn lên giống như cây bưởi đắng, hình dáng loại cây này thì nhỏ.
(Liệt tử: Thang vấn)
Suy tư 45:
      Cây bưởi trồng ở miền nam thì tốt, đem qua trồng ở miền bắc thì lại èo uột, vị đắng nghét, bởi vì thổ nhưỡng không giống nhau.
     Có một vài gia đình có con em đạo đức, siêng năng đến nhà thờ đi lễ và tham gia các đoàn thể của giáo xứ, nhưng khi lên thành phố làm ăn sinh sống, học hành, thì con cái họ không còn ngoan đạo như ở miền quê, bởi vì thành phố có những cám dỗ của thành phố, không thích hợp để chúng nó sống đạo như ở nhà quê; có một vài thanh niên học hành chăm chỉ khi còn ở quê nhà, nhưng khi ra nước ngoài học thì không còn chăm chỉ nữa, bởi vì nơi mảnh đất giàu sang và rất đầy đủ tiện nghi ấy, không phải là nơi thích hợp với cảnh nghèo ham học của họ...
     Hạt giống Lời Chúa thì luôn thích hợp cho mỗi thời đại và mọi hoàn cảnh, có điều chúng ta có biết chuẩn bị mảnh đất tâm hồn của các con em mình không mà thôi !
Nếu chúng ta biết giáo dục chúng nó cách sống đạo bằng tâm hồn kết hợp với việc đi tham dự các sinh hoạt của giáo xứ, thì dù cho các em ở những nơi khô khan, những nơi vắng bóng nhà thờ, vắng bóng linh mục, thì các em cũng vẫn sống đạo được như thường. Nếu chúng ta –những phụ huynh- biết sống đạo gương mẫu, thì con em của chúng ta cũng sẽ trở thành những mảnh đất tốt tươi để Lời Chúa nẩy mầm và sinh nhiêu hóa trái thánh thiện.
Mỗi một tâm hồn là một mảnh đất, đất tốt hay xấu, cằn cổi hay phong nhiêu là do người nông dân biết chăm nom, mà người nông dân ấy không phải là cha mẹ, là linh mục là các nam nữ tu sĩ và những người có trách nhiệm với thế hệ trẻ hay hay sao ?

46.LÃO TỬ CHỈ BẢO DƯƠNG CHU
Dương Chu là học trò của Lão tử, hai thầy trò cùng đi du ngoạn. Được nửa đường, lão tử ngẫng đầu lên thở một hơi dài, nói:“Trước đây ta nghĩ rằng người có thể dạy dỗ người khác, bây giờ mới biết là không phải thế.” Dương Chu nghe xong, nhưng không lời đáp lại.
Hai người đến một quán trọ, Dương Chu thần thái ngạo mạn ngất nghểu, khiến người khác tưởng ông ta là một nhân vật quan trọng, do đó các khách trong quán trọ ra nghênh tiếp ông ta, chủ nhà tự lấy ghế cho ông ta ngồi, vợ của chủ nhà giúp ông ta lấy khăn và lược, mọi người vội vàng nhường chỗ cho ông ta.
Cơm tối xong, Dương Chu cung kính mời Lão tử rửa mặt chải tóc, sau đó quỳ trước mặt Lão tử thỉnh giáo ông ta lời nói hôm nay có ý nghĩa gì, và xin thầy chỉ bảo những sai sót của ông ta.
Lão tử cười nói:“Thái độ của người tự cao ngạo mạn coi trời bằng vung, ai muốn cùng ngươi chung sống hử ? Ta nói cho ngươi biết, người trong lòng quang minh thuần khiết, thì ngược lại bên ngoài hiện ra có chỗ thiếu sót; người đức hạnh cao thượng thì thái độ khiêm nhường.” Dương Chu nghe xong thì rất xấu hổ, cung kính tiếp thu lời giáo huấn của thầy.
Qua ngày hôm sau, khi họ chuẩn bị rời khỏi quán trọ, thái độ của Dương Chu biến thành hiền lành dễ gần, những người khách khác đều cười tranh chỗ ngồi cùng ông ta.
(Liệt tử: Hoàng đế)
Suy tư 46:

“Người trong lòng quang minh thuần khiết, thì ngược lại bên ngoài hiện ra có chỗ thiếu sót; người đức hạnh cao thượng thì thái độ khiêm nhường.” Đó là lời dạy rất thẳng thắn và chân tình của Lão tử đối với học trò có tính kiêu ngạo.
     Cái thiếu sót của người trong lòng quang minh thuần khiết là không coi trọng vẻ bên ngoài, tức là không làm ra vẻ ta đây, không kiểu cách bệ vệ, không khoe khoang chơi nổi, nhưng sống nghiêm khắc với bản thân và tự nhiên thân ái đơn sơ với mọi người...
     Để dạy kiến thức cho học trò thì thầy giáo phải giỏi kiến thức, giỏi chuyên môn; nhưng để giáo hóa người khác thì phải bắt chước Chúa Giê-su đặt mình vào hoàn cảnh và tâm trạng của người tội lỗi, Ngài nói:“Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”[16] Thánh Phao-lô tông đồ cũng theo gương Chúa Giê-su cùng khóc với người khóc, cùng vui với người vui, để giáo hóa và loan báo Phúc Âm cho họ, và “thiếu sót” bên ngoài của Chúa Giê-su là bị đóng đinh chết trên thập giá, và cái “thiếu sót” bên ngoài của thánh Phao-lô tông đồ là bị tù đày, bị chém đầu.
     Được chỉ dạy là một may mắn, nhưng khiêm tốn để sửa đổi cuộc sống mình theo lời dạy là một hạnh phúc. Mà người Ki-tô hữu không phải là những người được Chúa Giê-su dạy qua Giáo Hội sao ?

47.HUỆ ÁNG THUYẾT NHÂN NGHĨA
Huệ Áng đi gặp Tống Khang vương , nhưng Khang vương không muốn gặp ông ta, nói không đáng kể:“Tôi thích người dũng mạnh có sức lực, không thích nghe những chuyện nhân nghĩa đạo lý ấy, ông chạy đến gặp tôi để làm gì ?”
Huệ Áng nói:“Thần có một đạo thuật có thể làm cho người dũng mãnh khi đâm giết người thì đâm không thủng da; người có sức lực khi truy đuổi đánh người thì đánh không trúng mục tiêu, đại vương đối với những đạo thuật ấy không cảm thấy hứng thú sao ?”
Lúc này thì cảm hứng của Khang vương bị trêu chọc, Huệ Áng lại nói:“Đâm không thủng, đánh không trúng, thì coi như bị sỉ nhục, và hoàn toàn không cao minh, thần có đạo thuật có thể làm cho người dũng mãnh có sức lực mất đi ý định đánh đâm người khác. Như thế cũng chưa đủ, thần có đạo thuật có thể làm cho họ mang một tâm hồn yêu mến bảo hộ người khác. Đại vương đối với việc này cũng không có hứng thú sao ?”
Tống Khang vương rất hứng thú nói:“Đó chính là điều ta muốn đạt được đó.”
Huệ Áng lập tức trả lời:“Khổng tử và Mặc tử chính là như thế ! Khổng Khâu và Mặc Địch không có phong đất, cũng không làm quan chức nhưng lại có đủ lực ảnh hưởng như thế đến nhà vua và quan trường, người trong thiên hạ có kỳ vọng có thể nhận được sự giáo hóa của họ. Đại vương, ngài là một quốc vương, nếu có thể có đạo thuật của Khổng, Mặc, như thế người trong toàn quốc đểu có thể được giáo hóa, như vậy có thể là so với Khổng Mặc thì cao minh hơn nhiều.”
(Liệt tử: Hoàng đế)

Suy tư 47:
      Nhà vua thích nói chuyện binh đao dũng mảnh chứ không thích nói chuyện đạo lý nhân nghĩa, bởi vì lòng dạ nhà vua lúc nào cũng muốn dùng đao binh vũ lực để chiếm đoạt của thiên hạ, nhưng thử hỏi vũ lực đao binh có bảo vệ được nhà vua, có thu phục được lòng người không ? Dùng sức mạnh để thu tóm thiên hạ thì có ngày cái thu tóm đó tan vỡ cách thảm hại, dùng nhân nghĩa để thu phục thiên hạ, thì thiên hạ sẽ trở thành hậu thuẩn chắc chắn cho mình, bởi vì nhân nghĩa chính là nền tảng của việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
     Chúa Giê-su giáo huấn chúng ta:“Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “mắt đền mắt, răng đền răng”, còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa...”[17]
     Tống Khang vương thích dùng bạo lực nhưng cũng phải cảm phục trước lời nói về nhân nghĩa của Huệ Áng, bởi vì ông ta đã “ngộ” ra được chỉ có lòng nhân nghĩa mới đem lại hạnh phúc cho trăm họ, bởi vì nhân nghĩa thì xây dựng và củng cố, bạo lực thì phá đổ và chia rẽ...
Người Ki-tô hữu có một sứ mệnh thiêng liêng cao cả là: đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm...[18]

48.DOÃN THỊ VÀ LÃO BỘC
Thời nhà Châu có người họ Doãn sự nghiệp rất là lớn, trong nhà những nô bộc làm những công việc rất nặng, trời chưa sáng đã thức dậy làm việc cho đến khi trời tối mới có thể nghỉ ngơi.
Có một lão nô tài mặc dù ban ngày làm việc mệt bả người, nhưng đêm đêm nằm mơ thấy mình làm vua một nước, ngày ngày yến tiệc vui chơi trên lầu các.
Có người cảm thấy lão nô tài quá khốn khổ nên an ủi ông ta, nhưng ngược lại, lão nô tài nói với người ấy:“Ban đêm và ban ngày đều chiếm một nửa của đời người, mặc dù ban ngày tôi làm nô bộc thật khổ, nhưng ban đêm thì lại làm vua khoái lạc vô cùng, như thế thì có gì là oán hận chứ ?”
Chủ nhân của lão nô tài là Doãn Thị tiêu hao tinh thần rất lớn cho sự nghiệp kinh doanh của mình, xong công việc một ngày thì cũng mệt nhọc bở hơi, nên nằm xuống giường là ngủ ngay, nhưng ông ta mỗi đêm đều nằm mơ mình làm nô tài cho người khác, không những lao động khốn khổ, mà còn bị chủ nhân nhiếc mắng làm nhục, nên thường rên xiết cả đêm.
Giấc mơ của Doãn Thị khiến cho ông ta rất đau khổ, bèn xin ý kiến của bạn bè. Bạn của ông ta nói:“Khi ông thức ban ngày thì địa vị và của cải thì vượt hẳn người khác rất nhiều, buối tối năm mơ lại còn hưởng thụ, làm gì có chuyện may mắn như thế chứ !” Doãn Thị nghe xong bèn quyết tâm giảm bớt công việc cho đầy tớ, tự mình cũng không dã tâm như thế nữa để mở rộng sự nghiệp. Thế là, đau khổ của Doãn Thị được bớt đi rất nhiều.
(Liệt tử: Châu Mục vương)
Suy tư 48:
      Thời nay, có những ông chủ chỉ biết mình và tiền bạc công việc của mình, chứ không biết đến người làm công, thế là vì coi đồng tiền lớn hơn nhân phẩm và mạng sống của người làm công, nên họ ra sức bốc lột những người làm công của mình. Doãn Thị là một điển hình. Bạn bè thức tĩnh Doãn Thị, nói:“Không ai may mắn ban ngày quá sung sướng hơn người, rồi ban đêm nằm mơ cũng sung sướng”, cũng có nghĩa là: không ai có may mắn sung sướng ở đời này rồi, mà còn sung sướng cả đời sau nữa.
     Nhưng người Ki-tô hữu thì tin rằng, họ sẽ sung sướng đời này và cả đời sau, nếu bây giờ -đời này- họ biết dùng của cải chia sẻ với người nghèo, biết tôn trọng nhân phẩm của người khác, biết phục vụ tha nhân vì Chúa Giê-su.
     Có những người đầy tớ nói:“Gặp ông bà chủ là người Công Giáo thì dễ thở, bởi vì họ đối xử rất tốt với người làm công”. Đó là một nhận xét khách quan và trung thực, bởi vì người Ki-tô hữu được Chúa Giê-su dạy rằng: yêu người thân cận như chính mình. Và hơn thế nữa, họ nhìn thấy Chúa Giê-su ở nơi người khác.
     Được làm người Ki-tô hữu thì hạnh phúc thật, và được làm việc cộng tác với người Ki-tô hữu thì hạnh phúc cng34 không kém.

49.DƯƠNG LÝ HOA TỬ BỆNH HAY QUÊN
Dương Lý Hoa Tử người nước Tống, thời trung niên thì có bệnh hay quên, việc làm buổi sáng thì buổi tối quên mất, không phân biệt rõ ràng việc trước việc sau, cũng không hiểu sự khác biệt trong quá khứ và hiện tại.
Người nhà của ông ta rất lo lắng nên mời sứ quan đến bốc quẻ nhưng cũng không kết quả, mời đồng bóng đến khấn vái cũng không chuyển biến tốt, mời thầy thuốc đến kê toa thuốc cũng không thấy khởi sắc. Người nhà vừa sợ vừa hoảng, không biết làm thế nào mới tốt.
Lúc bấy giờ ở nước Lỗ có một nho sinh đến cổng tự mình giới thiệu, nói mình có thể chữa lành bệnh ấy của Dương Lý Hoa Tử, trong tình huống này thì mọi người đều bó tay hết cách, nên quyết định để anh ta thử xem.
Không biết Nho sinh ấy dùng phương pháp gì mà trị lành bệnh cho Dương Lý Hoa Tử. Nhưng khi ông ta vừa tỉnh lại thì nộ khí xung thiên đuổi Nho sinh chạy gấp, lại còn lớn tiếng chửi vợ mắng con nữa.
Bà con hàng xóm cảm thấy kỳ cục bèn hỏi nguyên nhân. Dương Lý Hoa Tử nói:“Trước đây khi tôi còn mắc bệnh hay quên, lòng trống trải không biết có sự tồn tại của trời đất, bây giờ nhớ lại sự tình, thua thiệt, buồn vui, tốt xấu hơn mười mấy năm rồi bây giờ nhớ lại nên thường thường làm rối loạn tâm hồn của tôi. Từ nay tôi không có cách gì để có được sự vui vẻ trong chốc lát.”
(Liệt tử: Châu Mục vương)

Suy tư 49:
      Có những người vì quá mệt nhọc với công việc nên cầu xin trời đất cho mình trở thành người điên để quên hết mọi việc; có người vì cứ bị cấp trên chèn ép và bị áp lực công việc mà cầu xin trời cho mình chết quách cho rồi; lại có người cứ làm ăn thua lỗ và gánh nặng gia đình nên cũng có khi cầu xin trời cho mình quên hết sự đời.
     Cứ nhìn người điên thì bạn sẽ thấy mình hạnh phúc; cứ nhìn những người thất nghiệp không có công ăn việc làm, thì sẽ thấy mình là người may mắn; cứ nhìn thấy những người đang làm ăn thua lỗ, bị kiện cáo, bị đòi nợ, thì sẽ thấy mình là người vẫn còn có cơ hội gặp may mắn.

-Người Ki-tô hữu sẽ không cầu xin cho mình điên khi công việc ngập đầu ngập cổ, nhưng họ cầu xin cho mình có sức khỏe và nghị lực để làm việc.

-Người Ki-tô hữu sẽ không cầu xin cho mình chết quách cho rồi khi bị cấp trên chèn ép và áp lực của công việc, nhưng họ cầu nguyện cho cấp trên mình được sáng suốt, và cầu cho mình biết chu toàn bổn phận.

-Người Ki-tô hữu không cầu xin cho mình quên hết sự đời, nhưng họ cầu xin cho mình luốn nhớ đến những người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người bị áp bức, để khi có thể được thì đến an ủi và phục vụ.
Đó chính là nhờ họ biết học hỏi và suy niệm và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình vậy.

50.LÝ LẼ QUÂN BÌNH
Thời kỳ Xuân Thu có một ẩn sĩ kỳ nhân tên là Chiêm Hà, ông ta đem một cái kén tằm rút ra dây tơ làm thành sợi dây câu cá, lại hái ngọn lá nhọn của cây cỏ giày làm lưỡi câu, lấy cây trúc nhỏ làm cần câu, lại lấy hạt thóc bẻ đôi để làm mồi, sau đó đi đến bên sông, từ nơi chỗ nước sâu nhất câu lên một con cá lớn hơn cả chiếc xe mà dây thừng không bị đứt, lưỡi câu không bị gãy, cần câu không bị cong.
Sở vương rất kinh ngạc thán phục kỹ thuật của ông ta, cho gọi ông ta đến để hỏi.
Chiêm Hồ giải thích, nói:“Tôi nghe nói, thời xưa có người tên là Bồ Thư Tử, ông ta dùng cái cung mềm và dây cung nhỏ xíu để bắn cung, tên xé gió vút đi, mà lại có thể trúng liên tiếp hai con hạc lớn, đó là vì ông ta dụng tâm chuyên thần, nguyên do là bình quân khi động thủ, còn tôi câu cá là học theo kỷ xảo của ông ta mà luyện tập năm (5) năm mới thành công. Khi tôi tới bên bờ sông thì trong lòng không có tạp niệm, chỉ nghĩ đến cá, mở dây ra, quăng câu xuống, tay hạ xuống trung bình, không phân biệt nặng nhẹ, mồi câu thì những hạt bột giống như bụi trần chìm trong nước, bọt nước tập trung lại, cá cũng không hoài nghi nên đến để ăn, đó chính là lấy nhu thắng cương, là cái lý lấy nhẹ được nặng. Đại vương trị nước, nếu có thể quả thực làm được dụng tâm chuyên thần và quân bình, thì có thể thoải mái tự tại nắm vững sự vận chuyển của thiên hạ vậy.”
(Liệt tử: Thang vấn)

Suy tư 50:
      Dụng tâm để làm việc, dụng tâm để học hành, dụng tâm để lo toan cho người khác, dụng tâm để phục vụ, dụng tâm để lo cho dân cho nước là những dụng tâm của người có lương tâm và đạo đức, dụng tâm này sẽ được Thiên Chúa chúc lành và được mọi người yêu mến khuyến khích, đó cũng là lý lẽ quân bình của người có trọng trách trong xã hội và Giáo Hội.
     Chiêm Hồ học dụng tâm chuyên thần trong năm năm trời mới câu được con cá lớn hơn chiếc xe bằng cái cần câu nhỏ, dây câu bằng tơ và lưỡi câu bằng ngọn lá. Người dụng tâm để làm điều lành điều thiện thì không cần phải dùng nhiều lời nói để thuyết phục, không cần dùng vũ lực để áp chế, không cần dùng số nhiều để uy hiếp...
     Chúa Giê-su chỉ giảng dạy Tin Mừng Nước Trời ba năm mà thôi, nhưng Ngài đã dụng tâm cầu nguyện ẩn dật trong ba mươi năm ở Na-da-rét, và trên thế giới số người theo Ngài càng lúc càng nhiều, Giáo Hội Công Giáo của Ngài vững bền cho đến tận thế mà cửa hỏa ngục sẽ không thắng được[19]. Người Ki-tô hữu học gương của Chúa Giê-su nên họ rất dụng tâm chuyên chăm khi làm việc ở công sở, dụng tâm chuyên cha,8 khi học hành, dụng tâm chuyên chăm khi phục vụ bệnh nhân, dụng tâm chuyên chăm khi làm việc bác ái, dụng tâm chuyên chăm khi cầu nguyện, khi dâng thánh lễ...
     Bởi vì không một ai biết dụng tâm chuyên chăm mà lại lơ đãng bỏ bê bổn phận của mình.

51.LÁ CÂY DƯỚNG (DÓ) BẰNG NGỌC CỦA NGƯỜI TỐNG
Nước Tống có một nhà điêu khắc, bỏ ra ba năm dùng ngọc thạch khắc thành một ngọn lá cây dướng để dâng cho nhà vua. Kỷ thuật của ông ta tinh xảo hoàn mỹ, chỗ cuốn lá nên nhọn thì nhọn, chỗ nên bằng thì bằng, những đường vân nơi gân lá rõ ràng mà lại sáng, làm việc rất tỉ mỉ, nếu đem nó bỏ chung với ngọn là dương thật thì không ai phân biệt được thật hay giả.
Vua nước Tống rất vui và cũng rất thích thưởng thức kỷ thuật của ông ta, nên lưu ông ta lại ở trong hoàng cung. Liệt tử nghe được, thở dài nói:“Nếu khi dựng nên trời đất mà ba năm mới làm xong ngọn lá, thì chúng ta bây giờ khó mà nhìn thấy có ngọn lá bằng thực vật.”
(Liệt tử: Thuyết phù; Hàn Phi tử: Dụ lão)

Suy tư 51:
      Trong sách cựu ước Sáng thế ký nói Thiên Chúa dựng nên vũ trụ trong sáu ngày, và Ngài phán một lời thì liền có mọi sự[20], có nghĩa là Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ này, và giao phó cho con người thay mặt ngài tiếp tục làm cho vũ trụ ngày càng đẹp hơn[21].
     Ngọn lá dương (dó) chỉ là một ngọn lá nhỏ trong rừng cây như hạt cát nhỏ nơi bãi biển, vậy mà dù cho người thợ điêu khắc tài giỏi dùng ngọc quý để tạo hình ngọn lá dong mà phải mất ba năm mới làm giống như đúc ngọn lá thật, nhưng dù giống như đúc thì nó vẫn cứ là ngọn lá giả mà thôi. Thế mới biết Thiên Chúa thật là Đấng toàn năng đã tạo dựng nên vũ trụ này.
     Người Ki-tô hữu ý thức được bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa, nên gắng sức bảo vệ tất cả những gì là trật tự thiên nhiên mà Thiên Chúa đã đặt để, như:

-Bảo vệ sự thụ thai tự nhiên mà hôm nay vì lối sống ích kỷ, cuồng loạn mà các cha mẹ phải hạn chế sinh sãn bằng các biện pháp trái với ý Trời.

-Bảo vệ mạng sống các thai nhi mà hôm nay vì yêu cuồng sống vội mà các cha mẹ trẻ vô trách nhiệm, ích kỷ đã nhẫn tâm giết con mình ngay trong bụng mình.

-Bảo vệ sự công bằng của xã hội mà hôm nay tiền bạc được gọi là quan tòa “chí công vô tư” đang đè bẹp công bằng.

-Bảo vệ chân lý khi mà mọi người đang sống sượng nói dối nhau trong một xã hội đầy nghi kỵ và hận thù.
Ngọn lá dương (dó) tuy làm bằng ngọc nhưng cũng làm cho vua nước Tống rất thích, người Ki-tô hữu tuy không phải là Thiên Chúa, nhưng là con cái của Ngài, cho nên cũng sẽ làm cho người khác vui thích khi thực hiện và bảo vệ sự sống của các thai nhi, cũng như sự công bằng của xã hội...

52.TRÂU MÀU ĐEN ĐẺ RA NGHÉ MÀU TRẮNG
Có một người ở nước Tống luôn giảng về nhân trọng nghĩa, một nhà ba đời làm người đều nổ lực phấn đấu, những người trong nhà sống với nhau rất hòa hiệp, trong nhà chưa hề phát sinh sự cố, nhưng con trâu màu đen của nhà họ thì lại sinh ra con nghé màu trắng, khiến trong lòng ông ta có thút phiền muộn.
Thế là ông ta đi thỉnh giáo Khổng tử, Khổng tử nói với ông ta:“Đó là chuyện tốt lành, đem con nghé trắng ấy đi hiến tế là vừa.”
Qua một năm sau, người nước Tống ấy không hiểu sao lại bị mù mắt, mà con trâu màu đen lại sinh ra thêm một con trâu con màu trắng nữa, ông ta kêu con trai mình đi hỏi lại Khổng tử, Khổng tử nói:“Tốt lành lắm !” lại còn kêu họ tế trời đất.
Lại qua một năm nữa, con trai của ông ta cũng không biết vì sao mà lại bị mù mắt, tiếp theo lại có chiến sự bùng nổ, nước Sở xuất binh đến đánh nước Tống, từng đoàn từng đoàn bao vây đô thành nước Tống. Những thanh niên mạnh khỏe cường tráng của nước Tống đều bị bức lên thành chiến đấu để giải vây cho đô thành, tình hình khốc liệt, hơn một nửa dân của nước Tống bị chết và bị thương.
Nhưng người nước Tống ấy và con trai của ông ta vị bị mù không cần phải đi chiến trận, nên bảo toàn được thân thể và tính mạng. Đợi sau khi đô thành được giải vây xong, mắt của hai cha con không biết sao lại nhìn thấy được, người trong nhà đều cảm thấy không thể tưởng tượng được.
(Liệt tử: Thuyết phù)
Suy tư 52:
      Ngày xưa con trâu mẹ màu đen mà đẻ trâu nghé màu trắng là chuyện kỳ dị, là điềm xui xẻo; nhưng thời nay chuyện trâu đen đẻ trâu trắng là chuyện thường, khoa học có thể lai tạo giống trâu màu vàng màu đỏ cũng được...
     Chuyện may rủi, điềm lành điềm xấu không hệ tại nơi con trâu đen trâu trắng, cũng không hệ tại nơi vật chất, nhưng hệ tại nơi con người, nói cách chính xác hơn là tùy thuộc vào cách suy nghĩ và ý thức của con người: anh phạm pháp là bị pháp luật hỏi tội, anh đánh người thì bị người đánh lại, anh ăn cướp ăn trộm của người khác thì hậu quả chắc chắn là xấu chứ không tốt, anh vu oan giá họa cho người khác thì sẽ bị pháp luật trừng trị hoặc bị người khác chê ghét, đó chính là những hậu quả ở đời này.
     Hậu quả ở đời sau thì càng khốc liệt hơn, chắc chắn người suốt đời làm điều ác sẽ bị phạt đời đời trong hỏa ngục, bởi vì con người là loài có trí khôn, nên phải chịu trách nhiệm những hành vi của mình trước mặt Thiên Chúa, là Đấng đã ban cho họ sự hiểu biết để sống cho mình và cho người khác...
     Trâu màu đen đẻ ra nghé màu trắng thì không có gì phải sợ hãi và cho là điềm xấu, nhưng tâm hồn của con người màu trắng (thật thà, ngay thẳng, công chính, yêu thương, khiêm tốn...) biến thành màu đen mới đáng sợ vạn lần, vì một khi tâm hồn biến thành màu đen (gian ác, kiêu căng, trộm cướp, vu oan giá họa, gian dâm, hối lộ, tham nhũng...) thì tất cả mọi điều tệ hại nhất cho xã hội và cho người khác có thể sẽ xảy ra...

53.VIÊN TINH MỘC KHÔNG ĂN CƠM CỦA CƯỚP
Có một người tên là Viên Tinh Mộc, trên đường đi thì bị đói nên ngất xỉu tại địa phương tên là Hồ Phu, có một tên cướp tên là Khâu đi ngang quá đó, lấy chút cơm đút cho ông ta ăn.
Viên Tinh Mộc ăn được ba miếng thì thể lực hồi phục lại được chút ít, mới mở mắt ra hỏi:“Ông là ai ?”
Tên cướp trả lời:“Tôi là người ở Hồ Phu, tên là Khâu.”
Viên Tinh Mộc ngạc nhiên nói:“Ông không phải là cướp sao ? Tại sao lại đút cho ta ăn ? Ta không thèm ăn cơm bất nghĩa của nhà ngươi !” nói xong liền chống hai tay trên đất ra sức ói cơm ra, ói rất lâu, nhưng dễ gì mà ói ra được, nên người cũng ngã trên đất mà chết. Mặc dù Khâu là tên cướp, nhưng cơm của ông ta chưa chắc là cơm đi ăn cướp mà có.
(Liệt tử: Thuyết phù)
Suy tư 53:
      Viên Tinh Mộc muốn chứng tỏ mình là người quân tử nên không ăn cơm của kẻ cướp, và thế là ông ta trở thành tên cướp, không phải cướp tài sản của người khác, mà cướp đi lòng lương thiện của người đã giúp mình, dù đó là tên cướp.
Thế nào là người quân tử thật theo tinh thần Phúc Âm ? Thưa, quân tử thật theo tinh thần Phúc Âm là không chấp xét, không câu nệ tiểu tiết thấy phải thì làm, thấy cần giúp thì hết lòng giúp dù đối tượng là ai chăng nữa, không trả thù, không báo oán, và nhất là có lòng biết ơn đối với người khác. Bởi vì làm người quân tử thật của có tinh thần Phúc Âm chính là như Chúa Giê-su đã dạy:“Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.”[22] Đó chính là khuôn vàng thước ngọc cho những ai muốn làm người quân tử giữa một xã hội chỉ biết đến kim tiền, hưởng thụ và dối trá.
Viên Tinh Mộc làm quân tử nửa vời nên muốn ói cơm của tên cướp đã giúp mình, ông ta suốt đời không thể thành người quân tử; tên Khâu là một đứa ăn cướp nhưng đã xử sự như một người quân tử là cứu người hoạn nạn, và ông ta đã thành người quân tử.
Trước mặt Thiên Chúa không có ai là quân tử hoặc tiểu nhân, nhưng chỉ có những người biết yêu thương người thân cận như chính mình mà thôi.

54.MẤT PHƯƠNG HƯỚNG
Trong nhà người hàng xóm của Dương Chu có nuôi một con dê nhưng để nó chạy mất tiêu, ông ta đi tìm mấy người đến giúp đỡ, lại đến nhà Dương Chu mượn mấy đứa nhỏ giúp việc.
Dương Chu hỏi:“Con dê chạy mất tiêu rồi, sao lại cần nhiều người đi tìm quá vậy ?”
Người hàng xóm nói:“Bởi vì đường chéo nhiều quá.”
Không lâu sau đó, đoàn người tìm dê trở về, không tìm được dê, người mất dê giải thích:“Trong đường chéo lại có đường chéo, không xác định được dê chạy đường nào nên trở về.”
Dương Chu nghe rồi thì sắc mặt tư lự, trong lòng nghĩ:“Bởi vì đường lớn có rất nhiều đường chéo khiến cho dê chạy mất; bởi vì phương pháp học thuật lý luận quá nhiều, nên người cầu học rất dễ dàng mất đi chính mình.”
(Liệt tử: Thuyết phù)
Suy tư 54:
      Người nhà quê lên thành phố thì chắc chắn sẽ bị lạc nếu không ai dẫn đường, bởi vì ở thành phố đường sá quá nhiều; người không thuộc đường ở thành phố, thì dù cho ở thành phố, cũng có thể lạc đường như thường, bởi vì ở thành phố đường to đường nhỏ quá nhiều...
     Người trí thức lạc trong những tri thức của mình vì những lý luận quá nhiều mà không nhìn thấy thực tế; người kiêu ngạo lạc trong những suy nghĩ của mình mà không nhìn thấy mình ngạo mạn lại có người ngạo mạn hơn; người buôn bán thì lạc trong những con số lời lỗ của mình, con số lời càng cao thì lòng tham càng sâu...
     Tìm dê không thấy vì đường chéo (ngõ hẻm) quá nhiều, con người ta khó trở về chính lộ là vì cuộc đời có quá nhiều đường lộ, mà đường tiền tài, đường danh vọng, đường sắc dục thì luôn có những ma lực hấp dẫn, làm cho con người ta càng đi thì càng lạc, càng mất phương hướng.
     Người Ki-tô hữu có Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc sống của mình, cho nên, dù đi trên những con đường rộng (hạnh phúc, học thức, may mắn, giàu có..) hoặc đi trong những ngõ hẻm (nghèo, bị áp bức, bệnh hoạn, đau khổ...) thì họ vẫn không bị mất phương hương, nhưng luôn đi đúng đường và nhìn thấy cuối con đường là ánh sáng, bởi vì Lời Chúa là ánh sáng soi đường họ đi...

55.DÂN HÀM ĐAN DÂNG CHIM NGÓI
Đô thành của nước Triệu ở Hàm Đan, ở đây có một tập tục là đúng ngày mồng một tháng giêng (âm lịch) sẽ phóng sinh động vật để bày tỏ có ân đức.
Trong ngày ấy, người dân Hàm Đan tiến dâng chim ngói cho vua là Triệu Giản Tử. Đáng lẽ chim ngói là dùng để ăn thịt, nhưng Triệu Giản Tử nghĩ rằng có thể đem ra phóng sinh, và cũng rất vui vẻ thưởng công bội hậu cho những người dâng chim ngói.
Những môn khách trong nhà của nhà vua nhìn thấy, thì nói với Triệu Giản Tử:“Nếu bá tánh mà biết được ngài muốn phóng sinh những con chim ngói bị bắt lại, thì nhất định sẽ tranh nhau muốn bắt bù lại để được thưởng nhiều hơn, ngược lại khiến cho chim ngói sẽ bị chết nhiều hơn. Nếu ngài muốn chim ngói sống thì chi bằng cấm bá tánh bắt chim ngói. Nếu bắt rồi lại thả thì ân đức và sai sót không thể bù đắp giống nhau được.”
(Liệt tử: Thuyết phù)
Suy tư 55:
      Phóng sinh, là một tập tục và hành vi tốt của bá tánh, hay con gọi đó là lễ phóng sinh của tín ngưỡng dân gian. Lòng dân thì hiền hòa chất phác, nhưng nhà vua lại tham lam, không muốn lấy những con chim của mình nuôi để phóng sinh, nhưng lại phóng sinh những con chim ngói của bá tánh dâng tặng, đó không phải là công đức của lễ phóng sinh.
     Dân Hàm Đan dâng cho vua chim ngói là để tỏ lòng yêu mến nhà vua, nhưng nhà vua Triệu Giản Tử vì lòng tham nên đem chim ngói ấy làm lễ phóng sinh, đó là mầm móng của sự bất phục nơi bá tánh và nơi các môn khách của ông ta. Bởi vì bắt chim ngói của bá tánh để thả ra thì không thể gọi là phóng sinh, đó không thể gọi là ân đức, nhưng là để gợi lên lòng tham của dân, tại sao vậy ? Thưa tại vì Triệu Giản Tử tư duy theo lòng tham của mình nên có quyết định sai lầm, không những hại loài chim ngói mà còn xúc phạm đến sự linh thiêng nơi tín ngưỡng của bá tánh.
Tham lam thì luôn đi kèm với nhũng nhiễu và hối lộ, hối lội thì sinh ra lủng đoạn, lũng đoạn thì làm khổ dân lành, dân lành khổ thì sinh đạo tặc, cướp bóc, cướp bóc sinh ra chém giết, chém giết sinh ra hận thù, hận thù sinh ra hận thù, thế là hận thù chồng chất trong một xã hội gian trá và tham những...

(còn tiếp)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
dịch và viết suy tư


[1]Lc 17, 10.
[2]Ga 11, 33.
[3]Dính: dùng cái cần câu có bôi nhựa dính trên đầu cần để dính vào cánh của con ve.
[4]Mt 5, 17.
[5]Mt 5, 9.
[6]1 thước của Trung Quốc bằng 0.33m.
[7]Mt 20, 25-26.
[8]Lc 12, 58-59 ; Mt 5, 25-26.
[9ơn vị đo diện tích ruộng của Trung Quốc, 1 mẫu là 666 mét vuông.
[10]Ga 10, 11.
[11]Mt 6, 13.
[12]Tên một nước đời nhà Chu.
[13]Lc 6, 31.
[14]Mt 7, 12b.
[15]2 Cr 11, 22-23a.
[16]Mt 9, 10-13.
[17]Mt 5, 38-39.
[18]Kinh Hòa Bình của thánh Phan xi cô Át xi xi.
[19]Mt 16, 17-18.
[20]Stk 1, 1-31; 2, 1-4.
[21]Stk 1, 26- 31.
[22]Lc 6, 31 ; Mt 7, 12.