Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
NHƯNG,
AI LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI
Lời ngỏ:
"Nhưng
ai là người thân cận của tôi"là câu hỏi của thầy thông luật đã hỏi Đức Chúa Giê-su,
một câu hỏi mà mới nghe qua, tìm một chút ấn tượng cũng chẳng có, nó chỉ là một
câu hỏi rất đời thường; nhưng thật ra nó là một câu hỏi chứa đầy tính nhân bản,
và nói theo kiểu tu đức nó giúp chúng ta xét mình về việc thực thi bác ái đối với
anh em đồng loại, những người thân cận của chúng ta.
"Nhưng
ai là người thân cận của tôi" là một loạt
suy tư (10 bài) được gợi ý sống động từ những tiếp xúc với anh chị em giáo hữu,
đối thoại với những anh chị em bị xã hội coi là “thành phần bất hảo”, và những
cảm nghiệm suy tư từ trong cuộc sống.
Xin được chia sẻ với anh chị em, những người thân cận
của nhau, trong Đức Chúa Ki-tô.
Lm. Giuse
Maria Nhân Tài, csjb.
1. YÊU THƯƠNG LÀ CHU TOÀN LỀ LUẬT
Mức độ yêu thương
thì không có giới hạn, không phân biệt cao thấp, rộng hẹp; nhưng tự nó, hai chữ
yêu thương đã trở thành quan toà phán xét mỗi một cá nhân về những hành vi của
họ đối với anh em đồng loại, người thân cận của mình.
Thánh Phao-lô tông
đồ đã nói:“Yêu thương là chu toàn lề luật”,
và một khi đã chu toàn lề luật rồi, thì tất cả những việc làm của chúng ta đều
trở thành hành vi của bác ái, của yêu thương.
Luật và lệ đều được
phân biệt rõ ràng nơi những người có tri thức, có kiến thức. Và trước một vấn đề
thực tế như giúp đỡ “người thân cận” như thế này mình có lỗi luật không, và
mình có được ích lợi gì không ? Cuối cùng, họ không dám cúi xuống cứu người bị
nạn nằm thoi thóp bên vệ đường, vì họ sợ lỗi luật, họ nghi ngờ không biết mình có
phạm luật lệ không, và thế là suốt đời họ không thể chu toàn lề luật được.
Nhưng những người Ki-tô
hữu biết sống Lời Chúa thì không phải như thế, khi thực hành công việc bác ái,
họ không đem lề luật ra phân tích đúng sai. Mà trái lại, họ đem con tim biết
xúc động trước cảnh hoạn nạn của người anh chị em, đem tinh thần yêu thương người
thân cận như chính mình của Đức Chúa Ki-tô mà phân tích: tôi phải giúp đỡ họ vì
đây là người thân cận của tôi, là anh em tôi, đơn giản thế thôi. Và thế là họ
đã chu toàn lề luật hơn các thầy tư tế, hơn các thầy Lê-vi và hơn cả những người
thông luật.
Mười điều răn Đức
Chúa Trời, năm điều luật Hội Thánh, đều là những lề luật dạy con người ta biết
ăn ở ngay lành, kính Chúa, yêu người, không làm thiệt hại ai…v.v…và các luật lệ
của các quốc gia trên thế giới cũng –một cách nào đó- đều từ Mười điều răn Đức
Chúa Trời mà ra, và không một giới răn hay một luật lệ nào dạy con người ta phải
đi ăn cướp, gian dâm, ngoại tình, đánh giết đồng loại của mình.
Đúc Chúa Ki-tô khi
mang thân phận con người sống ở trần gian, thì Ngài cũng đã chấp nhận lề luật của
con ngườivà
chính Ngài đã tuyên bố: “Anh em đừng tưởng
Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để
bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”.
“Kiện” là lập,
là xây dựng …
“Toàn” là hoàn
toàn, đầy đủ, toàn bộ…
“Kiện toàn” có
nghĩa là làm (xây dựng) cho đầy đủ hơn, hoàn toàn hơn và có ý nghĩa hơn. Đức Chúa
Giê-su không bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn để cho lề luật có được bộ mặt mới hơn.
Và chính Ngài đã không ngần ngại trách cứ các kinh sư và người Pha-ri-siêu về
những phong tục truyền thống đã in sâu vào trong tâm não của họ, mà họ cho là lề
luật của Thiên Chúa, của cha ông. Chính Đức Chúa Ki-tô đã trả lời cho những người
Pha-ri-siêu và các kinh sư đã bắt bẻ Ngài khi họ thấy các môn đệ của Ngài không
rửa tay trước khi ăn: “Còn các ông, tại
sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa
?”.
Các ông biệt phái và các kinh sư đã chú trọng đến những tập tục truyền thống hơn
là tuân giữ các lề luật của Mô-sê, họ coi những tập tục của cha ông như là lề
luật của Thiên Chúa, rửa tay hay không rửa tay trước khi ăn, đó không phải là lề
luật của Thiên Chúa, nhưng chỉ là thói quen cho hợp vệ sinh thế thôi. Cái chính
yếu và quan trọng nhất chính là phải rửa cho sạch tâm hồn để xứng đáng là người
biết tuân giữ lề luật của Thiên Chúa cách tốt lành.
Và vì chỉ chú trọng
đến hình thức bên ngoài, cho nên các viên chức cao cấp trong đạo Do thái thời bấy
giờ, đã không ngần ngại bước qua thân xác người bị nạn mà đi, dù người bị nạn ấy
là đồng hương của họ, và thế là họ đã không chu toàn lề luật được cách tốt
lành, và có thể nói, những phong tục tập quán của họ, chính là “người thân cận”
của họ vậy.
Đức Chúa Giê-su đã kiện toàn lề luật, không những để
cho lề luật trở lại “khuôn mặt” đẹp đẽ, hoàn trả lại cốt cách tinh thần tích cực
ban đầu của nó, mà còn làm cho nó trở thành mối tương quan giữa người với người
cách hoàn hảo và thân thiện hơn, Ngài nói: “Anh
em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa
ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa
ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng.
Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốtng
…”.
Như thế là đã rõ,
luật dạy chớ giết người, vì giết người là trọng tội phải bị đưa ra toà, nhưng
luật không có dạy người ta đừng giận anh em mình, đừng mắng anh em mình là đồ
ngốc, không dạy người khác đừng bội nhọ danh dự của tha nhân, đừng vu họa cáo
gian.v.v...và vì thế, trong cuộc sống thường ngày, dù người ta không ai cầm
dao, xách súng bắn giết anh em như là kẻ thù, (nhưng họ vẫn cứ thóa mạ, cáo
gian người anh em) cho nên họ vẫn cứ lên mặt kênh kênh kiệu kiệu tuyên bố với
người hàng xóm rằng: cuộc đời tôi không hề giết người, không hề cầm dao phay doạ
nạt anh em...
Không cầm dao chém
người, không xách súng bắn người, nhưng có biết bao nhiêu lần trong cuộc sống đời
thường chúng ta chửi mắng anh em rằng: thằng cha nầy ma cô, con mẹ đó đĩ thõa; biết
bao lần chúng ta nói hành nói xấu người anh em, vu oan giá hoạ cho người khác, đó
không phải là “giết người không gươm dao” sao ? Đức Chúa Ki-tô đã kiện toàn lề
luật như thế nào: luật dạy chớ giết người, còn Đức Chúa Giê-su dạy chớ ghen
ghét người;
luật dạy chớ ngoại tình, còn Đức Chúa Giê-su dạy ai nhìn người phụ nữ mà thèm
muốn, thì trong lòng đã ngoại tình rồi;
luật dạy đừng thề thốt, còn Đức Chúa Giê-su dạy có thì nói có, không thì nói
không...
Luật dạy những gì
cụ thể, “sự đã rồi” mới là tội, chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ bội thề, đều
là những tội cụ thể mà trong cuộc đời của con người ít ai phạm đến, bởi vì xét
theo lương tâm, thì những luật ấy đều được khắc ghi trong lòng của mỗi người rồi,
và trên một khía cạnh nào đó, luật đã làm cho người ta xa cách nhau hơn nếu xét
nét từng chữ bên ngoài, và không còn thấy được “người thân cận” của mình trong
cuộc sống. Nhưng Đức Chúa Ki-tô đã đến trong thế gian, và Ngài đã làm cho giữa
lề luật và tình cảm con người có một mối tương quan gắn bó, thân thiện, và mọi
người trở nên thân cận của nhau hơn.
Trở nên người thân cận của nhau, bởi vì Đức Chúa Ki-tô
đã tuyên bố: “Ai đón tiếp anh em là đón
tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiép Đấng đã sai Thầy ”.
Do đó, khi tôi đón tiếp ngưòi mà tôi gặp gỡ trong ngày, người mà tôi cùng với họ
cùng làm chung một công xưởng, hoặc người mà tôi chỉ gặp qua đường nói vu vơ
vài chuyện nhỏ, tất cả họ đều là hình ảnh của Đức Chúa Ki-tô, cho nên khi tôi
đón tiếp họ, thì chính tôi đã đón tiếp Đức Chúa Ki-tô, tức là đón tiếp “người
thân cận” của tôi vậy.
Luật mới của Đức
Chúa Ki-tô là như thế, chính Ngài đã đem Ngài ra “thế thân”, để bảo đảm cho những
ai đã vì Ngài mà thi hành luật yêu thương với “người thân cận”: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai
đón tiếp Thầy là đón tiếp đấng đã sai Thầy”,
và như thế Ngài đã xác định rõ ràng: lề luật là để cho tình người giữa người với
nhau càng tràn đầy hơn, và danh Thiên Chúa được vinh quang hơn nơi các loài thụ
tạo do Ngài tạo dựng: “Ngươi phải yêu mến
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.
Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” .
“Yêu thương là chu
toàn lề luật” cũng có nghĩa là đem những câu những chữ trong lề luật, biến
thành hành động cụ thể trong đời sống hàng ngày, mà không làm tổn thương đến
tính cách, nhân phẩm của người anh em, chị em thân cận. Cũng có nghĩa là quyết
tâm thực hành lề luật, không vì tình cảm cá nhân mà làm tổn thương đến cộng
đoàn,
hoặc vì yêu thương theo cảm tính tự nhiên mà làm rối loạn trật tự, nề nếp đã có
trong cộng đoàn. Bởi vì khi tuân giữ lề luật thì đã bộc lộ hành vi yêu thương,
và khi yêu thương là đã chu toàn lề luật rồi vậy.
Đức Chúa Ki-tô đã
nghiêm khắc lên án các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình,
không phải vì Ngài ghét họ nhưng là vì những thói giả hình của họ, đã làm cho
người ta nhìn lề luật của Thiên Chúa cách méo mó, và việc tuân giữ lề luật là
chất thêm gánh nặng cho họ.
Nhưng đồng thời Đức Chúa Giê-su cũng đã nhẹ nhàng dạy bảo các môn đệ: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải
làm người phục vụ anh em.
Vì hơn ai hết, Đức Chúa Giê-su đã hiểu rõ tính chất của yêu thương chính là phục
vụ, cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục
vụ và hiến dâng mạng sống để làm giá chuộc muôn người.
Phục vụ và hiến
dâng, chính là yêu thương cách trọn hảo mà Đức Chúa Giê-su đã giảng dạy và đã
thực hành trong cuộc đời trần thế của Ngài. Và như thế chính Ngài đã chu toàn lề
luật, vì Ngài đã yêu thương, và yêu thương đến cùng, cho đến nỗi bằng lòng chết
trên thập giá.
Đức Chúa Giê-su đã
chu toàn lề luật, vì Ngài đã yêu thương hết mình.
Là những môn đệ của
Đức Chúa Giê-su, những người tín hữu hôm nay đã cố gắng, đang cố gắng và sẽ cố
gắng thực hành lời dạy của thánh Phao-lô tông đồ dạy: “Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với
mọi người, và khi đã thực
hành được lời dạy đó, thì chính là chu toàn lề luật yêu thương của Đức Chúa
Giê-su rồi vậy.
2. PHỤC VỤ LÀ YÊU THƯƠNG.
Trước bữa ăn cuối
cùng vào chiều thứ năm, trước khi đi chịu chết, Đức Chúa Giê-su đã rửa chân cho
các tông đồ, đây là hành vi phục vụ,
và chính Ngài đã nói với các tông đồ sau khi đã rửa chân cho các ông: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa
chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau …”.
Ngài đã trở nên người thầy và người anh em của mọi người để yêu thương và phục
vụ họ, để chia sẻ những vui buồn, sung sướng và đau khổ của kiếp người với họ.
Và cuối cùng trong thân phận con người, Ngài đã trở nên vị cứu tinh nhân loại
khi bị treo trên thập giá, như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống
muôn đời.
Thánh Phao-lô đã
làm người phục vụ Đức Chúa Ki-tô giữa các dân ngoại,
và Ngài đã hãnh diện nói: “Vậy, trong Đức
Ki-tô Giê-su, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa ”.
Thánh Damien De
Veuster linh mục thuộc dòng Thánh Tâm Đức Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a (người
Bỉ) sau mười năm phục vụ người cùi ở hòn đảo Molokai thuộc quần đảo Hạ Uy Di đã
lây bệnh cùi, và ngài đã chết trong sự tiếc thương của họ, ngài đã yêu thương
và đã phục vụ cho đến chết, chết trên mảnh đất bất hạnh, để trở thành niềm hạnh
phúc cho những người cùi bất hạnh trên hòn đảo nầy.
Linh mục Vincent
Lebbe (người Bỉ) đã vì người Trung Quốc mà phục vụ, và phục vụ cho đến chết,
câu nói nổi tiếng của ngài đáng để cho chúng ta suy tư khi làm công tác truyền
giáo, và phục vụ người anh em đồng loại: “Không
nên nhìn mũi của tôi, không nên nhìn mắt của tôi, nên nhìn thấu lòng thành của
tôi, tôi là một người Trung quốc chính hiệu”. Câu nói này đã thể hiện được
tâm hồn của ngài –tâm hồn truyền giáo- đã dành trọn cuộc đời phục vụ cho người
Trung quốc và Giáo hội Trung quốc.
Mẹ thánh Tê-rê-xa
Cal-cút-ta (người An-ba-ni) đã nhìn thấy “người thân cận” của mình chính là những
người dân nghèo khó, bất hạnh của Ấn Độ, hay nói cách khác, mẹ đã nhìn thấy Đức
Chúa Giê-su trong những người nghèo khổ ấy, nơi mà sự phân biệt giai cấp được hợp
thức hoá bằng những đẳng cấp xã hội cũng như tôn giáo, đã làm cho những người
thuộc đẳng cấp nghèo, càng nghèo nàn càng khổ sở hơn, và mẹ đã phục vụ những
con người bất hạnh ấy cho đên hơi thở cuối cùng.
Phục vụ là yêu thương,
là quên đi cái tư tưởng bố thí khi giúp đỡ người anh em, nhưng luôn tự nhận
mình như là người thân cận của người anh em mà mình đang phục vụ, đó chính là
tâm tình của người môn đệ Đức Chúa Ki-tô vậy.
Không một thánh
nhân nào mà không có “thành tích” khi còn sống, mà thành tích nổi bật nhất của
các ngài chính là phục vụ tha nhân. Động cơ phục vụ nơi các ngài chính là yêu
thương, vì các ngài đã nhìn thấy được hình ảnh của Đức Chúa Ki-tô đang đau khổ
nơi người anh em, các ngài đã quên đi thân phận của mình, để phục vụ Đức Chúa Ki-tô
nơi người thân cận của mình.
-
Phục vụ mà không
yêu thương, thì như quan hệ giữa đầy tớ và chủ nhân ông, giữa họ có một bức tường
giai cấp chủ-tớ ngăn cách, và mục đích của họ chính là vì quyền lợi cá nhân.
-
Yêu thương mà
không muốn phục vụ thì chỉ là lừa dối Thánh Thần, bởi vì, chúng ta đừng yêu thương
bằng đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm,
bởi vì hoa quả của yêu thương chính là phục vụ, mà phục vụ người thân cận trong
khiêm tốn chính là ân sủng của Thánh Thần ban tặng, đó cũng chính là dấu hiệu để
người ta nhận ra mình là người môn đệ đích thực của Đức Chúa Ki-tô.
Có những người khi
phục vụ chỉ mong được một tiếng khen của mọi người, và họ đã được mọi người trả
công bằng những tiếng khen.
Có những người phục
vụ anh em chỉ vì lòng thương hại, và họ đã được thoả mãn khi người ta cám ơn
mình.
Có những người khi
phục vụ thì với cung cách của một chủ nhân, và họ đã được người ta kính nể, sợ
sệt khi thưa bẩm.
Nhưng cũng có những
người phục vụ, không vì tiếng khen, không vì thương hại, không vì để được mọi
người kính nể, nhưng vì họ có tấm lòng nhân hậu, yêu thương của Đức Chúa Ki-tô.
Họ nhìn thấy Đức Chúa Ki-tô đang đau khổ trong người anh em đau khổ, họ nhìn thấy
Đức Chúa Ki-tô hạnh phúc nơi người anh em hạnh phúc của mình, họ đã phục vụ người
anh em như phục vụ Đức Chúa Ki-tô vậy, và họ đã được tình thương của mọi người,
họ đã trở nên người thân cận của “người thân cận”. Bởi vì khi phục vụ như thế,
thì chính họ đã trở thành một thành viên trong gia đình của Đức Chúa Giê-su, vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng
ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.
3. YÊU THƯƠNG LÀ HY SINH.
Ở đâu có yêu thương
thì ở đó có hy sinh, và hy sinh là kết quả của sự yêu thương chân thật. Có thể
có hy sinh mà không có yêu thương, nhưng không thể có yêu thương mà không có hy
sinh, cho nên có thể nói hy sinh chính là hoa quả của yêu thương vậy.
Vì yêu thương nhân
loại nên Chúa Cha đã hy sinh Con Một của mình là Đức Chúa Giê-su.
Vì yêu thương nhân
loại tội lỗi, nên Đức Chúa Giê-su đã hy sinh mạng sống của mình để cứu chuộc
nhân loại khỏi ách thống trị của sa-tan, đầu mối của tội lỗi. Và hy sinh đã trở
thành điều kiện của tình thương chân thật đối với người thân cận, và khi Đức Chúa
Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, Ngài đã cầu xin lớn tiếng với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết
việc họ làm”. Thực ra không phải
các kỳ mục của người Do thái, các thượng tế, các kinh sư và những người quá
khích khác không biết việc họ làm đâu, họ biết quá đi chứ, nhưng chính vì để “bảo
vệ” lề luật của cha ông khỏi phải bị “tên làm loạn phá hoại”, mà họ đã lên án tử
cho Đức Chúa Giê-su, và như thế chính họ đã lỗi lề luật trước: “chớ giết người”.
Vậy mà, vì yêu thương
mà Đức Chúa Giê-su đã bào chữa cho họ trước toà án công thẳng của Thiên Chúa, và
giá trị hy sinh mạng sống của Ngài đã trở thành quan toà tuyên bố trắng án cho
nhân loại tội lỗi, và cho cả những người lên án tử cho Ngài nữa, nếu họ biết nhìn
nhận việc mình làm là sai trái, mà hối cải ăn năn.
Hy sinh là hiệu quả
của yêu thương chân chính, hay nói cách khác, văn hoa hơn một chút: yêu thương
là cây, và hoa quả chính là những việc làm hy sinh vậy.
Chàng và nàng yêu
thương nhau, tình yêu này người ta có thể lấy “thước” để đo được, thước đây
chính là sự hy sinh của chàng dành cho nàng, và của nàng dành cho chàng. Cây và
quả tình yêu nầy cũng đẹp thật đấy, nhưng có thể nói, đây là một tình yêu ích kỷ,
tình yêu có qua có lại, và trong một cách nhìn nào đó, chàng và nàng đều cố gắng
làm cho đối tượng của mình thấy được tình yêu của mình dành cho họ bằng những hy
sinh nhiều ít của mình, đây cũng là một tình yêu tự nhiên của con người.
Đức Chúa Ki-tô muốn
người môn đệ của mình tiến xa hơn một bước trong tình yêu liên đới giữa người với
người, bằng một lệnh truyền :
“Thầy ban
cho anh em một điều răn mới
là anh em
hãy yêu thương nhau ;
như Thầy đã
yêu thương anh em.”.
Yêu thương nhau như
Đức Chúa Giê-su yêu thương chúng ta, mà tình yêu của Ngài đối với chúng ta
không phải là một tình yêu như cha mẹ yêu thương con cái, cũng không phải như
chàng và nàng yêu thương nhau, nhưng là một tình yêu vượt ra khỏi mọi tính toán
của con người: hiến dâng mạng sống vì bạn hữu của mình.
Đó là một hy sinh to lớn mà không mọi khối óc khôn ngoan tài trí nào suy ra hay
nghĩ tới, chỉ có Thiên Chúa là tình yêu, vì yêu thương nhân loại tội lỗi nên mới
nghĩ ra phương pháp vĩ đại mà mầu nhiệm này, mầu nhiệm tình yêu nầy được thực
hiện nơi bản thân Con Một của Ngài là Đức Chúa Giê-su, và nó đã trở thành một
công thức thực hành trong đời sống của những người Ki-tô hữu: Yêu thương = Hy
sinh + Thập giá.
Công thức nầy cũng
được giải thích như thế nầy: có nghĩa là khi tôi cúi xuống để an ủi, giúp đỡ
“người thân cận” (yêu thương), thì tôi phải hao tài tốn của, mất thời giờ quý
báu của mình (hy sinh), và phải quên đi những luật lệ đang ràng buộc tâm hồn
tôi trước những đau khổ của anh chị em, và như thế tôi sẽ bị người ta chê trách
là không tuân giữ lề luật (thập giá). Đó chính là yêu thương “người thân cận”
như chính mình vậy.
“Như Thầy đã yêu
thương anh em”, hay nói cách khác “như Thầy đã hy sinh cho anh em”, cũng là nói
lên một con tim biết rung động trước những đau khổ của người anh chị em mà sẵn
sàng hy sinh tất cả thời giờ, tiền bạc, hy sinh những gì mình có như người
Sa-ma-ri nhân hậu, để anh chị em được an ủi và để họ cảm thấy cuộc sống có ý
nghĩa hơn. Yêu thương và hy sinh phải là chị em sinh đôi trong tâm hồn của người
Ki-tô hữu, mặc dù nó là hai cụm từ khác nhau, nhưng luôn luôn hiện diện bên
nhau. Khi nói đến yêu thương, thì hy sinh cũng đồng thời có mặt kề bên để làm
cho hành động yêu thương được phong phú dồi dào hơn, cao quý hơn, và thiêng
liêng hơn. Cũng như Đức Chúa Ki-tô đã trở nên mẫu gương tuyệt vời của lòng nhân
hậu, Ngài đã dang tay ôm ấp tất cả mọi người vào trong trái tim vô cùng yêu thương
của Ngài, và tình yêu thương vô cùng này đã được thể hiện bằng sự hy sinh vĩ đại:
hy sinh mạng sống cho người mình yêu,
người yêu đó chính là mỗi một người trong chúng ta, là nhân loại tội lỗi, và
cũng là những “người thân cận” của Đức Chúa Ki-tô.
Do đó, hy sinh
chính là thước đo lòng nhân ái của mình đối với “người thân cận”, là mức độ yêu
thương được thể hiện trong hành vi, ngôn ngữ của mình đối với anh chị em đồng
loại, và cũng là hiệu quả của việc thi hành luật mới -luật yêu thương- nơi bản
thân của chúng ta vậy.
4. AI LÀ NGƯỜI
THÂN CẬN CỦA TÔI ?
Đức Chúa Giê-su
không nói: cha mẹ của tôi là người thân cận của tôi.
Đức Chúa Giê-su
không nói: anh chị em của tôi là người thân cận của tôi.
Đức Chúa Giê-su
cũng không nói: bà con bạn bè thân hữu của tôi là người thân cận của tôi…
Và để cho đám đông
người đang nghe Ngài giảng, và đặc biệt là để cho thầy thông luật “mở rộng nhãn
giới” về cụm từ “người thân cận”, Đức Chúa Giê-su đã đưa ra một câu chuyện sống
động để trả lời câu hỏi “ai là người thân cận của tôi”, câu chuyện sống động ấy
được tóm gọn như thế nầy: người Do thái bị nạn đang nằm thoi thóp bên vệ đường,
có thầy tư tế trong đạo đi qua, và thầy Lê-vi cũng đã đi qua nhưng ngoảnh mặt
làm ngơ đi luôn, cuối cùng người Do Thái bị nạn ấy đã được kẻ thù không đội trời
chung của mình -người Sa-ma-ri- giúp đỡ cứu nạn.
Trong câu chuyện dụ
ngôn của Ngài, Đức Chúa Giê-su đã không đưa ra nhân vật bị nạn là người Sa-ma-ri,
và người ra tay hào hiệp cứu người bị nạn là người Do thái, nhưng chính Ngài đã
đề cao lòng nhân hậu của một con người mà người Do Thái coi họ là “quân phản đạo”
Sa-ma-ri. Và như thế, chúng ta có thể nhìn ra người Do Thái và người Sa-ma-ri đại
diện cho hai loại người: loại người tuân giữ lề luật của cha ông từng nét từng
chữ bên ngoài, và loại người hội nhập thích nghi với văn hóa địa phương, không
câu nệ lề luật khi làm việc bác ái.
Người Do thái luôn
tự hào mình là những người thi hành triệt để lề luật của Thiên Chúa mà khinh bỉ,
coi thường người Sa-ma-ri như những quân phản đạo, hội nhập với phường ngoại đạo,
và thế là họ trở thành những kẻ thù không đội trời chung với nhau. Cũng vậy, dưới
con mắt của những người tín hữu “ngoan đạo” tuân giữ lề luật từng chữ từng nét
(đến nỗi tự cho mình đã phạm tội trọng khi bắt tay chào hỏi với một người đàn
ông, mà không dám lên rước lễ), thì những cô gái đứng đường đợi khách, những người
hào hoa phong nhã, những tên bất hảo.v.v…đều là những người đáng phải sa hoả ngục
hết thảy !
Đức Chúa Giê-su đã
làm cho những người Pha-ri-siêu, các kinh sư và thầy thông luật thất vọng, vì
“người thân cận” mà Ngài nói đây, không ai khác hơn chính là người Sa-ma-ri, người
mà họ ghét cay ghét đắng và là kẻ thù của họ, người mà họ cho là lang chạ với
quân tội lỗi.
Và chính chúng ta,
ngày hôm nay, cũng không hơn gì những người biệt phái và các kinh sư ấy, khi
chúng ta tự hào mình là người không có kẻ thù, không có ghét ghen ai. Vâng,
trong cuộc sống đời thường của chúng ta thì có lẽ là như thế, chúng ta sống an
vui tự tại, chúng ta vẫn thong dong tham dự thánh lễ sáng, đọc kinh tối, đi làm
việc thiện.v.v…nhưng lắm lúc chúng ta nhìn “không sửa mắt” những người mà chúng
ta cho là những quân tội lỗi; và lắm lúc chúng ta vỗ ngực xưng tên với những người
mà chúng ta gọi là “tà ma ngoại đạo”, những người có thành tích bất hảo rằng:
“Cái quân khốn nạn , nếu tao là Chúa, tao sẽ vặn họng chúng bây hết thảy”, và
khi tuyên bố những lời như thế, thì chúng ta đã trở thành người Do Thái hoạn nạn
nằm bên đường chờ chết, hay ít nữa, cũng ngất ngư nửa sống nửa chết chờ người
qua đường cứu giúp. Cái hoạn nạn này của chúng ta đó không phải là ở nơi thân
xác, nhưng là ở trong tâm hồn, một tâm hồn đã bị những thành kiến của việc tuân
giữ lề luật cách máy móc bên ngoài làm cho nó trở nên chai cứng, mà không nhạy
cảm trước những khổ đau của anh chị em đồng loại là người thân cận của mình,
cho nên khi nhìn mọi việc xảy ra, chúng ta đều thấy là tội, là vi phạm lề luật.
Chính cái hoạn nạn
trong tâm hồn nầy, đã được người mà bấy lâu nay chúng ta cho là kẻ thù của
mình, là người Sa-ma-ri “phản đạo” đến cứu, nơi họ lòng nhân hậu được bộc lộ ra
vượt khỏi ranh giới kẻ thù, để cúi xuống ôm người bị nạn lên và đem đi cứu chữa.
Hành động cúi xuống
của người Sa-ma-ri đã rút lại khoảng cách giữa hai kẻ thù, và khi ẳm người bị nạn
trong tay thì khoảng cách nầy không còn nữa, và kẻ thù không đội trời chung nầy
đã trở nên “người thân cận” của người Sa-ma-ri, người mà thường ngày tôi nhìn
“không sửa mắt”.
Chính khi chúng ta
tự nhận mình là người tốt lành, tuân giữ lề luật, làm việc bác ái nhưng lại xa
lánh những người tội lỗi, những người mà chúng ta cho là vô đạo, thì chính lúc ấy,
chúng ta đã trở thành người xa lạ với Thiên Chúa. Trở nên người xa lạ với Thiên
Chúa, bởi vì Con Một của Ngài là Đức Chúa Ki-tô đã không ngần ngại chia sẽ thân
phận con người yếu hèn với chúng ta, để cảm thông, để cứu chuộc chúng ta khỏi
ách thống trị của tội lỗi, để trả lại cho nhân loại chúng ta phẩm giá cao quý
đã đánh mất vì tội nguyên tổ: làm con của Thiên Chúa. Vì vậy, tất cả những người
trong thiên hạ cũng có quyền được hưởng hồng ân vô giá ấy, cũng có quyền trở
thành “người thân cận” của Thiên Chúa, trong Đức Chúa Ki-tô, vì Ngài đến không
phải để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.
Vậy thì chúng ta là ai mà dám khinh bỉ họ, ngăn cản họ -những người mà chúng ta
cho là tội lỗi- trở thành con cái của Thiên Chúa chứ ?
“Ai là người thân
cận của tôi” không chỉ là những kẻ thù của tôi như người Do thái với người
Sa-ma-ri, nhưng “người thân cận” của tôi cũng là những người hàng xóm lân cận,
những người ở sát bên phòng của tôi thường hay dòm ngó đến những việc bên trong
gia đình của tôi, để rồi đi nói cho cả làng cả xóm biết, đành rằng như thế là
không tốt, là tọc mạch, là bất lịch sự. Nhưng nếu chúng ta cứ nhìn họ bằng những
ánh mắt không mấy thiện cảm, thì đúng họ không phải là người thân cận của tôi,
mà chữ “thân cận” (đúng ra nên nói là “lân cận”) không phải là ở kề cận bên mình hay sao ? Người
Việt Nam chúng ta có câu tục ngữ : “Bán bà con xa, mua láng giềng gần ” để nói
lên ý nghĩa đạo lý của “người thân cận” nầy, mà trên một phương diện tự nhiên
nào đó, ít nữa là về mặt đạo đức, cũng rất gần với giáo lý yêu người của Đức Chúa
Giê-su đã dạy.
Trong một khu phố
nọ ở quận Nhất thành phố Sài Gòn có một đám hoả hoạn, trong cơn hốt hoảng mạnh
ai nấy lo, không ai để ý đến một thanh niên đang xông xáo trong khói lửa mù mịt,
bất chấp nguy hiểm để khuân vác đồ đạc cho một gia đình bà lão nghèo, sau khi
đám lửa được dập tắt, người ta hỏi anh với bà lão ấy có quan hệ gì không, anh
ta trả lời tỉnh queo: “Không quen biết gì
cả, bà là người hàng xóm của tôi mà”. “Bà là người hàng xóm của tôi” cũng
có nghĩa là bà chính là “người thân cận” của tôi vậy, và như thế, người thanh
niên nầy đã hiểu rõ lề luật, thực hành lề luật (mặc dù anh ta không phải là tín
hữu công giáo) đúng như tinh thần của Đức Chúa Giê-su dạy: yêu thương người
thân cận như chính mình.
“Ai là người thân
cận của tôi” trong một xã hội hỗn loạn nầy, một xã hội mà nhìn đâu cũng thấy bạo
lực và bất công; một xã hội mà “dù thắp đèn sáng” cũng tìm không ra được chữ
tín giữa người với người, đúng là một thách đố lớn lao cho những người Ki-tô hữu,
những người được mời gọi hãy yêu thương người thân cận như chính mình.
Không ai yêu thương
người khác như chính mình cả (kể cả cha mẹ yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương
nhau) nếu không có một tâm hồn tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Xã hội rối
ren, con người không còn tin tưởng vào nhau, thì những người Ki-tô hữu lại càng
phải biết yêu thuơng họ như “người thân cận”, đem tấm lòng nhân hậu tốt lành của
người Sa-ma-ri trao tặng cho họ, cúi xuống với họ, nắm lấy tay họ, để khoảng
cách thù hận không còn nữa. Xã hội loạn, con người mất tin tưởng nhau, vì không
ai “biểu diễn” cho họ thấy họ chính là những người thân cận của chúng ta trong Đức
Chúa Giê-su.
Đức Chúa Ki-tô,
trong cách giáo dục của Ngài, đã đi từ vòng ngoài đến vòng trong, từ xa đến gần,
từ kẻ thù đến người hàng xóm láng giềng, từ người không quen biết đến cha mẹ bà
con họ hàng, để cho chúng ta nhìn ra được “người thân cận” của mình là tất cả mọi
người, không phân biệt xa gần. Bởi vì trong cuộc sống đời thường, chúng ta thường
có khuynh hướng khoe khoang: “Tôi không có kẻ thù, vì tôi ăn ở rất có hậu”. Vì
không có kẻ thù để thực hiện hành vi cứu giúp, tha thứ kiểu quân tử, cho nên
chúng ta quên mất những anh chị em chung quanh chúng ta đang cần sự giúp đỡ của
mình, họ cũng là những người thân cận của chúng ta vậy.
5. “NGƯỜI THÂN CẬN” CỦA THẦY TƯ TẾ
Không ai nắm giữ lề
luật tôn giáo cách chính xác cho bằng các thầy tư tế, cũng như không ai nghiêm
chỉnh thi hành lề luật cách răm rắp cho bằng các thầy tư tế. Hiểu rõ lề luật
cách chính xác, thi hành lề luật cách răm rắp, cho nên các thầy tư tế đã không
nhìn thấy người đồng hương bị nạn đang nằm thoi thóp chờ chết bên vệ đường. Các
thầy tư tế chỉ biết tuân giữ lề luật cho “trọn hảo”, nhưng các thầy đã quên mất
cái làm cho lề luật nên trọn hảo, chính là tâm hồn yêu thương hướng thiện của
mình, bởi vì không một người có tâm hồn yêu thương hướng thiện nào, mà lại không
xúc động trước hoạn nạn của anh chị em.
Lề luật không phải
là cái gông cùm để xiết chặt tâm hồn của con người, không cho con người thi hành
điều thiện; lề luật cũng chẳng phải là gánh nặng đè trên vai của con người,
không cho con người cúi xuông nâng đỡ người anh chị em đang bị nạn bên vệ đường
đứng lên. Nhưng trái lại, lề luật được đặt ra vì con người để con người tự do
làm điều thiện, thi hành bác ái và sống đúng với bổn phận của mình. “Người thân
cận” của thầy tư tế, mặc dù trong bài dụ ngôn
(Lc 10, 29) Đức Chúa Giê-su không đề cập đến, nhưng qua thái độ vội vàng, hấp tấp
và tránh qua một bên mà đi khi thấy người bị nạn nằm bên vệ đường của thầy tư tế
và thầy Lê-vi, thì cũng cho chúng ta thấy được người hoạn nạn, người bất hạnh
trong xã hội không phải là người thân cận của họ, hay nói cách chính xác hơn,
vì “bận” tuân giữ lề luật cho trọn hảo, nên thầy tư tế và thầy Lê-vi đã không
nhìn thấy người anh em bị nạn đang nằm thoi thóp bên vệ đường.
Đi để cho kịp giờ
cử hành việc tế lễ Thiên Chúa mà không cứu giúp người bị nạn nằm bên vệ đường,
thì dù cho thầy tư tế tế lễ cả ngày đọc hàng trăm khoản lề luật, cầu khẩn cả
ngàn lần thì cũng không được Thiên Chúa chấp nhận, bởi vì các thầy tư tế và
Lê-vi đã không đem chính tâm hồn của mình mà hiến tế cho Thiên Chúa, giống như
các con buôn ma giáo, hàng hoá của họ được bọc bên ngoài những màu sắc đẹp đẽ,
nhưng bên trong thì hàng đã quá hạn, xấu xí và không còn chất lượng. Các vị tư
tế này chỉ dâng lên cho Thiên Chúa những lễ vật được bao bọc bởi dáng vẻ tuân
giữ lề luật bên ngoài, răm rắp từng nét từng chữ. Mà của lễ đẹp lòng Thiên Chúa
nhất không phải là một tâm hồn lương thiện, nhân từ biết yêu thương người thân
cận như yêu thương chính mình sao?
(Mt 9, 13).
Tất cả lề luật của
Mô-sê và các sách ngôn sứ đều gói gọn trong hai điều răn nầy: kính mến Thiên
Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình(Lc
10, 27).
Kính mến Thiên
Chúa thì ai cũng có thể làm được, và đặc biệt các thầy tư tế phải sốt sắng hơn
mọi người, bởi vì nói theo ngôn ngữ của loài người, người kính mến Thiên Chúa
trước tiên chính là các tư tế, vì chính họ là những người được đặt lên để thay
mặt toàn dân mà tế lễ cho Thiên Chúa, cho nên -theo cách nhìn của con người- đó
là việc làm của các thầy tư tế, còn kính mến Thiên Chúa nhiều hay ít, thì chẳng
ai đo lường được mức độ kính mến Thiên Chúa nơi họ. Nhưng”yêu thương người thân
cận” thì không cần chọn ai để thay mặt cả, ai cũng có thể thực hành được, “người
thân cận” của các thầy tư tế chính là những giáo hữu ngoan đạo, những người
siêng năng lui tới đền thánh, những người luôn làm theo ý của các thầy, những
người cùng “phe” với các thầy. Những “người thân cận” nầy được các thầy tư tế
coi trọng đặc biệt hơn những người thường ra mặt chống đối mình, vì họ không chịu
được thái độ phân biệt “đây là người thân cận của tôi” nơi các thầy tư tế.
Đức Chúa Ki-tô khi
đưa ra dụ ngôn “người Sa-ma-ri tốt lành”
(Lc 10, 29-36), ắt hẳn Ngài cũng nhắm đến những tư tế của thời Tân Ước, mà
chính Ngài là vị tư tế tối cao đã chu toàn lề luật cách trọn hảo, không như các
thầy tư tế thời ấy chỉ giữ luật răm rắp, cứng nhắc theo từng chữ vô tri trên
sách luật.
Trong toàn bộ sách
Phúc Âm, “người thân cận” của vị Tư Tế tối cao nầy thuộc đủ mọi hạng người
trong xã hội, không phân biệt một ai, không phân biệt giai cấp tư sản hay giai
cấp vô sản, cũng chẳng phân biệt màu da chủng tộc, nhưng có lẽ những người bất
hạnh bị xã hội bỏ rơi, bị người ta hất hủi, đều là những “người thân cận” đặc
biệt nhất của Ngài. Ngài là vị tư tế, mà như trong thư gởi tín hữu Do Thái đã
nói, là vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời
(Dt 4, 14 ), vị Thượng Tế đã biết cảm thương nỗi yếu hèn của chúng ta
(Dt 4, 15). Vì cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta nên Đức Chúa Giê-su đã
vâng phục Thiên Chúa Cha, mặc lấy thân phận con người như chúng ta
(Pl 2, 7) ngoại trừ tội lỗi, và Ngài đã trở nên vị tư tế dâng lên Thiên Chúa
Cha của lễ hoàn hảo tinh tuyền đẹp lòng Chúa Cha nhất, chính là bản thân của Ngài.
Vì thế, Đức Chúa Giê-su Ki-tô vừa là tư tế vừa là của lễ đền tội cho nhân loại,
và đã trở nên “người thân cận” của mọi người.
Ngài cũng là vị tư
tế làm trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, là Đấng bàu chữa những tội lỗi
của nhân loại trước mặt Thiên Chúa Cha, cho nên, đối với Ngài, cả nhân loại đều
là “người thân cận” của mình, bởi vì Ngài là thượng tế muôn đời theo phẩm trật
Men-ki-xê-đê
(Dt 5, 6), cho nên những “người thân cận” của Ngài cũng sẽ nhận được nơi Ngài lòng
thương xót vô biên mà không mang mặc cảm là kẻ bị mang ơn, như họ đã nhận được
sự giúp đỡ nơi con người thế gian.
Vị tư tế của Tân Ước,
hoàn toàn khác xa với các thầy tư tế của cựu ước: cựu ước thì tạm thời, và vị tư
tế của thời cựu ước chỉ thay mặt toàn dân (dân Israel) để tế lễ Đức Chúa mỗi
năm một vài lần trong những dịp như hy lễ kỳ an
(Lv 3, 1-17), lễ tạ tội
(Lv 4, 1…), lễ đền tội
(Lv 7, 1…). Tân Ước thì vĩnh viễn, và các vị tư tế của Tân Ước –linh mục- thì
không những thay mặt toàn thể nhân loại để tế lễ Thiên Chúa, mà còn thay mặt
Thiên Chúa để tha hoặc cầm buộc tội nhân loại ở dưới đất nầy(Mt
16, 19), các ngài là những vị tư tế được chọn trong số người phàm, và được đặt
lên làm vị đại diện cho loài người…(Dt
5, 1). Cho nên, hơn ai hết, các vị tư tế của Tân Ước hiểu rõ những bất hạnh của
anh chị em, của những người bị xã hội bỏ rơi, và coi họ chính là những “người
thân cận” của mình như Đức Chúa Ki-tô đã không ngần ngại chấp nhận lời chê bai
của người biệt phái: “Sao Thầy các anh lại
ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy ?(Mt
9, 11), hoặc như những lời xầm xì của mọi người: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ “(Lc
19, 7) để thông cảm yêu thương và tha thứ.
“Người thân cận” của
các tư tế Tân Ước, không phải là những người siêng năng đến nhà thờ dâng lễ,
hay những người thường quan tâm đến cuộc sống (của) vị tư tế của mình. “Người
thân cận” của các tư tế Tân Ước cũng không phải chỉ riêng biệt là những người bất
hạnh, bị xã hội bỏ rơi, nhưng là tất cả mọi người, người hạnh phúc cũng như người
bất hạnh, kẻ giàu có cũng như người nghèo, vì các tư tế của thời Tân Ước được
chọn để trở thành “người thân cận” của mọi người, có nghĩa là đại diện cho Đức Chúa
Ki-tô để trở nên một “người trung gian” giữa Thiên Chúa và con người, qua sự đặt
tay và xức dầu tấn phong của Giáo Hội.
Hơn hai ngàn năm
qua, trên cuộc hành trình về Nước Trời cuả Giáo Hội Công Giáo, các tư tế của Tân
Ước đã dần dần tìm lại được “người thân cận “ của mình trong xã hội hôm nay –như
người Sa-ma-ri đã bắt gặp “người thân cận” của mình trên đường đi- “người thân
cận” của các tư tế Tân Ước hôm nay chính là người mà hôm qua trong lần hội họp
đã chỉ trích thái độ quan liêu của mình; “người thân cận” của các tư tế Tân Ước
hôm nay chính là người hay vạch lá tìm sâu những việc làm của ông cha sở của
mình; và “người thân cận” của các tư tế Tân Ước hôm nay, không ai khác hơn
chính là những “Đức Chúa Ki-tô bị bỏ rơi” bên vệ đuờng của một xã hội văn minh
phát triển. Tất cả những hạng “người thân cận” trên, đều phản ánh trung thực một
tâm hồn yếu đuối, dòn mỏng của các tư tế Tân Ước được chọn giữa loài người, do
đó, khi cúi đầu xuống để nâng đỡ “người thân cận” của mình đứng lên, thì các tư
tế Tân Ước đã kéo ơn sủng của Thiên Chúa xuống, không những trên bản thân của
mình mà còn trên những “người thân cận” của mình nữa, và như thế, các ngài đã
tuân giữ lề luật cách trọn hảo: luật Yêu Thương.
Đức Chúa Ki-tô là
vị thượng tế đích thực, vị thượng tế đời đời theo phẩm trật Men-ki-xê-đê(Dt
6, 20), cho nên các tư tế Tân Ước (linh mục) của Ngài cũng cao trọng hơn các tư
tế của thời cựu ước. Một giám mục Roméo, đã vì quyền lợi của những “người thân
cận” của mình mà lên án những bất công của xã hội, ngài đã bị bắn chết ngay
trên bàn thờ khi dâng thánh lễ, và chính ngài đã trở nên giống vị thượng tế tối
cao của mình –Đức Chúa Giê-su Ki-tô- vừa là tư tế vừa là tế phẩm hiến dâng cả mạng
sống của mình, để những “người thân cận” của mình được tự do bình đẳng với xã hội.
“Người thân cận” của
thánh Don Bosco không ai khác hơn chính là những trẻ em bụi đời, những trẻ em
nghèo khổ, những chú nhóc mồ côi bị xã hội coi như đồ phế thải, đã được Ngài
nâng niu, nuôi nấng dạy dỗ, để rồi “những chú nhóc bụi đời thân cận” nầy, có người
đã trở thành vị thánh, có người làm hồng y, có người đã làm giám mục, linh mục
và có người đã có một địa vị trong xã hội, và còn có rất nhiều tư tế Tân Ước
khác đã nhìn thấy rất nhiều “người thân cận” của mình trong xã hội hôm nay. Các
ngài đã vượt ra khỏi tình cảm tự nhiên của con người để đón nhận những người
không quen biết –những người mà có lúc, đã làm cho các ngài khó chịu- làm “người
thân cận” của mình. Bởi vì, chính các ngài đã học được tâm tình hiền lành và
khiêm tốn nơi Đức Chúa Ki-tô, và mang trong mình tấm lòng nhân hậu của một vị tư
tế thời Tân Ước.
Dụ ngôn người
Sa-ma-ri tốt lành mà Đức Chúa Giê-su đã kể hơn hai ngàn năm trước, ngày hôm nay
vẫn còn có giá trị cho các tư tế của Ngài, và càng ngày các tư tế Tân Ước càng
khám phá ra trong dụ ngôn đầy kịch tính nầy có rất nhiều giá trị nhân bản hợp
cho mọi thời đại, mà nét nổi bật nhất của dụ ngôn chính là lòng nhân hậu phải vượt
qua lề luật, mới gọi là chu toàn lề luật. Bởi vì, tất cả các lề luật và các
sách ngôn sứ, đều gói trọn trong hai điều nhưng là một nầy: “Kính mến Thiên
Chúa và yêu thương người thân cận”.
Không có lòng nhân
hậu thì không biết bao dung, không có lòng nhân hậu thì không biết thông cảm với
những đau khổ của anh em, không có lòng nhân hậu thì không biết yêu thương người
thân cận như chính mình. Thầy tư tế thời cựu ước chắc chắn cũng có lòng nhân hậu,
nhưng vì quá chú trọng đến từng nét chữ bên ngoài của lề luật, tuân giữ lề luật
cách cứng nhắc, nên đã không nhìn thấy người đồng hương của mình đang nằm thoi
thóp bên vệ đường chờ chết, và như thế ông đã bị coi là người không có lòng
nhân hậu và làm sai tinh thần của lề luật.
Nhưng các tư tế
Tân Ước thì không phải như thế, các ngài nhìn thấy nỗi bất hạnh, những khổ đau,
những khắc khoải, những nhu cầu của người anh em trước khi nghĩ đến lề luật, do
đó, các ngài đã không ngần ngại đứng về phía “người thân cận” của mình, để nâng
đỡ người anh em đang bất tỉnh bên vệ đường mà không sợ “trễ giờ” tế lễ, không sợ
những lời đàm tiếu của những người bo bo vụ luật hình thức, vì các tư tế Tân Ước
đã nhận ra lời khuyên tế nhị và sâu sắc của Đức Chúa Giê-su: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy ”(Lc
10, 37), và khi đã làm được như vậy rồi, thì trên thế giơí nầy, chẳng có ai
là người không thân cận của các tư tế thời Tân Ước.
Thầy tư tế thời cựu
ước và các tư tế thời Tân Ước đều là những con người như mọi người, cũng có một
quả tim và một khối óc, cho nên, theo lẽ thường tình, người thân cận nhất của họ
chính là cha mẹ, anh chị em, sau đó là bà con thân thuộc, bạn bè, đi ra ngoài lẽ
tự nhiên nầy là trái ngược với lề luật cha ông. Chính thầy tư tế thời cựu ước
đã không dám đi ra khỏi cái vỏ lề luật của cha ông để cúi xuông nâng đỡ người đồng
hương bị nạn, cho nên, suốt cuộc đời ông ta sẽ không bao giờ biết “người thân cận”
của mình là ai.
Đi ra khỏi lề luật
không có nghĩa là chối bỏ những giá trị của lề luật, nhưng là để cho lề luật được
nên gần gủi với đời thường hơn, sống động hơn, và có một giá trị đích thực hơn.
Cũng như một người con đi ra khỏi tổ ấm gia đình, không phải là anh ta chối bỏ
những giá trị của gia đình, nhưng là để cho mình tự lập hơn, trưởng thành hơn,
và để cho mọi người nhìn thấy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình
qua cách ăn nếp ở của bản thân mình. Vị thông luật kia đã hỏi Chúa Chúa Giê-su
cách ngây thơ, dễ thương : “Nhưng ai là
người thân cận của tôi ? ”(Lc
10, 29), và Đức Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi: người nầy là
thân cận, người kia không phải là thân cận của anh, Ngài chỉ kể cho vị thông luật
và đám đông dân chúng nghe một câu chuyện dụ ngôn về sự tốt lành của người
Sa-ma-ri, và kết luận: ông hãy đi và cũng làm như vậy(Lc
10, 37). Thế là đã rõ, “người thân cận” của thầy tư tế thời cựu ước chính là lề
luật của Mô-sê, bởi vì ông sợ lỗi lề luật mà không dám cứu giúp người hoạn nạn
sắp chết nằm bên vệ đường, và vì sợ lỗi lề luật, cho nên thầy tư tế đã đóng kín
tâm hồn của mình lại, lòng nhân từ cũng vì đó mà bị cầm tù trong bốn bức tường
của lề luật, tội nghiệp thay!
Nhưng “người thân
cận” của các tư tế thời Tân Ước thì không phải như các thầy tư tế thời cựu ước,
bởi vì Đức Chúa Ki-tô đã băng qua các tầng trời(Dt
4, 14) đi ra khỏi ngôi vị Thiên Chúa để làm con người như mọi người ở giữa trần
thế, và đã trở nên vị thượng tế tối cao, vị thượng tế biết thông cảm với những
nỗi thống khổ, bất hạnh của “người thân cận” mình là nhân loại. Do đó, “người
thân cận” của các tư tế Tân Ước chính là tất cả mọi người, không phân biệt giai
cấp vô sản hoặc giai cấp tư sản; không phân biệt kẻ giàu người nghèo, và những
“người thân cận” nghèo khó, bất hạnh là dạng “ưu tiên số một” của cá tư tế thời
Tân ước! “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như
vậy!”(Lc
10, 37).
6. “NGƯỜI THÂN CẬN CỦA THẦY LÊ-VI
“Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi đến chỗ ấy, cũng thấy,
cũng tránh qua bên kia mà đi ”
(Lc 10, 32).
Sau thầy tư tế, là
đến thầy Lê-vi cũng đi ngang qua chỗ người đồng hương đang bị nạn nằm bên vệ đường,
nhưng rồi cũng bỏ đi một lèo. Các linh mục hôm nay, trong các bài giảng của
mình thường “đồng hoá” các thầy Lê-vi thời cựu ước với các thầy (ngày nay) đã
có “chức”, kể cả các thầy phó tế, hoặc các nam tu sĩ, bởi vì trong mười hai chi
tộc Ít-ra-en, thì chi tộc Lê-vi đã được Đức Chúa chọn ra, riêng biệt để lo công
việc bàn thánh, dưới quyền các tư tế (Ds
3, 5-13). Nhưng xét cho cùng, thì tất cả những ai đã dâng mình làm tôi tớ Chúa
(đi tu) thì bất luận là nam hay nữ, cũng đều là những người phục vụ Thiên Chúa
qua con người, phụ giúp các Linh mục theo bổn phận và công việc của mình. Vậy,
theo tôi, các thầy Lê-vi bao gồm cả các nữ tu của chúng ta nữa, mà trong bài
suy tư nầy sẽ dùng cụm từ “các-Lê-vi-thời-Tân-ước” để nói chung cho các tu sĩ
nam nữ ấy.
Không phải ngẫu
nhiên mà trong dụ ngôn “người Sa-ma-ri tốt lành”, Đức Chúa Giê-su đã đưa ra hai
hình ảnh mà ấn tượng không mấy tốt đẹp về hai chức vụ có “thế giá” trong tôn
giáo Ít-ra-en thời ấy, bởi vì chỉ có những thầy tư tế và các thầy Lê-vi là những
người, mà có lẽ, rất ít tiếp xúc với mọi người trong cuộc sống đời thường, do
đó, họ không thể cảm nghiệm được những lo âu khắc khoải, những tình cảm giữa người
thân cận với nhau, hoặc họ không có ý niệm người thân cận là những người không
cùng huyết thống với họ, mà đối với họ, người thân cận chính là cha mẹ, bà con,
bạn bè thân thuộc …
Các Lê-vi-thời-tân-ước
cũng có lúc, với ý niệm, mình là một người “đi tu”, “người được Chúa chọn”, thì
phải được mọi người trọng vọng, phải được “đám dân ngu” kia kính nể và phải được
ngồi chỗ cao, chỗ nhất giữa công chúng. Không ai tế nhị như Đức Chúa Giê-su khi
đưa ra lời giáo huấn cho các Lê-vi-thời-Tân-ước hay nói cách thân mật hơn, các
đệ tử của Ngài, bằng một câu chyện dụ ngôn rất kịch tính mà tóm gọn mọi giáo huấn
của Ngài là yêu thương.
Vậy, ai là “người
thân cận” của các Lê-vi-thời-tân-ước trong một xã hội quá phức tạp và có quá
nhiều điều kỳ diệu hôm nay ?
a. Cộng đoàn của tôi là “người thân cận” của tôi.
Để tỏ ra sức mạnh
đoàn kết của cộng đoàn, và để biểu dương cộng đoàn tôi là một cộng đoàn “luôn
biết yêu thương”, nên có lúc các Lê-vi-thời-tân-ước đã ra mặt công khai bênh vực
các thành viên của cộng đoàn mình, mặc dù lỗi phải đã rành rành trước mặt bàn
dân thiên hạ, và lạm dụng sự kính trọng “những tôi tớ” Thiên Chúa nơi các tín hữu,
mà các Lê-vi-thời-tân-ước đã làm ngơ trước những bất công của mình.
Mặc dù được gọi để
phục vụ Thiên Chúa qua anh chị em của mình, nhưng có lúc các Lê-vi-thời-tân-ước
đã không nhìn nhận họ là những “người thân cận” của mình, trái lại, các
Lê-vi-thời-tân-ước nầy đã tự coi mình như là một “hồng ân” mà Thiên Chúa đã ban
cho các tín hữu, cho nên từ cách suy nghĩ như thế, các Lê-vi-thời-tân-ước đã
không nhìn thấy mình là những người được gọi để phục vụ Thiên Chúa trong những anh
em đồng loại của mình, và dĩ nhiên, họ cũng chẳng thấy những khắc khoải, lo âu
buồn phiền của những người mà mình được sai đến để phục vụ, vì những khuyết điểm
do mình gây ra.
Cộng đoàn của tôi
là “người thân cận” của tôi, đó là điều không ai chối cải, nhưng cộng đoàn sẽ
không thể tồn tại, nếu không có những “người thân cận” –tức là con người- để phục
vụ. Vì mục đích ấy mà cộng đoàn được thành lập và tồn tại, cho nên các Lê-vi-thời-tân-ước
phải vượt qua khuôn khổ của cộng đoàn để đi tìm kiếm “người thân cận” của mình
mà phục vụ. Thầy Lê-vi trong câu chuyện dụ ngôn đã không thể đưa tay ra cứu
giúp người bị nạn, cũng bởi vì ông ta chỉ biết có chi tộc của mình, chỉ biết phải
đi cho mau để phục vụ các tư tế nơi bàn thờ trong thánh điện, và vì thế mà ông
ta đã đánh mất cơ hội phục vụ “người thân cận” của mình. Có những Lê-vi-thời-tân-ước
đã to tiếng chỉ trích phê bình cộng đoàn nầy quá tệ, cộng đoàn kia quá bết, chỉ
vì các cộng đoàn ấy không phải là cộng đoàn của tôi, tức là không phải “người
thân cận” của tôi.
Bởi vì cộng đoàn của
tôi là “người thân cận” của tôi, cho nên tôi không thể hỗ trợ cho người khác những
phương tiện để họ làm công tác tông đồ, không ủng hộ những ý kiến hay, hoặc những
phương pháp mới của người khác trong công việc mở mang Nước Chúa, vì thế, tôi
mãi mãi vẫn chỉ là một thầy Lê-vi đi ngang qua người bị nạn, dù người bị nạn đó
là đồng hương với tôi, giả mù như không thấy họ đang thoi thóp chờ chết. Bởi thế,
để có tương quan tốt đẹp với mọi người, các Lê-vi-thời-tân-ước cần phải xác định
lại cho thật rõ ràng mục đích dâng hiến cuộc đời của mình là phục vụ, nhưng phục
vụ cho ai? cho Thiên Chúa nơi con người, hay bắt con người phục vụ cho chính bản
thân mình ?
Nếu phục vụ cho cộng
đoàn của tôi là “người thân cận” của tôi, thì các Lê-vi-thời-tân-ước chỉ là một
tập đoàn chỉ biết tìm “lợi nhuận “ cho mình, có nghĩa là một tập đoàn tư bản
mua bán không hơn không kém, nhưng xét cho cùng thì các tập đoàn tư bản mua bán
ấy, họ cũng biết vượt ra khỏi chính mình, nghĩa là họ biết vươn cánh tay “mại bản”
của họ đến tận các quốc gia trên thế giới để kiếm lợi nhuận, và tạo thêm công
ăn việc làm cho mọi người, và như thế “người thân cận” của họ chính là những
khách hàng của họ. Cũng vậy, các Lê-vi-thời-tân-ước không đóng khung trong cộng
đoàn của mình, không khư khư giữ lấy những tập quán cố hữu “nó không phải là
phe của chúng ta”, bởi vì khi làm như thế, thì các Lê-vi-thời-tân-ước đã vô
tình bóp méo lề luật yêu thương của Tân Ước: “Yêu thương người thân cận như
chính mình”(Lc
10, 27) vậy.
Luật yêu thương của
Tân Ước phải vượt ra khỏi chính mình, tràn ra khỏi biên giới đi tới những miền
xa xăm hẻo lánh, thấm nhập vào từng thớ thịt của con người, và được nhận thấy dễ
dàng nơi hành vi của những con người thấm nhuần tinh thần lề luật yêu thương
trong cuộc sống đời thường. Luật yêu thương cũng là “tiêu chuẩn” để Thiên Chúa
phán xét nhân loại, là thước đo lòng mến của Thiên Chúa nơi con người chúng ta,
nhưng nếu yêu thương hiểu theo nghĩa thường tình, tức là yêu thương theo luật tự
nhiên, như cha mẹ yêu thương con cái, con cái phải yêu thương cha mẹ, yêu thương
bạn bè thân thiết…v.v…thì chắc chắn không ai “qua mặt” được các thầy tư tế các
thầy Lê-vi thời cựu ước, bởi vì họ đã tuân giữ răm rắp từng nét từng chữ trong
sách luật, và nếu có ai đó nói với họ phải yêu thương “người thân cận”, tức là
những người nghèo nàn, bất hạnh, khổ đau như chính mình, thì chẳng khác gì xách
thùng nước lạnh tạt vào mặt họ. Nhưng các Lê-vi-thời-tân-ước không những đã nhận
nơi Đức Chúa Ki-tô lệnh truyền yêu thương “người thân cận”, mà còn nhìn thấy
công việc yêu thương “người thân cận” cách cụ thể nơi Ngài, đó là bất cứ ai
cũng đều được Ngài chiếu cố mà không đòi điều kiện nào khác, ngoài điều kiện:
phải có lòng tin vào Ngài, những người tàn tật, kẻ đui mù, người tội lỗi, kẻ bất
hạnh đều là những “người thân cận” nhất của Ngài.
Vì vậy, yêu thương
người thân cận nơi các Lê-vi-thời-tân-ước không có nghĩa là chỉ yêu thương cộng
đoàn của tôi, bởi nó là thân cận của tôi, nhưng mỗi thành viên của cộng đoàn phải
là những sứ giả của cộng đoàn, đem yêu thương được hấp thụ trong cộng đoàn đến
cho những đối tượng mà các Lê-vi-thời-tân-ước phục vụ, họ là những người đủ mọi
thành phần của xã hội không phân biệt màu da chủng tộc, giai cấp giàu nghèo,
sang hèn, họ chính là những “người thân cận” của các Lê-vi-thời-tân-ước, hay
nói cách cụ thể hơn, khi các Lê-vi-thời-tân-ước tự mình phá bỏ những luật lệ cứng
nhắc làm xơ cứng quả tim bằng thịt biết yêu thương, biết thông cảm của mình,
thì chính họ đã tự mình trở nên người thân cận của “người thân cận” rồi vậy.
Đức Chúa Giê-su đã
chọn mười hai vị tông đồ để làm một cộng đoàn nhỏ xíu giữa những người Do thái,
nhưng không phải vì thế mà cộng đoàn nhỏ xíu nầy bị lãng quên hoặc bị xoá sổ
trong cộng đoàn Do thái to lớn ấy, nhưng trái lại, nó càng ngày càng “bành trướng”
trên khắp mặt đất, trở thành một cây cổ thụ to lớn, đến nỗi chim trời tới làm tổ
trên cành cây của nó(Mt
13, 32), nó đã trở nên một cộng đoàn sống động, có ảnh hưởng rộng lớn trên toàn
diện cuộc sống của con người, bởi vì vị thủ lãnh tối cao của cộng đoàn nầy –Đức
Chúa Ki-tô- đã tuyên bố: “Vì Ai đón tiếp
anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”(Mt
10, 40), và mỗi một thành viên của cộng đoàn nhỏ xíu mà to lớn nầy đã trở
nên những người thân cận của mọi người, khi cầm chén nước lã ngon ngọt thân
tình mời người anh em trong cơn đói khát(Mt
10, 42), bởi vì, họ đã nhìn thấy “người thân cận” đói rách, bất hạnh, nghèo nàn
ấy, chính là hình ảnh của Đức Chúa Ki-tô đang bị đau khổ trên thập giá.
“Người thân cận” của
các Lê-vi-thời-tân-ước không phải là người thân thiết, cũng không phải là bà
con, bạn hữu, vì tự nó đã là thân thiết rồi. Nhưng “người thân cận” đúng nghĩa
của các Lê-vi-thời-tân-ước chính là những người không thân thiết, không phải là
bà con, bạn hữu, mà là những người xa lạ, những người bất đồng chính kiến với
mình, bất đồng quan niệm và có khi –thậm chí- họ là những kẻ thù, nhưng trong
tinh thần của luật mới –luật yêu thương- thì những người ấy chính là “người
thân cận” của các Lê-vi-thời-tân-ước vậy.
Không ai có thể
yêu thương “người thân cận” như chính mình được nếu không có Đức Chúa Thánh Thần
thúc đẩy, bởi Thánh Thần là lửa tình yêu có khả năng đốt cháy những xiềng xích
trói buộc, những bức tường ngăn cách giữa các Lê-vi-thời-tân-ước với “người thân
cận”. Yêu thương “người thân cận” như chính mình, cũng chính là yêu thương Đức Chúa
Ki-tô ở trong những con người mà những bất công của xã hội đang đè xuống trên
cuộc đời của họ. Bởi vì khi giáng sinh làm người, Đức Chúa Giê-su đã thực sự là
người thân cận của những “người thân cận” bị người đời bỏ rơi, khi chính Ngài
cũng đã bị những kinh sư, biệt phái và những người thân cận trong thôn xóm cũng
từ chối đón tiếp Ngài(Lc
4, 16-29).
Vì vậy, không một
Lê-vi nào của thời Tân Ước có quyền chọn lựa cho mình người nầy là “người thân
cận” của tôi, người kia không phải là “người thân cận” của tôi, nhưng ai cũng
là “người thân cận” của mình, bởi vì chính họ là thước đo mức độ yêu thương của
mình đối với Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường vậy.
b. Cá nhân tôi là “người thân cận” của tôi.
Có nhiều người chú
giải câu Lời Chúa “yêu thương người thân cận như chính mình” như sau: yêu người
như chính mình là trước tiên phải yêu mình đã, yêu mình tức là phải thoả mãn những
nhu cầu đòi hỏi của bản thân mình trước, sau khi mình có đầy đủ rồi mới cho người
khác để họ có như chính mình đã có vậy. Đây đúng là mẫu người “biết lo xa”, nhưng
vì quá lo xa cho nên họ mãi mãi vẫn không thể yêu thương người thân cận như
chính mình được, bởi vì trong thực tế, lòng tham của con người như cái thùng
không có đáy, không có thì làm cho có, có rồi thì muốn có thêm, và như thế thì
đến bao giờ mới có đầy đủ để mà giúp đỡ người thân cận chứ ? Từ khi nguyên tổ
chúng ta phạm tội, thì con người trở nên ích kỷ hơn, cái tôi (cá nhân tôi) phát
triển nhiều hơn, và yêu mình nhiều hơn.
Bất kể là ai, đã
là con người thì luôn luôn có cái tôi ở trong mình, và cái tôi nầy tự nó lớn
lên hay nhỏ đi tuỳ theo mức độ yêu thương của chính bản thân mình. Yêu thương
càng lớn thì cái tôi càng nhỏ, và dễ dàng đạt tới mức độ yêu thương “người thân
cận” như chính mình hơn. Trong cộng đoàn, cái tôi làm cho chúng ta muốn nổi bật
hơn mọi người, do đó, chúng ta tìm đủ mọi cách (kể cả thủ đoạn) để đạt tới mục
đích của cá nhân tôi, mà không thèm nghĩ đến những khó khăn của anh em chị em
là những người thân cận của mình, đang phấn đấu để cộng đoàn được trưởng thành.
Để cái tôi của cá nhân tiến triển theo chiều hướng chung của cộng đoàn thì là một
điều tốt, bởi vì đó chính là yêu thương anh chị em trong cộng đoàn vì họ là người
thân cận của tôi, và cần phát huy tác dụng đến mức độ không còn là vì cá nhân
tôi nữa, mà là vì cộng đoàn.
Bởi vì chúng ta
nghĩ rằng cá nhân tôi là “người thân cận” của tôi, cho nên chúng ta luôn tìm
cho mình những sự chú ý của mọi người giữa công chúng, tìm một tiếng khen của mọi
người nơi phòng họp, tìm sự nổi tiếng khi công tác.v.v…mà chúng ta không nghĩ rằng,
chính khi chúng ta đang tìm sự thoả mãn cá nhân ấy, thì chính chúng ta đang dần
dần xa cách “người thân cận” đích thực của chúng ta là những anh chị em trong cộng
đoàn. Chính vì điều ấy, mà Đức Chúa Giê-su khi nói về việc nên cớ vấp ngã cho
anh em, Ngài đã nhấn mạnh đến hành động dứt khoát để chúng ta mạnh dạn cắt đứt
“người thân cận” ngay tự trong bản thân của mình, Ngài nói: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa
ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống …”(Mt
18, 8).
Tay và chân là những
phần trong thân thể của chúng ta, cho nên khó mà chặt đi được, bởi nó chính là
“cá nhân tôi”, là “người thân cận” của tôi; tay và chân cũng là ám chỉ đến bạn
bè thân thiết, là “người thân cận” mà tôi đã kết thân để thoả mãn nhu cầu vui
chơi cá nhân, gây bè kết cánh hơn là vì nhu cầu thăng tiến cá nhân trong đời sống
cộng đoàn. Nếu các bạn bè thủ túc ấy, tức là “cá nhân tôi” là “người thân cận”
của tôi làm cớ vấp phạm cho tôi, thì chặt quăng nó đi, thà không có bạn bè thủ
túc để tâm hồn tôi thảnh thơi yêu mến mọi người trong cộng đoàn, cùng nhau
thăng tiến đạt đến mục đích là xây dựng một cộng đoàn biết yêu thương và phục vụ,
hơn là có bạn bè thủ túc mà mỗi ngày tôi càng xa cách những anh em chị em là
“người thân cận” của tôi ngay trong cộng đoàn của tôi.
Đức Chúa Giê-su trước
khi kêu gọi các môn đệ, Ngài không ra điều kiện trước cho ông Phê-rô và ông
An-rê là các anh phải vứt bỏ chài lưới đi mà đi theo làm môn đệ của Ta. Ngài
cũng chẳng nói với ông Mát-thêu dẹp cái nghề thu thuế tội lỗi ấy đi mà theo Ta.
Nghề chài lưới cũng như nghề thu thuế có thể nói là những “cá nhân tôi” của các
môn đệ, nó thấm sâu vào trong xương trong thịt của các ông rồi khó mà bỏ đi được,
Đức Chúa Giê-su biết như thế, nên Ngài mới nói với hai ông Phê-rô và An-rê: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các
anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”(Mt
4, 19), và với Mát-thêu thì Ngài nói: “Anh
hãy theo tôi !”(Mt 9, 9).
Qua những lời mời
gọi vắn tắt như thế, chúng ta thấy Đức Chúa Giê-su cũng đặc biệt tôn trọng “cá
nhân tôi” nơi các môn đệ của Ngài khi chọn các ông, Ngài cũng không buộc các
ông phải bỏ nghề, nhưng Ngài đã dùng tài nghệ chuyên môn đánh cá của các ông mà
đổi cho các ông một công việc khác, công việc nầy vượt ra khỏi biển hồ
Ga-li-lê, vượt ra khỏi tình cảm quê hương để trở thành “người thân cận” của các
dân tộc trên mặt đất: nghề đánh cá người. Nhưng không phải vì thế mà các tông đồ
đều lập tức trở nên hoàn thiện đâu, các ông còn phải học tập để nhận ra ai là
“người thân cận” của mình qua những lời giáo huấn, qua những dấu lạ mà Đức Chúa
Giê-su đã thực hiện, và nhất là qua sự khổ nạn và chết trên thập giá của Ngài,
các ông nhận ra rằng: tình yêu tự nó đã trở nên gần gủi thân cận với mọi người
rồi, và các ông đã dần dần chôn sâu, chôn chặt, từ bỏ “cá nhân tôi là người
thân cận” của tôi tại biển hồ Ga-li-lê, để chỉ còn lại “cá nhân tôi” là người
thân cận của mọi người mà thôi, nghĩa là các ông đã từ bỏ cha mẹ, vợ con, gia
đình của cải.v.v… để rồi các ông được lại tình yêu đại đồng làm tài sản, và cả
một thế giới làm người thân cận của mình vậy.
Cá nhân tôi là “người
thân cận” của tôi thường xuất hiện nơi những con người ít cầu nguyện, không phải
là bản thân họ không cầu nguyện, mà ngay trong khi cầu nguyện họ chỉ nói qua
loa vài câu, và bắt Chúa phải nghe lời họ nói: “Lạy Chúa, xin cho con được giàu
có …”, “Lạy Chúa, xin cho con được một cô vợ đẹp dễ thương…”; “Lạy Chúa, hôm
nay cho con vô mánh, để con mua xe hơi đi lễ cho tiện …”…v.v… bởi vì họ chỉ biết
có mình họ trong khi cầu nguyện, cho nên trong cuộc sống đời thường họ không mấy
quan tâm đến những nhu cầu của anh em, họ không cảm thấy xúc động khi người anh
em bị nạn, và thậm chí, họ còn cầu mong cho người anh em thua kém mình nữa.
Muốn cá nhân tôi
trở thành “người thân cận” của mọi người, cũng như để nhìn thấy tất cả mọi người
đều là “người thân cận” của mình, việc trước tiên là tôi phải tập cho bằng được
bài học biết xúc động trước nỗi bất hạnh của tha nhân, bởi vì chính Đức Chúa
Giê-su đã chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng(Mt
9, 36), biết mĩm cười và biết thứ tha, và chính Ngài cũng nói đã dạy chúng ta
phải tha thứ đến bảy mươi bảy lần bảy(Mt
18, 22). Người biết xót thương trước những hoạn nạn, bất hạnh của anh chị em,
là người biết nhìn ra lòng thương xót của Thiên Chúa đã dành cho mình; người biết
tha thứ là người đã cảm nghiệm ra được tình yêu của Thiên Chúa đã dành cho bản
thân của mình. Vì thế, họ không còn coi cá nhân tôi là “người thân cận” của tôi
nữa, mà trái lại, họ yêu thương tất cả mọi người như là người thân cận của
mình. “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy
”(Lc
10, 17). Lời của Đức Chúa Giê-su trên đây đã được họ hiểu rõ, và đem áp dụng
trong cuộc sống đời thường của chính mình.
7. KHÔNG KHIÊM TỐN, THÌ KHÔNG BIẾT
“NGƯỜI THÂN CẬN”
CỦA MÌNH LÀ AI.
Trong cuộc sống đời
thường đã chứng minh được điều đó, và ngay cả trong chính bản thân của mỗi người
cũng đã nhiều lần bộc lộ ra được điều ấy. Đức Chúa Giê-su đã tự khiêm tự hạ trở
nên một kẻ phàm nhân và nhận cái chết trên thập giá(Pl
2, 7-8) là để mỗi một người trong chúng ta nhận biết người thân cận của mình
ngay trong chính cuộc sống của mình: người mà thường ngày tôi vẫn không thích,
người mà trước đây mỗi khi gặp mặt là tôi muốn chửi cho mát lòng hả dạ.v.v… thì
giờ đây, trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô, họ đã trở nên “người thân cận” thân thiết
của tôi. Đó chính là kết quả của lòng khiêm tốn chân thành mà chúng ta học được
nơi hang đá Bê-lem, nơi cuộc chạy trốn qua Ai Cập của Thánh Gia Thất, nơi đường
lên núi Sọ và nơi đỉnh cao cuối cùng là thập giá của Đức Chúa Ki-tô.
Chính Đức Chúa Ki-tô trong thân phận một trẻ sơ sinh
nghèo nàn cùng cực ở hang đá Bê-lem, đã vui lòng chấp nhận nhân loại tội lỗi là
người thân cận của mình, và sẵn sàng chia sẻ những nỗi vui buồn và khổ đau của
kiếp người trong thế giới loài người, đó chính là một tình yêu và sự khiêm tốn
của một vị Thiên Chúa làm người.
Chính Đức Chúa Ki-tô,
trong thân phận một con người bị nạn vượt biên qua Ai Cập, sống giữa những người
không hề biết đến Thiên Chúa là ai, và chính Ngài đã hoà nhập vào cuộc sống với
họ, nhận họ là những người thân cận của mình, mà không tự cao tự đại nghĩ rằng
mình là thân phận Thiên Chúa, không thèm chơi chung, không thèm nói chuyện với
phường tà ma ngoại đạo, đây chính là mẫu gương khiêm tốn trong cuộc sống đời thường
của chúng ta.
Và trên đường vác
thập giá lên núi Sọ để chịu chết, giữa bao tiếng reo hò đắc thắng của dân chúng
vô ơn bội nghĩa, giữa những tiếng chửi rủa man rợ hung dữ của quân lính, giữa
những tiếng xầm xì tò mò của kẻ bàng quan, và giữa tiếng khóc than của những người
đàn bà đạo đức thành Giê-ru-sa-lem.v.v…Đức Chúa Giê-su đã im lặng, khiêm tốn nhẫn
nhục như con chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông(Is
53, 7) và Ngài không hề trách mắng, oán giận hay thù hằn họ, bởi vì họ là những
“người thân cận” của Ngài. Chính vì những vô ơn bội nghĩa và những lời chế nhạo
ấy của họ, mà Ngài đã chịu chết trên thập giá để họ được hiệp thông với Ngài và
trở nên “người thân cận” của Ngài.
Và đức khiêm tốn của
Chúa Chúa Giê-su được nổi bật tuyệt vời khi bị đóng đinh trên thập giá, và
chính nơi đây, trên thập giá nầy, Ngài đã im lặng khi nghe tiếng chửi rủa cuối
cùng của một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng
tôi với”(Lc 23, 29). Chính
sự nín lặng khiêm tốn nầy của Đức Chúa Giê-su, đã làm cho tên gian phi khác
cũng bị treo trên thập giá, nhận ra kẻ bị đóng đinh kề bên mình là Đấng vô tội,
là kẻ bị hàm oan, và là một đấng thánh thiện kỳ lạ, đã làm cho tâm hồn chai sạn
vì tội lỗi của anh xao động, ăn năn hối hận, và anh đã chân thành nói với Đức Chúa
Giê-su rằng: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào
Nước của ông, xin nhớ đến tôi !”(Lc
23, 42), và trong gang tất của sự sống, chết, buồn, thương nầy, Đức Chúa
Giê-su đã nhận anh ta làm “người thân cận” của mình khi nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với
tôi trên thiên đàng”(Lc
23, 43).
Trong cuộc sống đời thường, chính sự kiêu ngạo và tính
tự cao tự đại đã làm cho nhân loại chúng ta không thể xích lại gần nhau được,
và như thế chúng ta khó mà nhận ra được những người chung quanh là “người thân
cận” của mình. Vì kiêu ngạo, tôi nhìn thấy người hàng xóm sao mà cộc cằn thô lỗ
thế, và tự cho mình là người có giáo dục mà không thèm trò chuyện hỏi han với họ,
thế là tôi đã vì một thói kiêu ngạo hợm mình mà không nhận ra được những người
mà mình khinh bỉ ấy chính là “người thân cận” và là hình ảnh của Đức Ki-tô, và cũng
là chứng nhân để cáo tội tôi trước toà phán xét của Thiên Chúa.
Người khiêm tốn là
người biết nhận ra những khả năng giới hạn của mình để cảm tạ Thiên Chúa, và nhận
ra được những việc làm của Thiên Chúa nơi những người chung quanh, để vui mừng
và hợp tác với họ, và nhất là để yêu thương và cảm thông với những yếu đuối của
anh chị em. Không có khiêm tốn thì không thể nhận ra khuôn mặt thật của Đức Chúa
Ki-tô nơi những người mà chúng ta tiếp xúc gặp gỡ nhưng đã không nhận ra được
Ngài nơi họ, thì cũng sẽ không nhận ra “người thân cận” của mình trong cuộc sống
đời thường của chúng ta. Người khiêm tốn là người mỗi ngày không ngừng tự vấn lương
tâm của mình: “Tôi phạm quá nhiều tội mà Thiên Chúa vẫn không trách phạt, vẫn
tha thứ và yêu thương tôi, vẫn gọi tôi là con của Ngài. Tôi phải yêu thương và
tha thứ cho những người đã làm tổn thương tôi, vì họ là những người thân cận của
tôi, trong Đức Chúa Ki-tô !”
“Những tài năng
tôi có được chính là Thiên Chúa ban cho tôi để tôi cộng tác với anh chị em, xây
dựng một xã hội, cộng đoàn, xứ đạo, cho tốt đẹp, và như thế tôi phải tôn trọng
những khả năng và những giới hạn của người khác, như người khác đã tôn trọng
tôi, vì họ là những “người thân cận” của tôi trong Đức Chúa Ki-tô”. Sẽ có lúc
nào đó tôi phải khổ đau, phải bị khinh bỉ, sẽ bị bỏ rơi; sẽ có lúc nào đó tôi
phải nghèo đói, phải bị nhục nhã.v.v…do đó, tôi phải đặt mình tôi vào trong
hoàn cảnh của người anh chị em bất hạnh, để nhận ra mình nơi hoàn cảnh của họ,
và như thế, tôi sẽ dễ dàng nhận ra họ là những “người thân cận” của tôi, trong
Đức Chúa Ki-tô. Sẽ có lúc nào đó tôi sẽ phạm một tội trọng, và lương tâm tôi sẽ
như thế nào? Vậy tôi sẽ không bao giờ nhìn những người tội lỗi bằng con mắt
khinh bỉ xa lánh họ, vì chính tâm trạng của tôi khi phạm tội cũng sẽ như họ, trái
lại tôi phải chân thành yêu thương, nâng đỡ và an ủi họ, vì chính họ là những
“người thân cận” của tôi trong Đức Chúa Ki-tô”.
Đức Chúa Ki-tô đã
từ trên cao đi xuống tận cùng của thấp hèn, cho nên không những không té ngã,
mà Ngài còn trở nên mẫu gương khiêm tốn tuyệt vời của nhân loại; nhưng con người
thì trái lại, bản chất là bùn đất thấp hèn, đã muốn vương cao tới trời, cho nên
đã ngã ê chề và đã rước lấy tủi nhục cho mình. Cũng vậy, khi chúng ta từ chối
tiếp đón anh chị em vì nhiều lý do như: tôi bận công việc nhà xứ, tôi bận họp,
tôi bận công tác, tôi bận học hành, tôi bận chủ toạ buổi họp quan trọng của
thanh niên.v.v…và còn rất nhiều lý do khác để chúng ta từ chối đón tiếp người
thân cận nghèo nàn của chúng ta, thì chẳng khác gì chúng ta từ chối Đức Chúa Ki-tô,
không phải vì bận việc lu bù mà không có thời gian vài phút trò chuyện với họ,
nhưng là vì người thân cận nghèo khó ấy không đáng để cho chúng ta tiếp đón mà
thôi.
Đó là thái độ kiêu
căng của chúng ta, nghĩa là chúng ta chỉ biết nhìn lên chứ không chịu nhìn xuống,
bởi vì cứ nhìn lên, cho nên trong cuộc sống đời thường của chúng ta chỉ thích
tiếp đón những người có “máu mặt”, những người tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng
lẫy(Gc
2, 2), và mọi ưu tiên trong giao tiếp của mình đều dành cho họ. Thánh Gia-cô-bê
tông đồ đã nói: “Anh em hãy nghe đây, nào
Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ nghèo trước mặt người đời, để họ trở nên người
giàu đức tin… …Thế mà anh em, anh em lại khinh dễ người nghèo !”(Gc
2, 5-6), và chính thái độ đối xử thiên tư ấy đã tố cáo chúng ta có một tâm
hồn kiêu căng. Một tâm hồn không biết xót thương anh em nghèo khó, cho dù chúng
ta có viện dẫn hàng trăm ngàn lý do chính đáng, nhưng lý do quan trọng và chính
đáng nhất để nhìn thấy, giúp đỡ và yêu thương họ mà chúng ta quên mất, đó là họ
là hình ảnh của Đức Chúa Ki-tô, là “người thân cận” của chúng ta.
Người kiêu ngạo
thì luôn cảm thấy mình bận nhiều công việc, luôn làm ra vẻ ta đây công việc
hàng đống chồng chất, cho nên họ không có thời gian để nhìn thấy những người
chung quanh là “người thân cận” của mình. Họ không muốn tiếp xúc với người thân
cận, họ không muốn gặp mặt anh em đồng bạn, họ luôn từ chối những lời mời thân
thiện của anh em nghèo khó, hoặc những người có thành kiến với mình, nhưng họ lại
hân hoan tham gia những cuộc vui long trọng khác để củng cố địa vị mình, để được
mọi ngưòi chú ý, để được người khác tôn vinh…v.v…
Người khiêm tốn
thì dù cho bận việc tối tăm mặt mày đi chăng nữa thì cũng vẫn luôn an vui tự tại,
họ biết kính trọng những ai đến gặp mình trò chuyện, họ không có thái độ trịch
thượng khi đón tiếp mọi người, và đối với họ, thà trễ công việc một vài phút để
được đón tiếp người anh em –người thân cận của mình- thì họ vẫn sẵn sàng, để người
thân cận của mình được vui vẻ, dù đó là người ghét mình hoặc là người yêu thương
mình, đối với ai họ cũng đều có thời gian tiếp đón trò chuyện cách thân mật, bởi
vì họ luôn đặt mình vào trong hoàn cảnh của người đối diện để cảm thông, để an ủi
và để nhìn thấy rõ con người yếu đuối của mình hơn qua người thân cận của mình,
bởi vì dạ người khôn ở nơi tang tóc, lòng kẻ dại ở chốn vui chơi(Gv
7, 4). Lòng khiêm tốn của chúng ta sẽ như giọt nước mát làm cho người bất hạnh
thoải mái, và khiến cho họ trở nên ngoan ngoãn trước thánh ý của Thiên Chúa, mà
vui vẻ chấp nhận cuộc sống hiện tại và vươn lên.
Ai cũng có thể tự
nhận mình là người khiêm tốn nhất trong mọi người, nhưng ít ai can đảm tự nhận
mình là “người thân cận” của những người bất hạnh, những người mà xã hội đang bỏ
rơi vì nghèo hèn, vì bệnh tật, vì những hành vi bất hảo...
Khiêm tốn không có
nghĩa là từ chối lời khen ngợi của mọi người, cũng không phải là tránh chức vụ
đã được người khác tín nhiệm bầu lên, khiêm tốn như thế chỉ làm rối loạn cộng
đoàn, xa rời anh em, và vô tình đã trở thành một thói kiêu căng hợm hỉnh. Nhưng
khiêm tốn đích thực, chính là mỗi một người trong chúng ta nhìn thấy rõ cái bản
mặt thật của mình quá tồi tệ, đáng nguyền rủa và đáng xa lánh, không khác gì những
anh em khác bị xã hội xa lánh, bị coi là đồ bỏ, là thứ cù bất cù bơ, có như thế,
không những chúng ta nhìn thấy được rõ ràng “người thân cận” của mình không ai
khác hơn là những anh em đau khổ nghèo đói, mà còn là những người giàu có hạnh
phúc đang ở chung quanh chúng ta nữa.
Khiêm tốn thì tựa
như rễ cây bám chặt vào trong đất để cho thân cây được đứng thẳng, chịu đựng được
phong ba bão táp, cũng vậy, người khiêm tốn sẽ được Thiên Chúa chúc lành, và những
việc làm của họ đối với người thân cận giống như những rễ cây bám chặt vào ân sủng
và tình thương của Thiên Chúa, do đó họ không còn phải sợ hãi vào ngày phán
xét, và tất cả những ai đến với họ đều được đối xử như bạn bè thân thiết, như
“người thân cận” của họ, bởi chính họ đã cảm nghiệm được tình yêu của Thiên
Chúa dành cho họ –mặc dù họ không đáng nhận- ngay chính trong cuộc sống của
mình.
Đối với người
khiêm tốn, thì ai cũng là bạn hữu, là “người thân cận” của mình; còn đối với người
không biết khiêm tốn, thì ngay cả bạn hữu của họ cũng đều lánh xa họ, đơn giản
là họ không biết ai là “người thân cận” của mình.
8. NGƯỜI TRUYỀN GIÁO CỦA THẾ KỶ 21,
LÀ NGƯỜI THÂN CẬN CỦA MỌI NGƯỜI.
“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”(Lc
10, 37).
Có thể nói đây là
một lời nhắn nhủ của Đức Chúa Giê-su cho những môn đệ của Ngài trong thế kỷ 21
nầy, xã hội càng văn minh, nhân loại phát triển từng ngày và khoa học kỹ thuật
đã làm cho những người trên thế gới gần nhau hơn qua những phương tiện truyền
thông hiện đại, thì khuynh hướng chia rẽ nhau giữa người với người càng trầm trọng
hơn.
Những biến động
trên thế giới của những ngày tháng cuối cùng của thế kỷ 20 nầy đã chứng minh
cho chúng ta thấy được điều ấy: chiến tranh diệt chủng ở Nam tư, chiến tranh diệt
chủng của dân quân thân Indonésia ở Đông Timore, chiến tranh đánh chiếm nước
lân cận Chesknia của Nga, các cuộc thử phi đạn của Trung quốc, của Bắc Hàn, của
Mỹ…v.v…và nhật báo Trung ương của Đài Loan số ra ngày 6.10.1999 đã đăng tải
hàng tin đáng lo ngại, không những cho đảo quốc Đài Loan, mà còn làm cho các nước
lân cận trong vùng bất an, bản tin như sau : “Trung Quốc đã có mười bảy vệ tinh gián điệp trên không, có khả năng
quan sát mọi hoạt động quân sự của Mỹ trên toàn cầu, và có thể điểu khiển phi đạn
tấn công bất cứ các mục tiêu quân sự nào của Mỹ ngay trên nước Mỹ và Đài Loan,
sức mạnh quân sự của Trung quốc hiện nay đã ngang hàng với Mỹ…” , bản tin nầy
còn nói tiếp : “Nếu Mỹ còn đưa tàu chiến
hạm can thiệp vào Đài loan như năm 1966, thì sẽ bị tấn công bởi các loại vũ khí
chống chiến hạm của Trung Quốc …”. Tất cả những sự kiện ấy đều bộc lộ tâm hồn
của con người ngày càng xa nhau hơn.
Vì tâm hồn của con
người ngày càng xa nhau hơn, nên thế giới cần có những con người hàn gắn lại những
vết thương lòng rạn nức ấy, những con người ấy, không ai khác hơn là những con
người truyền giáo của thế kỷ 21, những người lãnh nhận sứ mệnh đem tình thương
của Thiên Chúa cho nhân loại. Người truyền giáo, tự bản chất là “người của mọi
người”, có nghĩa là không phân biệt tôi là người của xứ nầy, anh là người của
nhóm nọ, chị là người của cộng đoàn kia.v.v…nhưng tất cả đều trở thành một
thành viên trong cộng đoàn, hay trong một vùng mà họ được sai đến. Mang thân phận
của một người truyền giáo là linh mục, là nữ tu, là nam tu sĩ hay một “nhà truyền
đạo” là mang trong mình một tình yêu của Đức Chúa Giê-su, trở thành vị đại sứ của
hoà bình, cũng có nghĩa là những người truyền giáo đi đến đâu, cũng đều đem hoà
bình đến cho nơi ấy, và như thế là họ trở thành “người thân cận” của tất cả mọi
người.
Trở thành “người
thân cận” với mọi người, tự bản chất, nó là yêu thương, nó là niềm vui, nó là
an ủi, là đoàn kết, là thăng tiến và hy vọng.
Có những người
thân cận nhưng không yêu thương nhau, chẳng hạn như những quân “ma giáo”, họ sống
thành từng băng từng nhóm, nhưng khi gặp thất bại thì rã đàn tan nghé và chống
đối nhau, quay lại cắn nhau, họ không hề yêu thương nhau. “Người thân cận” đích
thực của mọi người là người biết đem lại bình an cho mỗi người trong cộng đoàn,
biết tạo cho cộng đoàn một sự đoàn kết trong yêu thương, đó không ai khác hơn
chính là các nhà truyền giáo, những chứng nhân sống động của tình yêu. Họ –các
nhà truyền giáo của thế kỷ 21- đã thâm tín rằng: thế gian cần phải được tràn ngập
tình yêu của Thiên Chúa mới có thể biến đổi bộ mặt của hận thù, ghét ghen và
đau thương của nó.
Không thể nào biến
đổi được bộ mặt của thế gian nếu không biến đổi tâm hồn của con người trước, vì
vậy, các nhà truyền giáo đi đến đâu, việc đầu tiên của họ là chứng minh cho mọi
người thấy “tôi là “người thân cận” của các anh chị em, và các anh chị em là người
thân cận của tôi, chúng ta là anh chị em của nhau trong Đức Chúa Ki-tô”. Do đó,
họ đã đem quả tim tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa trãi ra cho mọi người thấy bằng
các việc làm: xây dựng họ đạo thành một đại gia đình biết yêu thương, hàn gắn
những đổ vỡ trong cộng đoàn, họ là cầu nối của sự đoàn kết giữa các thành viên
trong cộng đoàn, trong giáo xứ với nhau, như lời ngôn sứ I-sai-a đã nói về họ
như sau: “Còn anh em, anh em sẽ được gọi
là “tư tế của Đức Chúa”, người ta sẽ gọi anh em là “người phụng sự Thiên Chúa
chúng ta”(Is 61, 8). Vâng,
chỉ có các nhà truyền giáo của thế kỷ 21 tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa, mới
có thể biến đổi tâm hồn của con người bằng chính đời sống bình an cà yêu thương
của chính họ.
Có những người
thân cận nhưng không đoàn kết với nhau chẳng hạn như những người làm chính trị,
họ nghi ngờ lẫn nhau, tranh quyền đoạt lợi, mỗi lần vận động tranh cử chức nầy,
chức nọ thì lên diễn đàn tố tụng nhau, nói xấu nhau để giành phần thắng về
mình, họ hứa với các cử tri là sẽ đoàn kết một lòng để xây dựng đất nước, nhưng
ngay trong nội bộ của họ đã mất đoàn kết, không ai tin tưởng ai, chia rẽ phân
ly, khai trừ nhau. Nhưng các nhà truyền giáo thì không phải như thế, họ không vận
động để được các tín hữu trong họ đạo tín nhiệm, họ không lên tiếng nói xấu lẫn
nhau để tranh giành họ đạo nầy, chức vụ nọ trong giáo phận, trong cộng đoàn; họ
cũng không hề chia phe kết cánh, gây chia rẽ giữa giáo dân trong họ đạo với
nhau; họ không nói những lời mị dân, không thơn thớt đưa đãi lễ phép ngoài môi
miệng, nhưng những gì họ đã làm, họ hành động thì đều theo đúng tinh thần của
Phúc âm, họ ý thức rằng: cộng đoàn (giáo xứ, đoàn thể, dòng tu…v.v…) là một tấm
áo của Đức Chúa Ki-tô không thể bị xé rách năm bè bảy mảng, nhưng chính họ chứ
không ai khác, có bổn phận và trách nhiệm gìn giữ tấm áo ấy cho lành lặn, không
rách nát, không vấy bẩn. Vì vậy, họ đã trở nên người thân cận của tất cả mọi người,
phục vụ mọi người như phục vụ chính bản thân mình mà không kêu ca khi thất bại,
cũng như không huênh hoang khoác lác khi thành công, họ đã thực hành lời của Đức
Chúa Giê-su dạy: “Đối với anh em cũng vậy
: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm thì hãy nói : chúng tôi là những
đầy tớ vô dụng ” (Lc 17, 10), mà
đã là một đầy tớ vô dụng, thì không có gì để khoe khoang với mọi người cả.
Để trở nên “người
thân cận” của mọi người, người truyền giáo của thế kỷ 21 không ngừng suy gẩm về
cuộc đời của Đức Chúa Giê-su, Đấng đã vì tình yêu mà trở nên người thân cận của
mọi người, nhất là đào sâu tình về tình yêu kỳ diệu của Ngài dành cho nhân loại.
Bởi vì con người ngày hôm nay quá đầy đủ nhu cầu vật chất, đầy đủ mọi phương tiện
cần thiết cho cuộc sống hưởng thụ, trên mọi lĩnh vực khoa học họ đều có các
chuyên gia để săn sóc đời sống của họ, cho nên họ không cần những thứ mà người
truyền giáo đem lại cho họ. Họ có tất cả vật chất để hưởng thụ, nhưng sự hưởng
thụ nầy không được trọn vẹn, vì họ thiếu một nhân tố quan trọng để được sống hạnh
phúc là tình yêu. Tình yêu nầy được phát xuất từ Thiên Chúa và được thể hiện nơi
các nhà truyền giáo, chính họ là những chuyên gia hướng dẫn con người cách sống
để được hạnh phúc vĩnh cửu, làm cho họ nhận ra mình là người thân cận của nhau,
là anh em của nhau trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, Anh em được sống vui vầy bên nhau”(Tv
133, 1).
Các tín hữu trong
giáo xứ sẽ rất vui mừng và hãnh diện về vị linh mục, nữ tu hay các nam tu sĩ phục
vụ trong giáo xứ của mình, nếu các nhà truyền giáo biết đem lại cho họ một tình
thương đại đồng, biết cùng chia sẻ với họ những vui buồn trong cuộc sống đầy những
lo toan. Và ngược lại, họ sẽ rất thất vọng khi các nhà truyền giáo đến gây chia
rẽ trong họ, thích nhóm nầy chê nhóm nọ, như những người làm thuê và không biết
gì đến đàn chiên(Ga
10, 12-13), và như thế họ cũng không phải là “người thân cận” của cộng đoàn.
Nhà truyền giáo của thế kỷ 21 phải là những con người tự nguyện, chứ không phải
bị đưa đi truyền giáo như những tên lính đào ngũ bị bắt đưa ra lại tiền tuyến.
Bởi vì có những người đi truyền giáo mà thân xác thì ở nơi miền đất truyền
giáo, còn hồn thì ở lại tận các nước phương Tây vật chất đầy đủ, việc truyền
giáo đối với họ chẳng qua vì tình thế bắt buộc, vì “lỡ” rồi, cho nên họ không
quan tâm đến các tín hữu trong họ đạo, không thiết tha với các sinh hoạt của cộng
đoàn. Họ giống như những người đi làm thuê, chiên bị sói ăn mất cũng mặc, bầy
chiên tản mác cũng chẳng hay; họ thường chê người dân bản xứ này nọ không đoàn
kết, chỉ thích vẻ bên ngoài, chỉ làm bộ đạo đức mà không có nội tâm.v.v…có thể
lời họ chê là đúng và có thể có một vài nơi thực sự là như thế, nhưng bởi vì
giáo dân bản xứ như thế, cho nên họ mới cần những nhà truyền giáo đến để giúp họ
sửa chữa lại những gì chưa tốt nơi họ; họ chưa có đời sống nội tâm, thì các nhà
truyền giáo giúp họ biết sống nội tâm; họ không có đoàn kết thì các nhà truyền
giáo giúp họ sống đoàn kết và yêu thương nhau hơn. Còn như nếu họ tốt rồi, hoàn
thiện cả rồi, thì họ không cần đến nhà truyền giáo nữa.
Vì vậy, con người
của thế kỷ 21 cần những con người truyền giáo nhiệt tâm với Lời Chúa, tràn đầy
tinh thần yêu thương của Đức Chúa Giê-su với người dân bản xứ, coi họ là những
anh chị em của mình, và là người thân cận của mình. “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy ”(Lc
10, 37). Lời thúc giục nầy của Đức Chúa Giê-su vẫn còn vang dội cho đến hôm
nay -thế kỷ 21- và vang dội mãi cho đến ngày Chúa lại đến.
9. KINH “LẠY CHA” LÀM CHO CHÚNG TA
TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN CẬN CỦA ANH EM
Để cho nhân loại
nhận biết nhau là anh em, và cũng để cho nhân loại được tin tưởng hơn, yêu mến
Thiên Chúa hơn trong khi cầu nguyện, thì Đức Chúa Giê-su đã dạy cho các môn đệ
(và cho cả chúng ta nữa) một “khẩu quyết” để cầu nguyện, lời cầu nguyện nầy khi
thốt lên thì có sức mạnh kéo ân sủng của Thiên Chúa xuống trên mặt đất, và làm
cho nhân loại nhận ra mình là anh chị em của nhau và có một Cha chung ở trên trời.
Lời cầu nguyện nầy, bởi vì do chính miệng Đức Chúa Giê-su dạy, cho nên, không
những nó trở thành báu vật của Giáo Hội Công Giáo, của mỗi một người Ki-tô hữu,
mà còn đem lại ích lợi cho những người chưa biết đến Thiên Chúa nhưng muốn dùng
lời của Ngài để cầu nguyện.
Lời cầu nguyện ấy
như thế nầy: “Lạy Cha chúng con là Đấng
ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương
thực hằng ngày; xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người
có lỗi với chúng con; xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con
cho khỏi sự dữ”. (Mt 6, 9-13).
Không một ai chối cãi về tính chất trung thực và tầm
quan trọng của kinh “Lạy Cha” nầy, trung thực là vì nó diễn tả được lòng yêu thương
nhân từ của Thiên Chúa đối với nhân loại; trung thực là vì nó đáp lại khác vọng
của những ngưòi công chính là xin cho triều đại Chúa mau đến. Quan trọng vì nó
là một lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa nhất do chính Con Một của Ngài là Đức
Chúa Giê-su dạy; nó quan trọng là vì Đức Chúa Giê-su là Thiên Chúa, mà vì là
Thiên Chúa cho nên Ngài mới biết Thiên Chúa cần gì nơi con người, cái mà Thiên
Chúa cần con người chúng ta nhận biết là chúng ta có một Cha chung ở trên trời,
Ngài cũng cần chúng ta nhận ra chúng ta là anh em của nhau, nên phải yêu thương
nhau và biết tha thứ cho nhau những lỗi lầm, như Thiên Chúa đã tha thứ những lỗi
lầm của chúng ta vậy
(Mt 6, 14-15).
1. "Lạy
Cha chúng con là Đấng ngự trên trời"
Cha – con là hai
chữ thân thương và thiêng liêng nhất của tình phụ tử, cha là niềm hạnh phúc và
vinh dự của con, một người cha hiền lành biết yêu thương và săn sóc con cái thì
đem lại hạnh phúc cho gia đình và là nơi nương tựa vững chắc cho con cái.
Đức Chúa Giê-su đã
dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, là để cho chúng ta nhận ra giá trị đích thực
của kẻ làm con, nghĩa là chúng ta thật sự là nghĩa tử của Thiên Chúa, khi tin
vào Đức Chúa Ki-tô là Đấng bởi Cha mà đến, và nhờ sự chết của Ngài mà chúng ta
được hoà giãi với Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta ở trên trời.
Người Do thái cũng đã có lần thừa nhận Thiên Chúa là Cha của họ
(Ga 8, 41), nhưng Đức Chúa Ki-tô đã nói với họ như thế nầy: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các
ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến
…”(Ga
8, 42).
Người Do thái
“thua” chúng ta ở chỗ là họ không nhìn nhận Đức Chúa Ki-tô là Đấng bởi Cha mà đến,
cho nên họ đã từ chối không đón nhận Ngài trong cộng đồng của họ, cũng có nghĩa
là họ không coi Ngài là người thân cận của mình. Còn chúng ta không những tin,
mà còn đón nhận Đức Chúa Ki-tô vào trong cuộc đời của mình, và như lời thánh
Phao-lô tông đồ đã nói: “Để chứng thực
anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng
anh em mà kêu lên : “Áp-pa, Cha ơi! ”(Gl
4, 6). Người Con duy nhất của Cha là Đức Chúa Ki-tô, mà chính nhờ máu của
Người Con ấy đã đổ ra trên thập giá, mà nhân loại chúng ta được cứu chuộc và được
thứ tha tội lỗi(Ep
1, 7) được giao hoà với Thiên Chúa, cùng được gọi Thiên Chúa là Cha, và Đức Chúa
Ki-tô trở thành Anh Cả của mình. Thế là nhân loại đã trở nên anh chị em một
nhà, có một Cha chung tràn đầy yêu thương và rất nhân hậu, có một Anh Cả biết hy
sinh và làm Đấng trung gian gánh hết mọi bất toàn do tội lỗi mang lại cho đàn
em của mình, và nhờ Thần Khí của Cha soi sáng, thúc đẩy mà mọi người trở thành
thân cận của nhau và cùng nhau kêu lên:
“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời ”
(Mt 6, 9).
Như thế, từ nay giữa
Thiên Chúa và con người sẽ không còn có sự xa cách nghiêm khắc nữa, nhưng rất gần
gũi thân thương, và mọi người sẽ không còn xa lạ với nhau nữa, vì theo ý muốn
và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Chúa Giê-su
Kitô(Ep
1, 5). Được gọi Thiên Chúa là Cha, đó là một hồng phúc, được trở thành anh em của
nhau đó là một niềm vui, và niềm vui nầy sẽ trở nên to lớn khi chúng ta trở
thành “người thân cận” của nhau.
2. “Xin làm
cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời”
Các viện bảo tàng
nghệ thuật nổi tiếng trên thế giới, đều có lưu lại những tên tuổi và tác phẩm của
các nghệ thuật gia lừng lẫy từ cổ chí kim của thế giới; các nhà đại tư bản tiền
bạc xài không hết, đem bố thí từ thiện cho các bệnh viện dưỡng lão, các cô nhi
viện.v.v… để lưu lại tên tuổi cho hậu thế. Có những người do thiên tài mà để lại
danh thơm tiếng tốt cho đời; nhưng cũng có những người không phải do thiên tài
hay do nhân tài chi cả, mà chỉ chơi ngông, vì kiêu ngạo, cũng đã để lại cho hậu
thế những tiếng chửi rủa.
Con người ta, ai
cũng muốn tên tuổi của mình được nổi tiếng vang cùng bờ cõi trái đất, cho nên
đã không ngừng tìm mọi điều kiện, tạo mọi phương tiện để đạt được mục đích ấy.
Nhưng thử hỏi, từ thuở tạo thiên lập địa cho đến nay, có bao nhiêu người đã
sinh ra trên mặt đất, và có bao nhiêu người, cho đến nay hậu thế còn nhắc đến
tên tuổi của họ ? Con người nay sống mai chết, như hoa sớm nở chiều tàn, như ngọn
đèn (đèn dầu chứ không phải đèn điện) trước gió mà cũng muốn như thế, thì huống
chi là danh của Thiên Chúa càng muốn cho nhân loại biết và tôn thờ!
Nhưng Thiên Chúa
thì không phải như thế, Ngài không tìm mọi cách để được nhân loại tôn vinh và
tri ân Ngài, bởi vì dù cho toàn thể con người từ ông A-đam cho đến nhân loại
hôm nay tung hô ca tụng Chúa “lên tận trên mây”, thì Ngài cũng chẳng tăng thêm
chút uy quyền vinh dự nào, hoặc toàn thể nhân loại từ trước đến nay, đều đồng
thanh chán ghét Ngài, chửi rủa Ngài, thì Thiên Chúa cũng vẫn cứ là Thiên Chúa đầy
quyền năng và nhân ái, Ngài không cần nhân loại tôn vinh Ngài, bởi vì ngay
chính trong những tạo vật do Ngài sáng tạo, dù thấp hèn đến đâu, cũng lưu lại
danh của Ngài, như lời thánh vịnh đã ca khen tung hô: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung
phải chúc tụng Ngài"(Tv
145, 10). Thiên Chúa không cần chúng ta ca tụng Ngài để Ngài thêm vinh hiển,
bằng chứng là nhân loại qua bao thế hệ, không phải ai cũng ca tụng Thiên Chúa cả
đâu, thậm chí có nhiều kẻ phản đối Ngài, không chấp nhận sự hiện hữu của Ngài
trong vũ trụ, nhiều quốc gia dân tộc đã tẩy chay Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu có
nói năng gì, Ngài không trách mắng, Ngài không giận hờn như các cô gái bị các
chàng trai quên mất cái tên Hoa, tên Hồng của mình, Thiên Chúa chỉ muốn nhân loại
nhận ra Ngài là Đấng hiện hữu, biết Ngài là Thiên Chúa toàn năng, là Cha nhân từ
tràn đầy yêu thương, và tin vào Đức Chúa Ki-tô Con Một của Ngài, đã giải bày
tình thương ấy cho nhân loại thấy qua cái chết trên thập giá của Ngài, để nhân
loại sống yêu thương nhau hơn trong tình huynh đệ, thế thôi.
Nhận ra Thiên Chúa
là Cha yêu thương, là Đấng nhân hậu, thì đem danh thánh của Cha khắc ghi trong
tim trong trí, và bày tỏ ra trong cuộc sống đời thường của mình, đó là điều
mong ước của Thiên Chúa và của những người công chính.
Xin làm cho danh
thánh Cha vinh hiển, đối với người Ki-tô hữu không phải là xây một nhà thờ thật
to thật đẹp, và trước mặt tiền nhà thờ khắc bảng chữ đồng màu vàng thật nổi với
hàng chữ: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU, rồi để đó ngắm lui ngắm tới, rồi khen rằng đẹp
và có ý nghĩa thần học và tình yêu học, nhưng giáo dân trong giáo xứ thì vẫn cứ
đấu đá nhau, cứ chửi rủa nhau như kẻ thù, như nước với lửa thì có ích chi ?
Xin làm cho danh
thánh Cha vinh hiển, cũng không phải mở miệng là kêu tên “Giê-su Ma” mà được
Chúa vui lòng, vì có rất nhiều người vừa kêu tên Chúa Mẹ xong thì chửi như tát
nước vào mặt người hàng xóm, vì người hàng xóm nầy tối hôm qua thả gà qua bươi
đất nhà của họ, ca tụng thánh danh vinh hiển của Chúa không phải như thế, mà như
lời thánh vịnh dạy bảo chúng ta: “Lạy
Thiên Chúa con thờ là Vua của con con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh
Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lạy ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh
Danh muôn thuở muôn đời”.(Tv
145, 1-2)
Nhân loại nhận biết
danh thánh Chúa không phải qua hàng chữ đồng màu vàng đẹp mắt, cũng không phải
qua lời kêu (thét) Giê-su Ma-ri-a Giu-se trên miệng của chúng ta, nhưng họ nhận
ra danh thánh Đức Chúa Giê-su qua chính những việc làm và hành động bác ái cụ
thể của chúng ta. Danh thánh Cha ở đâu thì Nước Cha cũng sẽ ở đó, cũng như ngày
xưa, Thiên Chúa đã ở với dân Ngài trong Lều Hội Ngộ, và nơi đây, ông Mô-sê đã
kêu cầu danh thánh Đức Chúa(Xh
33, 7-17) và danh thánh Chúa được hiển trị nơi dân Ít-ra-en. Ở đâu có yêu thương
thì ở đó có Cha ngự trị, ở đâu có Cha ngự trị thì đó chính là Nước Cha đã đến,
và cầu xin cho nhân loại mỗi một người mau mắn nhận ra danh thánh vinh hiển của
Cha trong cuộc sống của mình, và Nước Cha mau đến trong mỗi một tâm hồn của con
người.
Nước của Cha là nước
tình yêu, nếu chúng ta có tình yêu của Thiên Chúa trong tâm hồn, thì chính
chúng ta là những người làm cho Nước Cha mau đến, cũng có nghĩa là mỗi một người
trong chúng ta là những sứ giả tình yêu của Nước Cha, là đại diện cho Nước Cha ở
trần gian nầy, và nhờ Thần Khí tác động mà chúng ta tiếp xúc, trò chuyện thân mật,
giúp đỡ mọi người và coi họ như là người thân cận của mình vậy. Đó chính là những
dấu chỉ mà nhân loại dễ dàng nhận ra danh thánh vinh hiển của Cha và Nước Cha
mau đến, như lời của Đức Chúa Giê-su đã chất vấn những người Pha-ri-sêu: "Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên
Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông ”(Mt
12, 28).
Nước Cha đã đến rồi,
đến trong tâm hồn những kẻ tin, danh thánh Cha đã vinh hiển rồi, nhưng chỉ vinh
hiển trong các nhà thờ, trong các kinh sách, nơi những cuộc rước kiệu rầm rộ
trong khuôn viên thánh đường. Nhưng còn rất nhiều tâm hồn, nhiều nơi trên thế
giới chưa đón nhận Nước Cha và không biết danh thánh vinh hiển của Cha là gì cả.
Do đó, Giáo Hội với sứ mệnh đã lãnh nhận nơi Đức Chúa Ki-tô Phục Sinh, và được
Thần Khí của Ngài sai đi, đã không ngừng nổ lực loan báo cho con người hôm qua,
hôm nay và ngày mai một sứ điệp của Thiên Chúa
(Lc 4, 18-19): “Sứ điệp tình yêu”, là Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở
lại trong tình thương của Thầy
(Ga 15, 9). Đây là một sứ điệp được chuẩn ấn bằng sự chết và sự phục sinh của
Đức Chúa Ki-tô, cho nên nó có giá trị vượt trên mọi giá trị, để nhân loại nhận
ra mình là những người thân cận của nhau trong Đức Chúa Ki-tô.
3. Ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời.
Khi cầu nguyện,
chúng ta thường cầu xin cho mình được điều nầy điều nọ, cầu xin cho gia đình được
làm ăn phát tài.v.v…nhưng hình như không ai cầu nguyện xin cho được vâng theo
thánh ý của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình ! Trong vườn Giết-sê-ma-ni Đức Chúa
Giê-su đã cầu nguyện với Đức Chúa Cha: “Lạy
Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén nầy. Tuy vậy, xin đừng
theo ý con, mà xin theo ý Cha”
(Mt 26, 39). Ý con là ý của thân xác mỏng dòn, ý của hưởng thụ, ý của sung
sướng thoả mãn, ý của sự chết; ý Cha là ý của tinh thần, ý của hy sinh, ý của sự
sống. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời, mà ở dưới đất nầy ngoại trừ
ông Môi-sê ra
(Xh 33, 11) thì nhân loại -từ trước đến nay- chưa có ai thấy Cha bao giờ, thì
làm sao mà biết được ý của Cha chứ ? Không biết cho nên mới hỏi, nhưng khi nhân
loại chưa hỏi thế nào là ý của Cha, thì chính Cha đã trả lời cho nhân loại biết
ý của Ngài là như thế nào rồi, Thiên Chúa đã trả lời và dạy dỗ cha ông chúng ta
qua miệng các ngôn sứ trong thời Cựu ước: “Hãy
tuân giữ điều chính trực, thực hành điều công minh …”(Is
56, 1), nhưng con người đã không chịu nghe theo ý của Thiên Chúa để thực
hành điều công minh chính trực, cho nên, vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã tỏ
ý của Ngài cho nhân loại biết qua Con Một của Ngài
(Dt 1, 2), cũng như cánh hoa hồng là biểu tượng của tình yêu nam nữ, thì ý muốn
của Thiên Chúa cũng tương tự như thế, nhưng nổi bật hơn, ấn tượng hơn và thực tế
hơn, nhìn vào là biết ngay, và ai cũng nhìn thấy, cũng hiểu ra là Thiên Chúa
yêu mình và tỏ ra cho mình thấy tình yêu của Ngài đó là Đức Chúa Ki-tô và thập
giá.
Khi Con của mình bị
treo trên thập giá, thì chính lúc ấy ý của Cha tỏ rõ mạnh mẽ nhất, hiệu lực nhất,
đó là tình yêu Cha đã dành cho nhân loại tội lỗi qua cái chết của Con yêu dấu,
bởi vì, không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình
(Ga 15, 13). Hy sinh con mình, tức là tâm hồn Cha đã chết với con, vì vậy, có
thể nói, chính Đức Chúa Cha đã vì yêu thương nhân loại mà chia sẻ cái chết với
Con Một của mình là Đức Chúa Ki-tô vậy. Chính Đức Chúa Ki-tô đã hiểu rõ ý của
Cha cách tường tận, cặn kẻ, vì thế, trong những lời di chúc cuối cùng cho các
tông đồ, Ngài đã nói: “Điều làm Chúa Cha
được tôn vinh là : Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”
(Ga 15, 8). Trở thành môn đệ của Thầy, cũng có nghĩa là mọi người trở thành
anh em với nhau, trở thành người thân cận của nhau trong tình yêu của Đức Chúa Ki-tô,
đó là ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời rồi vậy.
Vậy, khi chúng ta
cầu nguyện, thì điều quan trọng trước tiên là xin cho ý của Thiên Chúa thể hiện
dưới đất cũng như trên trời, mà ý của Thiên Chúa là: anh em hãy yêu thương nhau, như thầy đã yêu thương anh em
(Ga 15, 12). Điều quan trọng thứ hai là xin cho được chấp nhận thánh ý của
Thiên Chúa qua mọi hoàn cảnh vui buồn, hạnh phúc, đau khổ trong cuộc sống của
mình.
4. “XIn Cha
cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”
“Xin Cha cho chúng
con” là lời cầu vừa khẩn thiết vừa thân thương của những đứa con tội nghiệp đối
với cha chúng nó, là lời van nài bày tỏ sự bất lực của mình đối với hoàn cảnh
hiện tại, và cũng là niềm hy vọng của những đứa con khi kêu cầu cha chúng nó.
“Xin Cha cho chúng con” không phải là một lời cầu xin đơn độc, mà là lời cầu
xin của toàn thể những người có niềm tin trên mặt đất, hướng về Đấng nắm quyền
vận mệnh của toàn thể vũ trụ nhân loại; là lời của người Ki-tô hữu tuyên xưng đức
tin của mình vào Thiên Chúa là Cha của mọi loài thụ tạo hữu hình và vô hình, và
thừa nhận mình là con cái của Cha trên trời, mọi ngưòi đều là anh em chị em
thân cận của nhau. Bởi đó, khi chúng ta mở miệng kêu cầu: Xin Cha cho chúng con
hôm nay lương thực hằng ngày, là chúng ta phải tin chắc là được như thế, vì Đức
Chúa Giê-su đã nói: “Thầy còn bảo thật
anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em họp lời cầu xin bất cứ điều gì,
thì Cha Thầy, đấng ngự trên trời, sẽ ban cho ”
(Mt 18, 19).
Lương thực là nhu
cầu cần thiết của con người để duy trì sự sống, không có lương thực thì con người
phải chết, đó là điều tự nhiên ai cũng biết. Các nước trên thế giới, được phân
chia ra ba giai cấp rõ ràng : giai cấp phát triển (các nước tư bản), giai cấp
đang phát triển (các nước đang bước qua giai đoạn kinh tế thị trường) và giai cấp
chậm tiến (hay gọi là các nước thế giới thứ ba), dù là giai cấp nào đi chăng nữa,
thì cũng có người giàu và người nghèo, giàu nghèo là vấn đề nhức nhối cho các
chính phủ, vì vậy họ lập ra cái gọi là tổ chức Công Nông Lương thế giới, để các
nước giàu có hổ trợ cho các nước nghèo, thế nhưng mức độ giàu nghèo vẫn chênh lệch
nhau giữa các quốc gia nói chung, và mỗi người trong các quốc gia nói riêng.
Tài nguyên thiên
nhiên đã được Thiên Chúa trãi rộng ra cho con người hưởng dùng trên mặt đất
không thiếu, nhưng 2/3 nhân loại vẫn thiếu đói, và con người vẫn không ngừng
tranh chấp nhau để thống trị và giành lương thực của nhau qua mọi hình thức văn
minh và mọi rợ. Nói văn minh là hình thức viện trợ để các nước nhận viện trợ bị
lệ thuộc vào nước viện trợ mà không làm lụng phát triển chi cả (mà có làm thì
cũng làm rất ít) cho đất nước của mình (thực dân); nói mọi rợ là đem quân xâm
chiếm tàn nhẫn, gây chết chóc đổ máu cho mọi người v.v…để dành dân chiếm đất
cho mình (chiến tranh). Đức Chúa Ki-tô muốn con người sống công bằng và bác ái
hơn, khi Ngài dạy cho chúng ta cách cầu xin: xin Cha cho chúng con hôm nay lương
thực hằng ngày. Cũng có nghĩa là, xin Chúa ban cho chúng ta hằng ngày có lương
thực cần thiết để sống, để chúng ta làm cho mặt đất này ngày càng phát triển,
và mọi người có cơm ăn áo mặc xứng với phẩm vị con cái của Thiên Chúa.
“Xin Cha cho chúng
con hôm nay lương thực hằng ngày” không có nghĩa là ngày ngày sáng tối đọc kinh
Lạy Cha, để rồi ngày ngày đi lông bông kết bạn rượu chè, ngồi lê đôi mách và
đòi xin Chúa làm phép lạ để có cơm có thịt ăn mà không cần phải làm lụng chi cả.
Nhưng cầu xin cho có lương thực hằng ngày, chính là đem hết sức lực trí óc ra
làm việc, bàn tay lem luốc dầu mỡ trong nhà máy, nhưng lòng đầy niềm tin phấn
khởi, mồ hôi trên mặt rơi xuống trên ruộng đồng, nhưng mặt mày thì rạng lên nét
hân hoan hi vọng ngày bội thu: “Ai nghẹn
ngào ra đi gieo giống mùa gặt mai sau khấp khởi mừng ; họ ra đi, đi mà nức nở,
mang hạt giống vãi gieo ; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”
(Tv 126, 5-6). Thiên Chúa không làm phép lạ cho những người biếng nhác, nhưng
Ngài làm cho đất đai của những người tin tưởng vào Ngài trở nên màu mỡ, và họ được
hưởng thành quả do tay mình làm nên: “Công
khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may”
(Tv 128, 2).
Bởi vì thân xác
con người được dựng nên bằng bùn đất
(St 3, 19), nên nó cần thứ lương thực từ bùn đất mà ra để tồn tại
(St 2, 9), rồi một ngày nào đó lại trở về với bụi đất. Và trong thân xác nầy,
Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào và nhờ đó con người trở nên sinh động, chúng ta
gọi là linh hồn. Linh hồn không từ đất mà ra, nhưng bởi từ Thiên Chúa mà có nên
nó bất tử, vì vậy, nó cũng cần thứ lương thực bất tử để được sống vĩnh hằng với
Thiên Chúa, do đó, khi chúng ta cầu xin: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương
thực hằng ngày” cũng là chúng ta cầu xin lương thực cho linh hồn. Thế giới hôm
nay có rất nhiều người đã tự kết liễu đời mình bằng những viên thuốc ngủ, bằng
phát súng trên đầu, mặc dù họ có danh vọng tột đỉnh, có quyền uy tột cùng, tiền
bạc đốt cũng không hết.v.v… tại sao vậy? Thưa vì họ đói lương thực linh hồn.
Lương thực linh hồn
của chúng ta chính là Mình và Máu thánh của Đức Chúa Giê-su, và lời hằng sống của
Ngài, chính Ngài đã hứa với chúng ta: “Vì
Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy sẽ được sống muôn đời. Và
bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”
(Ga 6, 51). Ở đời ai cũng thích ăn của ngon vật lạ, nhưng những thức ăn ấy
không làm cho con người được sự sống đời đời, bánh hằng sống mà Đức Chúa Giê-su
đã ban tặng cho nhân loại chính là lương thực nuôi dưỡng linh hồn bất tử, là
bánh bởi trời xuống nên nó quý hơn tất cả mọi thứ lương thực trên đời, vì vậy
những ai thành tâm tin tưởng và yêu mến cầu xin thì mới được ban tặng, và chính
họ cũng sẽ nếm mùi thơm ngon của hạnh phúc Nước Trời ngay tại trần gian nầy.
Ngoài ra Lời của Ngài cũng là thứ lương thực hằng sống để kiện toàn đức tin cho
chúng ta trong cuộc sống hôm nay, như ông Phê-rô đã trả lời với Đức Chúa Giê-su:
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời ”(Ga
6, 68).
Đó là hai thứ lương
thực cần thiết cho linh hồn của người tín hữu, cũng như lương thực nuôi thân
xác là để bồi bổ sự mất sức lực, thì Thánh Thể cũng tăng cường sức lực cho đức
ái là nhân đức có khuynh hướng bị yếu đi trong cuộc sống thường nhật. Do đó,
khi chúng ta cầu xin với Cha trên trời: xin cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày cho thân xác, thì cũng đừng quên cầu xin Ngài ban cho chúng ta lương thực
linh hồn, để khi được hồn an xác mạnh, chúng ta không quên những anh chị em, là
những “người thân cận” của chúng ta, đang cần đến lòng bác ái quãng đại của
chúng ta giúp đỡ họ, như Thiên Chúa đã yêu thương và quãng đại với chúng ta vậy.
5. “Xin tha tội
cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”
Đức Chúa Giê-su là
Thiên Chúa cho nên Ngài hiểu rất rõ bản tính mỏng dòn yếu đuối và dễ dàng sa
ngã của con người, vì vậy Ngài đã dạy chúng ta hằng ngày phải cầu xin Thiên
Chúa tha tội cho mình, bởi vì không lúc nào mà chúng ta không xúc phạm đến tình
yêu của Thiên Chúa do sự kiêu căng của mình, cùng những cám dỗ do dục tình và của
cải phù vân đem lại. Nếu chúng ta, mỗi người bình tâm tự kiểm lại đời sống
trong ngày của mình, đếm những tội trọng tội nhẹ mà mình đã phạm đến tình yêu của
Thiên Chúa từ khi có trí khôn cho đến bây giờ, thì chúng ta sẽ thấy kinh khiếp
và sợ hãi, vì nào có ai đếm được tội của mình đâu, và quả thật, nếu luận theo sự
công minh của Thiên Chúa, thì chẳng có ai còn sống sót trên mặt đất.
Thế nhưng, qua một
thị kiến, Thiên Chúa đă cho tiên tri I-sai-a thấy lòng nhân từ xót thương của
Ngài đối với nhân loại tội lỗi: “Tội các
ngươi, dầu có đỏ như son, cũng hoá trắng như bông”
(Is 1, 18), vải trắng mà bôi màu đỏ lên thì khó mà làm cho nó trắng lại được,
mà lại trắng như tuyết mới chết chứ ! Vải điều màu đỏ thẫm thì làm sao mà tẩy
ra trắng như bông cho được? Vậy mà vì yêu thương, Thiên Chúa làm được mọi sự,
và trước mặt Ngài tất cả tội lỗi chúng ta đều được xoá bỏ, nếu chúng ta thật
lòng nghe theo lời của Thiên Chúa mà “Hãy
tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh
cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”
(Is 1, 17).
“Xin tha tội cho
chúng con” chính là một lời kiêu cầu khiêm tốn của người con biết nhận ra tội lỗi
của mình mà xin cha tha thứ, và Thiên Chúa là Cha nhân từ lập tức tha thứ cho
chúng ta một khi đã nghe lời cầu xin của chúng ta. Bởi vì chính Thiên Chúa đã
không tiếc thương Con Một của mình, Ngài đã để Con mình là Đức Chúa Giê-su Ki-tô
phải chết nhục nhã trên thập giá vì mục đích duy nhất là YÊU THƯƠNG nhân loại tội
lỗi, và chính nhờ máu Con Ngài đã đổ ra trên thập giá, mà lời cầu xin khẩn thiết
của chúng ta được nhận lời và tội đỏ như son, thẫm như vải điều đã được xoá bỏ.
Bởi vậy, Đức Chúa Giê-su đã dạy chúng ta - cũng tha cho những người có lỗi với
chúng ta, như Cha đã tha thứ tội lỗi cho chính bản thân mình- và Ngài, sau khi
kể câu chuyện dụ ngôn tên mắc nợ không biết xót thương, cũng đã nhấn mạnh đến
tính chất quan trọng và thiết yếu của việc phải tha thứ cho nhau: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối
xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho
anh em mình” (Mt 18, 35).
Khó mà tha thứ cho
nhau được nếu mỗi người trong chúng ta không hết lòng khiêm tốn nhìn nhận rằng,
mình cũng có tội lỗi ngang hàng hoặc hơn anh chị em đã mắc lỗi với mình, có như
thế, chúng ta mới hết lòng tha thứ cho tha nhân. Đức Chúa Giê-su trên thập giá
đã xin Đức Chúa Cha tha tội cho những người đã lên án tử cho mình: “Lạy Cha, xin tha tội cho họ, vì họ không biết
việc họ làm” (Lc 23, 34), và
noi gương Thầy chí thánh của mình, các thánh tử đạo là những người đã trở nên
giống Đức Chúa Giê-su khi tha thứ cho những người làm hại mình, thánh Tê-pha-nô
đã kêu lớn tiếng cầu nguyện: “Lạy Chúa,
xin đừng chấp họ tội nầy”
(Cv 7, 60), xin đừng chấp họ tội nầy, cũng có nghĩa là “tôi tha thứ cho anh
để tôi được tha thứ”. Tha thứ cho người anh em là biểu lộ một tấm lòng nhân hậu
của con cái Cha trên trời, là để nói cho mọi người nghe biết chúng ta là anh chị
em, là người thân cận của nhau trong Đức Chúa Ki-tô.
Trong cuộc sống hằng
ngày không ai là không mắc nợ nhau, nhưng hãy mắc nợ nhau về đức ái, đừng lấy
oán báo oán, Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì chúng ta cũng phải tha thứ cho
nhau
(Cl 3, 13). Ai không biết tha thứ cho người anh em, thì không đáng nhận sự tha
thứ của Thiên Chúa; ai không biết tha thứ cho anh em, thì không phải là người
thân cận của mọi người, vì tha thứ là dấu hiệu của con cái Cha trên trời.
Có người miệng thì
nói tha thứ cho anh em, nhưng không muốn gặp mặt trò chuyện với anh em, đó là sự
tha thứ dối trá của con cái thế gian; cũng có người miệng nói tha thứ cho anh
em, nhưng tìm cách để bôi nhọ danh dự anh em, đó là sự tha thứ của lòng ghét
ghen. Phải tha thứ cho anh em bảy mươi bảy lần bảy
(Mt 18, 22), nghĩa là phải tha thứ luôn luôn như Thiên Chúa luôn luôn tha thứ
cho chúng ta vậy, “vì chính khi thứ tha,
là khi được tha thứ ” .
Đó cũng là cách để
chúng ta nhìn thấy anh chị em là người thân cận của chúng ta trong Đức Chúa
Giê-su Ki-tô.
6. “Xin đừng để
chúng con sa chước cám dỗ”.
Đức Chúa Giê-su
không dạy chúng ta cầu nguyện: xin cho chúng con không bị cám dỗ, bởi vì bao
lâu còn sống trên cõi đời tạm nầy, thì con người vẫn luôn luôn bị cám dỗ, nhưng
Đức Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, tức là khỏi sa
vào cạm bẩy của ma quỷ là kẻ chủ mưu của những cám dỗ.
Cám dỗ hay là mê
hoặc, là động từ nói lên một trạng thái hay một vật có sức thu hút tâm trí con
người, làm cho con người quên mất mình là ai, quên mất thực tại mà chỉ chú ý đến
nó mà thôi. Nhưng bị cám dỗ chưa phải là tội, mà tội là do lòng mình ưng chịu
hay không khi cơn cám dỗ đến, chẳng hạn như có một cô gái đẹp, đẹp đến nỗi hoa
phải nhường nguyệt phải thẹn, thì sắc đẹp nầy không phải là tội, mà trái lại,
chúng ta càng phải cám ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên cái đẹp và ban tặng cho cô
gái, nhưng nếu cô gái nầy dùng sắc đẹp nầy để đi “dụ khị” đàn ông con trai vì mục
đích bất chính thì cô ta mắc tội; và đàn ông con trái nào nhìn thấy sắc đẹp của
cô gái mà ao ước cùng cô ta phạm tội và tìm mọi cách để thoả mãn dục vọng, thì
họ đã phạm tội
(Mt 5, 28). Như thế, cám dỗ thì luôn luôn có sẵn trên mặt đất nầy, và không ngừng
đeo đuổi chúng ta, do đó mà Đức Chúa Giê-su đã dạy chúng ta phải luôn tỉnh thức
và cầu nguyện để khỏi sa vào chước cám dỗ
(Mt 26, 41).
Cầu xin để khỏi sa
chước cám dỗ thì việc trước tiên là phải cầu nguyện, cầu nguyện để xin ơn chiến
thắng cơn cám dỗ, để tìm ra phương pháp hữu hiệu tránh né mê hoặc, cầu nguyện
cũng là một cái “máy điện đài cá nhân” liên lạc trực tiếp với “tổng đài” là
Thiên Chúa để xin cứu viện và để chiến đấu với kẻ thù là ma quỷ. Và kinh nghiệm
của nhiều vị thánh khi đối mặt với cám dỗ, khôn ngoan hơn cả là chạy xa nó, đừng
khinh thường nó, đừng chần chừ với nó, đừng thương lượng với nó, vì con cái đời
nầy khôn khéo hơn con cái ánh sáng
(Lc 16, 8), không những trong giao tiếp mà ngay cả trong lời mời mọc mê hoặc.
Cám dỗ không ở đâu
xa, nó ở ngay trong tâm trí chúng ta mà các nhà tu đức học gọi là ba thù: thế
gian, xác thịt và danh vọng, khi gặp hoàn cảnh thuận tiện nó liền chỗi dậy và
giục lòng ham muốn của chúng ta, nó bày vẻ ra lắm điều mê hoặc lý trí con người,
kích thích tính tò mò, lòng hiếu thắng.v.v…để chúng ta sa ngã và đắm mình trong
sự tội. Đức Chúa Giê-su đã ba lần bị tên cám dỗ đến mê hoặc, nhưng cả ba lần nó
đều thất bại trước lời cầu nguyện và quyết tâm chống trả của Ngài
(Mt 4, 1-11; Mc 1, 12 ; Lc 4, 1-13), vì vậy, Ngài đủ kinh nghiệm để dạy chúng
ta phải cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, nhưng đồng thời cũng phải quyết tâm để
chiến thắng cám dỗ, và như lời thánh Phao-lô đã nói: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài
người. Thiên Chúa là đấng trung tính: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá
sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em
có sức chịu đựng”
(1 Cr 10, 13).
Vậy, chúng ta có
thể nói: cám dỗ là chuyện thường tình của ma quỷ, luôn tỉnh thức sẵn sàng để
chiến đấu với cám dỗ là chuyện của chúng ta, và chiến thắng cám dỗ hay không là
do sự cầu nguyện và quyết tâm của chính bản thân mỗi người.
7. “Nhưng cứu
chúng con cho khỏi sự dữ" .
Sóng to gió mạnh,
biển động kinh hoàng làm cho con thuyền lắc lư như muốn lật úp, các môn đệ kinh
hãi và cầu cứu với Đức Chúa Giê-su: “Thưa
ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”.
(Mt 8, 23-25).
Sự dữ là sóng to
gió mạnh trên cấp mười hai, con thuyền là mỗi một người trong chúng ta đang
hành trình trên biển trần gian. Con người từ khy sinh ra cho đến khi trở về với
bùn đất, thử hỏi chúng ta có bao nhiêu ngày nếm mùi hạnh phúc chân thật trên trần
gian nầy? Người ta thường nói thế gian là biển khổ, khổ là vì thế gian đã bị sự
dữ thống trị, mà ở đâu sự dữ thống trị thì ở đó có tội lỗi và những mầm mống của
nó là gian dâm, ngoại tình, kiêu căng, ghen ghét.v.v…
“Sự dữ (điều ác)
không phải là một quan niệm trừu tượng, nhưng là một ngôi vị, là sa-tan, là Kẻ
Dữ, là thiên thần chống lại Thiên Chúa”; sự dữ và tội lỗi liên kết mật thiết như
cha con cùng nhau thống trị thế gian, làm cho thế gian ngày càng xa rời
Chân-Thiện-Mỹ là khuôn mặt tốt đẹp ban đầu của nó.
Trong cơn sợ hãi của
các môn đệ, Đức Chúa Giê-su vẫn hiện diện giữa các ông, vẫn bình thản trong giấc
ngủ, và chỉ thức dậy sau khi các môn đệ cầu cứu, và chỉ một lời nói, tức thì biển
yên sóng lặng như tờ
(Mc 4, 39). Cuộc hành trình về Nước Trời của chúng ta ngày hôm nay cũng như thế,
giữa những tấn công như bão táp của sự dữ là sa-tan, có những lúc chúng ta tưởng
mình như bị ngọn cuồng phong ấy cuốn mất trôi trong giòng chảy của tội lỗi, nhưng
dù chỉ còn một hơi thở, chúng ta vẫn luôn luôn trông cậy và cầu xin sự cứu giúp
của Thiên Chúa, như các môn đệ đã cầu xin: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng
con chết mất”.
“Nhưng cứu chúng
con cho khỏi sự dữ” cũng là lời cầu xin cho được bình an trong tâm hồn, một tâm
hồn bình an thì sa-tan khó mà làm gì nổi, bởi vì sự bình an được xây dựng trên
nền tảng của Lời hằng sống, và được củng cố bằng các bí tích, nhất là bí tích
Thánh Thể nuôi dưỡng và kiện toàn đời sống tâm linh, để đủ sức đương đầu với sự
dữ và chiến thắng nó. Do đó, khi chúng ta cầu xin cho đựơc thoát khỏi sự dữ,
thì cũng có nghĩa là chúng ta cầu xin cho cuộc sống hôm nay và ngày mai được
thoát khỏi tay Kẻ Dữ là sa-tan, và trong giờ phút sau hết của cuộc đời, được
thoát khỏi bàn tay Kẻ Dữ, bình an trở về với Cha trên trời.
Quả thật, kinh “Lạy
Cha” là một lời cầu nguyện độc đáo, không những làm cho chúng ta ý thức mình là
con của Cha trên trời, mà còn làm cho chúng ta trở thành anh em chị em thân cận
với nhau hơn, trong Đức Chúa Ki-tô. Vì thế, nó phải chiếm vị trí hàng đầu trong
những lời cầu nguyện của chúng ta, và phải được ưu tiên trên miệng chúng ta hơn
những lời cầu xin khác; như trẻ con luôn miệng gọi ba nó trong gia đình, chúng
ta cũng không ngừng kêu lên : “Áp-ba, Cha ơi ! ”. Ước gì được như vậy ! Amen.
10. ĐỨC MẸ MA-RI-A,
MẪU GƯƠNG CỦA NGƯỜI THÂN CẬN
Cũng là phụ nữ như
các phụ nữ khác, nhưng vượt trên tất cả các phụ nữ ở trần gian về đức hạnh và
ân sủng của Thiên Chúa, vì vậy Đức Mẹ Ma-ri-a được công nhận và được cung kính gọi
là Mẹ của Đấng cứu chuộc.
Tuy được nhấc lên
cao trong tột đỉnh vinh quang, nhưng Đức Mẹ Ma-ri-a đã không vì thế mà quên mất
vai trò "đồng công cứu chuộc" với Con của mình là Đức Chúa Ki-tô,
ngay tại trần gian Mẹ đã thể hiện vai trò “đồng công” rất đặc biệt và rất đời
thường, đặc biệt là vai trò “đồng công” của Mẹ không rùng rợn như những vở bi kịch
khóc lóc, giựt tóc nằm lăn dưới đất hét la rợn rùng khi con của mình bị đem đi
hành quyết cách oan uổng. Nhưng đặc biệt ở chỗ Mẹ đã chôn giấu những khổ đau ấy
ở trong lòng, trở thành sức mạnh như những rễ cây bám chặt vào trong đất, đứng
vững hiên ngang dưới chân thập giá, chia sẻ với Con những đau khổ trong giờ
phút cuối cùng của cuộc đời.
Đời thường, là vì
Mẹ cũng giống như các phụ nữ khác ngày ngày lo công việc nội trợ, sắp xếp việc
nhà, dạy dỗ con cái.v.v…nhưng chính trong cảnh đời rất thường ấy, Mẹ đều biết kết
hợp với Thiên Chúa, và khiêm tốn dâng lên Ngài những hạn chế của mình trong việc
dưỡng nuôi và dạy dỗ Con Một của Ngài là Đức Chúa Ki-tô, và cũng là con của Mẹ,
vì thế, trong cách cư xử với mọi người, không ai tế nhị cho bằng Đức Mẹ
Ma-ri-a. Chúng ta dừng lại ở hai thời điểm lớn trong cuộc đời của Đức Mẹ Ma-ri-a,
để nhìn thấy cái hay, cái tuyệt đẹp khi xử thế của Mẹ, đã trở nên mẫu gương cho
chúng ta khi trở nên người thân cận của mọi người:
1.Sứ thần
truyền tin
Sứ thần Gáp-ri-en
nói với trinh nữ Ma-ri-a: “Mừng vui lên,
hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”
(Lc 1, 28), cô Ma-ri-a thật sự bối rối trước lời chào nầy của sứ thần, không
bối rối sao được khi có một việc trọng đại như thế xảy đến cho đời mình? Theo
thói thường của con người, khi gặp chuyện trọng đại đột xuất như thế, thì hoảng
hốt, trí óc quên đầu quên đuôi, nhưng đối với cô Ma-ri-a thì không phải vậy, chỉ
bối rối chút xíu (có lẽ là e lệ) rồi hỏi lời chào ấy có ý nghĩa là gì?
Đây không phải là
một câu chuyện thần thoại trong truyện cổ tích: có một tiên nữ giáng trần, báo
tin cho một cô thôn nữ sẽ mang thai và sinh ra một vị quân vương đánh đông dẹp
bắc, lên ngôi vua oai hùng lẫm liệt.v.v…nhưng đây là một câu chuyện lịch sử và
là một lời đề nghị nghiêm chỉnh, một lời mời gọi cộng tác vào chương trình đã vạch
sẵn của Thiên Chúa, nhưng thiếu “vai chính”, hay có thể nói, đã có vai chính
trong ý định của Thiên Chúa, nhưng vì để tôn trọng sự tự do của con người, nên
Thiên Chúa mới đề nghị và “thương lượng” với cô Ma-ri-a, một sự thương lượng mà
“phần lỗ lã” thuộc về Thiên Chúa, còn “phần lợi” thì thuộc về con người. Cô Ma-ri-a
với sự khiêm tốn tột cùng của một nữ tỳ tôi tớ, cộng với sự am hiểu thánh kinh
như bậc thông thái, đã nhìn thấy nhân loại tội lỗi là những “người thân cận” của
mình đang bị thống trị bởi tội lỗi ác thần, nên đã vâng phục thánh ý của Thiên
Chúa, sẵn sàng chấp nhận những đau khổ sẽ xảy tới cho mình trong tương lai, để
hoàn thành ý định cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa, và cô đã khảng khái trả lời:
"Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”
(Lc 1, 38). Và thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a:
“Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy ánh sáng huy
hoàng ;
đám người sống
trong vùng bóng tối,
nay được
ánh sáng bừng lên chói lọi”.(Is
9, 1).
Dân đang đi trong
tối tăm ấy không ai khác hơn chính là nhân loại tội lỗi, những “người thân cận”
của Đức Mẹ Ma-ri-a, những người mà chính Mẹ đã “nhìn thấy” ngay trong lời đề
nghị của sứ thần Thiên Chúa, và thế là Mẹ đã vì “người thân cận” của mình mà
vâng phục thánh ý của Thiên Chúa, đã trở nên Đấng đồng công trong chương trình
cứu độ nhân loại của Ngài.
Không có sự vâng
phục nào mà không có hy sinh: Tổ phụ Áp-ra-ham vì vâng phục Đức Chúa nên đã từ
bỏ quê cha đất tổ ra đi đến vùng đất xa la; Đức Chúa Ki-tô đã vâng phục ý muốn
của Đức Chúa Cha và đã chết trên thập giá. Nhưng những hy sinh bởi sự vâng phục
nầy đều sinh hoa kết trái qúa sức mong ước của con người. Sự hy sinh của
Áp-ra-ham làm cho ông trở thành tổ phụ của một dân tộc Chúa chọn; sự hy sinh của
Đức Chúa Ki-tô làm cho Ngài trở nên Đấng cứu độ trần gian, và Đức Mẹ Ma-ri-a đã
trở nên Mẹ Thiên Chúa khi quảng đại trả lời “Xin vâng” với sứ thần Gáp-ri-en.
2. Tiệc cưới
Ca-na
Trong cuộc đời của
chúng ta, ai cũng có ít nhất là một lần đi dự tiệc cưới, tức là đã trở nên người
thân cận của đôi tân hôn, dù là đám cưới giàu có được tổ chức ở nhà hàng, hay
đám cưới nhà nghèo được tổ chức tại gia đình, thì chúng ta cũng là khách được mời
của cô dâu và chú rể. Mọi “đám” có thể không có rượu cay vị nồng, nhưng đám cưới
thì không thể thiếu rượu được, rượu ngon thì làm cho tâm hồn con người phấn khởi(Tv
104, 15), có chút men rượu thì mọi người cảm thấy gần gủi nhau hơn, thân tình hơn.
Nơi tiệc cưới làng
Ca-na miền Ga-li-lê, Đức Mẹ Ma-ri-a và Đức Chúa Giê-su cũng đã được mời
(Ga 2, 1-11), thánh Gio-an tông đồ đã rất thực tế khi kể lại việc Đức Chúa
Giê-su và các môn đệ tham dự tiệc cưới, để chứng minh cho chúng ta thấy rằng,
Chúa Giê-su là một con người như chúng ta, và đã trở nên người thân cận của mọi
người khi Ngài và các môn đệ đến chung vui với cô dâu chú rể. Tiệc vui đến nửa
chừng thì hết rượu, chẳng một ai biết, kể cả ông quản tiệc; tiệc vui sẽ mất
vui, và chủ nhà sẽ “mất mặt” với bà con hai họ, nhưng không ai nhìn thấy hậu quả
nầy, chỉ có Đức Mẹ Ma-ri-a
(Ga 2, 3). Là người phụ nữ, Mẹ có tính nhạy bén của phụ nữ; là nữ tỳ của Thiên Chúa,
Mẹ có một đức tin tuyệt đối vào Ngài, cho nên khi thấy hết rượu, Mẹ đã tế nhị
nói với Đức Chúa Giê-su: “Họ hết rượu rồi”
(Ga 2, 3).
Khi nói: “Họ hết rượu
rồi”, Đức Mẹ Ma-ri-a đã bày tỏ cho chúng ta thấy Mẹ luôn quan tâm hết thảy mọi
người, và tự trong lời “nhắc nhở” khéo léo ấy, Đức Mẹ Ma-ri-a đã trở nên “người
thân cận” của mọi người trong Đức Chúa Ki-tô.
Khi nói với Đức Chúa
Giê-su: “Họ hết rượu rồi” thì vai trò trung gian của Mẹ giữa Đức Chúa Giê-su và
nhân loại thật sự nổi bật, bởi chính Mẹ -chứ không ai khác- đã chăm sóc, dạy dỗ,
bàu chữa và thông chuyển ơn Thiên Chúa xuống cho nhân loại, khi nhận lãnh sứ mệnh
làm mẹ của Con Thiên Chúa –Đức Chúa Giê-su Ki-tô.
Nơi tiệc cưới
Ca-na, Mẹ không ồn ào khoe khoang với mọi người là con mình biết làm phép lạ biến
nước thành rượu, Mẹ cũng không hách dịch chỉ trỏ người nầy phải làm cái nầy, người
kia phải làm việc nọ, để chứng tỏ mình là mẹ của đứa con biết làm phép lạ, bởi
vì khi làm như thế, Mẹ sẽ trở nên xa lạ với mọi người, trái ngược với bản tính
khiêm tốn nơi con người của Mẹ, và hơn thế nữa, người ta sẽ nhìn Mẹ như những
người Pha-ri-sêu chính hiệu. Nhưng tự bản thân, Mẹ đã hiểu được mình chỉ đóng
vai trò đồng công với Thiên Chúa, chính Con của mình mới là “vai chính” trong
chương trình nầy, cho nên, như người mẹ nhà quê hiền từ chất phác mà phúc hậu,
Mẹ đã nói với những người giúp việc: “Người
bảo gì, các anh cứ việc làm theo”
(Ga 2, 5). Và từ đó trở đi trong toàn bộ sách Phúc âm của thánh Gio-an,
không hề nghe lại lời của Mẹ nói, bởi vì hai câu nói quan trọng và cần thiết nhất
cho nhân loại, Mẹ đã nói rồi: “Họ hết rượu rồi ” (Ga 2, 3) và “Người bảo gì,
các anh cứ việc làm theo” (Ga 2, 5).
Cứ làm theo như Đức
Chúa Giê-su dạy bảo, cũng có nghĩa là Mẹ đã dạy cho chúng ta có một đức tin tuyệt
đối vào Đức Chúa Ki-tô và Lời của Ngài, Lời ban sự sống đời đời, vì chính Mẹ đã
tin và đem tất cả Lời của Chúa ghi nhớ trong lòng
(Lc 2, 51). Mẹ thật sự đã trở nên người thân cận của mọi người -như Đức Chúa Ki-tô-
khi đến tham dự tiệc cưới, và chỉ có người thân cận mới quan tâm đến người thân
cận của mình, không chỉ trong lúc vui vẻ (tiệc cưới) mà ngay cả trong lúc khó
khăn, đau khổ (hết rượu), và người thân cận của Đức Mẹ Ma-ri-a không phải chỉ
là gia đình của cô dâu chú rể, mà là cả nhân loại chúng ta, từng người một đều
được Mẹ ân cần chăm sóc, dạy dỗ và bàu chữa trước toà án công thẳng của Thiên
Chúa.
Quả thật, trong cuộc
đời của chúng ta, nhất là trong thời đại hôm nay, không ai muốn tự mình cô lập
mình, hay nói cách khác, không ai là một hòn đảo, nhưng là chúng ta cùng sống
chung, sống với người khác. Người khác đó không ai khác hơn là những người
chung quanh chúng ta, là người chúng ta tiếp xúc trên đường, trong công sở,
trên công trường.v.v…nhưng có mấy ai trong chúng ta nhìn thấy họ chính là “người
thân cận” của mình ?
Cũng như không một
người phụ nữ nào mà không cảm thấy nhói đau khi nhìn những em bé bất hạnh, tật
nguyền, mồ côi.v.v…tại sao vậy? Thưa, vì khi nhìn thấy những em bé ấy, họ liền
nghĩ ngay đến đứa con của họ, nếu con của họ gặp bất hạnh như những em bé ấy? Hơn
cả những người mẹ ở trần gian, Đức Mẹ Ma-ri-a đã nhìn thấy nhân loại là những
người thân cận của mình, bởi vì Mẹ đã nhìn thấy Con của mình là Đức Chúa Giê-su
Ki-tô nơi nhân loại bất hạnh, mà vì sự dữ, vì tội lỗi đã làm cho họ trở nên đối
nghịch với Thiên Chúa; Mẹ cũng đã nhìn thấy nhân loại là người thân cận của
mình, vì Con của Mẹ đã mang lấy thân phận con người, để trở nên người thân cận
của mọi người, và để chia sẻ những nỗi đau khổ và hạnh phúc của con người qua mọi
thời đại.
Đức Mẹ Ma-ri-a đã
trở nên người thân cận của chúng ta, và Mẹ cũng muốn chúng ta hãy trở nên người
thân cận của nhau trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô.
LỜI KẾT
“Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”
(Lc 10, 37b). “Làm như vậy” tức
là trở nên người thân cận của mọi ngươi; “làm như vậy” tức là cúi xuống nâng đỡ
người bị nạn nằm bên vệ đường đứng lên; “làm như vậy” cũng có nghĩa là nhảy ra
khỏi cái vỏ thành kiến, phá tan cái cung cách đạo mạo xa cách tình người, vượt
khỏi cách giữ lề luật máy móc bên ngoài.v.v… để đến gần người anh em chị em thân
cận, mà không sợ bị “ô nhiễm” đền thờ tráng lệ của Thiên Chúa là tâm hồn của
chính mình.
Thế kỷ 21, không cần
phải thăm dò dư luận, hay làm một bản thống kê dài lê thê để coi con người của
thế kỷ này cần gì, thì người ta cũng dư sức để biết rằng, nhu cầu cần thiết của
con người ở thế kỷ 21 này chính là hòa bình, yêu thương và thông cảm nhau. Nhưng
sẽ không có hoà bình, yêu thương và thông cảm nếu chúng ta không trở thành người
thân cận của nhau. Hãy đi, và hãy làm như vậy, để biết ai là người thân cận của
tôi?
Anh em con đó, con chưa thương
Nói chi đến
Chúa ở thiên đường,
Linh
thiêng, thánh thiện, cao vời vợi
Làm sao với
tới để yêu thương?
Anh em con đó, con chưa thương
Nói chi đến
kẻ bên vệ đường,
Không quen,
không biết, không thân cận
Làm sao cúi
xuống nói yêu thương?
Anh em con đó, con chưa thương
Nói chi đến
kẻ con chán chường,
Ghét cay,
ghét đắng, ghét thậm tệ
Làm sao ôm
lấy để yêu thương?
Anh em con đó, con chưa thương
Nói chi đến
kẻ lỡ lầm đường,
Người
khinh, kẻ tránh, bao tủi nhục
Làm sao
thông cảm để yêu thương?
Bây giờ thì chúng
ta không còn hỏi: “Ai là người thân cận của
tôi” nữa, nhưng mỗi người phải tự hỏi:
“Tôi phải làm gì cho người thân cận của tôi?” để trong cuộc sống đời thường,
chúng ta thật sự trở nên những chứng nhân sống động cho Tin Mừng mà chúng ta đã
nghe, đã biết và đã sống.
Alleluia- Alleluia
*** *** ***
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.