64.
ĐẠT LỖ HOA XÍCH
Thời nhà Nguyên, người Hán không thể đảm nhận những chức
chính quan, nhưng thực quyền đều do người Mông Cổ nắm trong tay, nên các châu
phủ đều thành lập “đạt lỗ hoa xích”[1],
họ không truyền đạt bằng ngôn ngữ, nên khi nói chuyện thì phải dùng đến thông dịch.
Ở Giang Nam có một tăng nhân, điền xã bị cường hào xâm
chiếm nên viết thư tố tụng, các phú hào biết được nên hối lộ cho quan phiên dịch,
Đạt Lỗ Hoa Xích hỏi nhà sư tố tụng chuyện gì ?
Người dịch trả lời:
- “Tăng nhân nói: mấy
cái trời hạn này, lão tăng tình nguyện tự thiêu để cầu mưa, xin giữ lời hứa”.
Đạt Lỗ Hoa Xích phấn khởi tán thành tăng nhân, ra lệnh
đem mẫu đơn để kiện tụng đến. Người phiên dịch lập tức lén thay đổi trình tự của
đơn kiện tụng, Đạt Hoa Lỗ Xích không hiểu chữ Hán, nhưng vẫn cứ làm bộ làm tịch
xem qua một lượt, cầm bút phê:
- “Có thể”.
Tăng nhân không biết là người phiên dịch làm trò láu cá,
nên bị hơn mười người kéo ném vào trong lửa đốt cháy mà chết.
(Cổ
kim tiếu sử)
Suy tư 64 :
Ngôn ngữ là chìa khóa để mở cánh cửa tri thức của con người, nó cũng là
“con mắt” để nhìn thấy thế giới bên ngoài của con người, cho nên nó sẽ là một
“đại họa” cho người không biết chữ trong xã hội hôm nay.
Truyền giáo, trước tiên là phải
biết ngôn ngữ địa phương nơi mà mình đến phục vụ, nếu không nó cũng là một “đại
họa” cho những người truyền giáo. Dù cho chúng ta có trong tay mấy cái văn bằng
tiến sĩ nhưng ngôn ngữ của người địa phương anh không biết nói thì các bằng tiến
sĩ ấy chỉ có...xếp giàn khói, dù cho chúng ta có thông thiên văn giỏi địa lý, mà
chúng ta không hiểu biết ngôn ngữ của của người bản xứ địa phương mà chúng ta đến
truyền giáo thì cũng vô ích...
Truyền giáo trước tiên là nói
rồi đến thực hành nên mới gọi là “ngôn hành”, sau đó thì ngôn hành đi đôi với
nhau gọi là ngôn hành nhất nhất.
Không biết ngôn ngữ thì không
thể truyền đạt giáo lý cho người địa phương, không biết ngôn ngữ thì không thể
diễn đạt những kiến thức mà mình đã học được khi nhận văn bằng tiến sĩ...
Có một vài linh mục đi truyền
giáo nhưng không chuyên tâm soạn bài giảng, cho nên khi giảng bằng ngôn ngữ của
người bản xứ thì họ không hiểu gì cả, hoặc có soạn nhưng vì tự ái mà không nhận
những góp ý của người khác, nên khi giảng thì giống như tra tấn lổ tai người bản
xứ bởi vì họ không hiểu cha chủ tế giảng gì...
Giáo dân người bản xứ rất hiểu
và thông cảm cho các linh mục người ngoại quốc nên họ vui vẻ cố gắng hiểu ý bài
giảng của các ngài, nhưng không phải vì thế mà chúng ta tự hào là đã giảng bài
giảng hay mà không chuẩn bị. Nếu không chuẩn bị bài giảng thì coi như chúng ta
coi thường giáo dân bản xứ, và cuối cùng thì họ có hai cách phản ứng: một là
nói thẳng (góp ý) với các linh mục là nên cố gắng học hỏi, hai là họ bỏ nhà thờ
để đi qua nhà thờ khác dự lễ để nghe giảng dễ dàng hơn...
Khiêm tốn để học hỏi chính là
giảm bớt được một “đại hoạ” cho mình và cho giáo dân nơi địa phương mình truyền
giáo.