Tác
giả
Lm.
Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
TRÒ CHUYỆN
VỚI CÁC BẠN TRẺ
Lời giới thiệu
“Trò chuyện” cũng có nghĩa là…chuyện trò, tức là hai hay nhiều người,
cùng nhau nói chuyện về một tin tức nào
đó đã nghe được, một câu chuyện thời sự nóng hổi của thế giới.
“Trò chuyện với các bạn trẻ” cũng tương tự như thế, chúng ta cùng nhau
trò chuyện qua các vấn đề không phải của thế giới, cũng chẳng phải của người
khác, nhưng là chính của chúng ta – những ngưới bạn trẻ – đây là những vấn đề bức
xúc của mỗi ngày mà chúng ta đều có thể thấy, có thể cảm nghiệm qua cuộc sống đời
thường của mình.
“Trò chuyện” cũng có nghĩa là chia sẻ tâm tư của mình cho một hay nhiều
người nào đó, khi người Trung Quốc (Đài Loan) nói chia sẻ thì cũng có nghĩa là
làm chứng, tức là đem cái mình thấy, cái mình nghe, cái mình biết nói lại cho
người khác nghe.
Xin hân hạnh giời thiệu với các bạn trẻ, là những đối tượng của “Trò
chuyện với các bạn trẻ”.
1. ĂN NGAY Ở LÀNH:
Có nhiều bạn trẻ độc thân, các bạn có chồng người ngoại quốc, có chồng
(vợ) là người ngoại giáo, đã nói với tôi: “Theo
đạo của mình thật là quá mệt, phải đi lễ ngày chủ nhật, phải giữ điều này luật
nọ, thật là rắc rối, cứ như các đạo khác ăn ngay ở lành có khỏe hơn không?”.
“Ăn ngay ở lành” chính là điều mà từ trước muôn đời Thiên Chúa đã muốn
cho chúng ta được như vậy, vũ trụ này, núi non này, biển cả này, các thứ chim
trên trời, cá dưới biển, thú rừng.v.v…không phải Thiên Chúa tạo dựng cho chúng
ta sao? Ngài tạo dựng mọi sự đều tốt lành, mà tốt lành nhất chính là con người,
con người có một giá trị cao cả mà không một loài thụ tạo nào có được. Giá trị
này, được đổi bằng cái chết của Đức Ki-tô – Ngôi – Hai – Thiên – Chúa – làm –
người – đến nỗi tác giả thánh vịnh phải thốt lên:
“Lạy Chúa, con ngưới có là chi
mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân đáng là gì
mà Chúa phải lưu tâm?…”(Tv
143,3)
Nhưng ăn ngay ở lành này đã bị “biến chất” sau khi nguyên tổ chúng ta phạm
tội.
“Ăn ngay ở lành” chính là điều mà Thiên Chúa hằng mong nuốn nơi chúng
ta, nhưng ăn ngay ở lành như những người khác theo cách chúng ta nghĩ mà thôi,
thì cũng chưa đủ “tiêu chuẩn” để vào thiên đàng hưởng phúc đời đời.
Nguyên tổ của chúng ta đã không muốn ăn ngay ở lành, nghĩa là chỉ muốn
mình được như Thiên Chúa, bằng Thiên Chúa mới thỏa lòng, cho nên mới nghe lời
xúi bậy của ma quỷ mà ăn trái cấm. “trái cấm tự nó không là tội, trái lại nó là
một trái cây ngon, đẹp, nhìn là thích ăn ngay. Tội, chính là do lòng người
“thích”, mà khi đã thích rồi thì quên tất cả mọi lời khuyên bảo, mọi lời ngăn cấm,
nói tắt một lời: bất chấp tất cả để được cái mình thích. Và như thế là con người
đã tự mình làm cho Thiên Chúa thất vọng, nghĩa là không còn muốn ăn ngay ở lành
nữa rồi vậy!
Ăn ngay ở lành, chính là làm theo tiếng nói của lương tâm mình, mà tiếng
lương tâm, nói theo con nhà có đạo, có học giáo lý thì là tiếng nói của Thiên
Chúa đặt để trong lòng con người. Thế nhưng có những người, lương tâm của họ
không còn là tiếng nói của Thiên Chúa nữa, vì lương tâm của họ đã quá “dày dạn
phong sương” chai lì, không còn phân biệt được đâu là tiếng nói của Thiên Chúa,
và đâu là tiếng nói của riêng mình. Cứ ăn ngay ở lành cho khỏe tấm thân mà
thôi, xét cho cùng cũng là một ý kiến, nhưng đó không phải là ý kiến cho những người
muốn hưởng phúc đời đời trên thiên đàng với Thiên Chúa. Tại sao vậy?
Thưa, ngoài Đức Mẹ Maria, có ai ăn ngay ở lành như ông Tô-bi-a, có ai đức
tin mạnh mẽ như tổ phụ Áp-ra ham, có ai kính mến Thiên Chúa như ông Gia-cop, hoặc
có ai được Thiên Chúa chúc lành như bà Rutt.v.v…hoặc như những người đạo đức ăn
ngay ở lành khác trong thời cựu ước. Thế nhưng sau khi chết rồi, các đấng ấy có
ai được vào thiên đàng không? Thưa không, bởi vì các ngài còn pải đợi một người
trong hàng con cháu (xét theo tính huyết thống) của các ngài đến trong thế
gian, đem thân mình làm giá cứu chuộc cho nhân loại, hay nói cách khác, chết đi
để cho nhân loại được sống, đó chính là Đức Ki-tô. Đức Ki-tô chính là trung tâm
của lịch sử nhân loại, của quá khứ, hiện tại và tương lai, hay nói cách khác rõ
ràng hơn, Ngài ở “thì hiện tại” (trung tâm, ở giữa) và ơn cúu độ của Ngài thì
cho cả quá khứ và tương lai. Quá khứ tức là từ thuở tạo thiên lập địa, từ thời
các tổ phụ cho đến khi Ngài giáng trần làm người. Hiện tại tức là khi Ngài sinh
ra cho đến khi Ngài lên trời, hoặc là, ngày mai ngày mốt của chúng ta, và kéo
dài cho đến tận thế. Chúa Giê-su đã chết và đã sống lại, xuống ngục tổ tông, mở
cửa ngục ra (nếu ngục tổ tông có khóa như các ngục tù ở trần gian), đem các vị
“ăn ngay ở lành” trong thời cựu ước lên thiên đàng với Ngài. Điều kiện quan trọng
nhất cho việc ăn ngay ở lành được hoàn toàn, đó chính là tin vào Đức Ki-tô là
Thiên Chúa thật và là người thật. Như lời thánh Phaolô tông đồ đã nói: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa,
và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ
được cứu độ”(Rm 10,9).
Chúng ta không sống trong thời cựu ước, cũng chẳng sống trong thời đại của
Chúa Giê-su, nhưng chúng ta đang sống trong thời đại kéo dài của Chúa Giê-su,
nghĩa là chúng ta được hạnh phúc sống trong thời đại được rọi sáng bằng Tin Mừng
và bằng ân sủng của Đức Ki-tô, tức là được ở trong Giáo Hội của Ngài – Giáo Hội
Công Giáo – mà Tin Mừng chính là Lời được ủy thác cho Giáo Hội mời gọi chúng ta
tin vào người Con, thì được sống đời đời.(Ga 3,36a).
Giáo Hội Công Giáo không phải là một tập đoàn kinh doanh dầu khí Shell, ở
đâu có lợi nhuân là “vác cái mặt” tới đầu tư; Giáo Hội cũng chẳng phải là một
công ty Microsoft to lớn, ảnh hưởng đến công việc làm ăn của nhiều người trong
lãnh vực vi tính…Nhưng Giáo Hội là một cộng đoàn lớn, một đại gia đình được thiết
lập trên nền tảng thánh Phê-rô tông đồ: “…Anh
là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,
và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi…”(Mt 16,18). Và nguyên tắc sống của
Giáo Hội chính là: “Anh em hãy yêu thương
nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34). Giáo hội là những người
trên toàn cõi thế giới, đã được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, không phân biệt màu
da, chủng tộc, tiếng nói, nghề nghiệp, giàu nghèo. Giáo Hội được Thiên Chúa
trao cho sứ mạng tụ tập mọi dân tộc trên mặt đất để họ “ăn ngay ở lành” đúng
như ý muốn của Thiên Chúa.
Không ai có thể ăn ngay ở lành đúng như ý muốn của Thiên Chúa được, nếu họ
không được chính Lời của Ngài dẫn soi, đây chính là điều quan trọng trong việc
ăn ngay ở lành, Lời Chúa được Giáo Hội gìn giữ và truyền rao cho mọi người, để “ai tuân giữ lời tôi sẽ không bao giờ chết”(Ga
8,52b). Vậy “ăn ngay ở lành” chính là thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, là
tuân giữ lề luật của Thiên Chúa và của Hội Thánh dạy, là sống bác ái yêu thương
anh chị em như yêu thương bản thân mình vậy! Đó chính là ăn ngay ở lành đẹp
lòng Thiên Chúa nhất.
Có người nói, ăn ngay ở lành là bố thí cho người ngèo, giúp đỡ tiền bạc
cho người neo đơn.v.v…là đủ rồi, Chúa Mẹ cũng dạy như thế mà thôi!
Nhưng bố thí, giúp đỡ thì cũng có nhiều cách, con người ta giúp đỡ kẻ khác thì cũng có nhiều
cách: có người giúp đỡ vì lòng trắc ẩn theo tính tự nhiên của con người; có người
bố thí như thí của, nghĩa là “cho thí”, cho để mà cho để khỏi bị quấy rầy; có
người lúc bố thí thì la to cho mọi người nghe: “Hôm nay tôi không vô mánh nhưng
cũng biếu anh vài ngàn nhậu chơi”. Tất cả các cách cho và bố thí như trên đều
không đẹp lòng Chúa, mặc dù cũng có “mùi vị” ăn ngay ở lành trong đó. Chỉ có những
ai nhìn thấy được Đức Ki-tô ở trong người mình giúp đỡ, hoặc nói rõ hơn, vì họ
là anh chị em của tôi – trong Đức Ki-tô – cho nên khi tôi giúp đỡ anh chị em
tôi, là tôi giúp đỡ và “làm ơn” cho Chúa Ki-tô vậy.
Tham dự thánh lễ, giữ điều này luật nọ, không phải là những điều bó buộc
chúng ta, nhưng trái lại, nó giúp chúng ta “ăn ngay ở lành” cho đúng như ý
Thiên Chúa. Nhưng nếu chúng ta thấy “kham” không nỗi, thì nên chạy đến cùng
Chúa, vì Ngài đã hứa với chúng ta: “Tất cả
những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi
bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng
hiền hậu và khiêm nhường…vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”(Mt 11,28-30).
Ách của Ngài chính là những lề luật của Ngài, của Giáo Hội, là tham dự thánh lễ,
tất cả các ách đó, những người công giáo đều mang, nghe thì nhẹ nhàng, xem ra dễ
dàng, nhưng khó mà thực hành được nếu không có ơn Chúa, có nghĩa là chúng ta đừng
hòng mà tuân giữ nổi, nếu không cầu nguyện để được yêu mến cái “ách” của Ngài,
nhưng những cái “ách” này đều đưa chúng ta đến hạnh phúc đời đời với Thiên
Chúa.
Vì vậy, chúng ta đừng “quảng cáo” “ăn ngay ở lành” như những tôn giáo (đạo)
khác cho chồng (vợ) ngoại đạo của chúng ta, nhưng thành tâm tuân giữ thánh lễ
ngày chủ nhật, thành tâm sống xứng đáng là một người chồng (vợ) có đức tin Công
Giáo, nghĩa là thực hành lời Chúa trong cuộc sống: sống yêu thương chồng (vợ)
con, sống chan hòa tình cảm với người hàng xóm. Như thế, không những chúng ta
trở nên nhà truyền giáo cho chồng (vợ), mà còn chứng minh cho họ biết “ăn ngay ở
lành” của chúng ta là như vậy, là tin vào Đức Ki-tô, Đấng có lời ban sự sống,
là tuân giữ và thực hành Lời của Ngài mọi ngày trong cuộc đời, đó chính là ăn
ngay ở lành rồi vậy./.
2.CHA GIẢNG HAY, CHA GIẢNG DỞ
Có nhiều bạn trẻ không thích các linh mục lớn tuổi giảng, bởi vì các
ngài thường hay giảng dài, giảng dai và giảng không thu hút cho lắm, hơn nữa
các ngài thường “ôn cố quên tân”, tức là các ngài thường hay lấy “sự xưa tích
cũ” không ăn nhằm gì với Lời Chúa, để nói vói lớp người của thời đại vi tính.
Mà lớp trẻ bây giờ thì cần cập nhật hóa Tin Mừng, ứng dụng Tin Mừng vào trong
vi tính, trong trái banh da, trong từng con số khó nuốt trong bài toán cao cấp,
và có khi, họ cũng muốn đem Lời Chúa ứng dụng nơi các siêu thị, mà mỗi ngày
không biết họ tiếp xúc với bao nhiêu là loại người khó tính và vui tính. Tóm lại,
các bạn trẻ thích cha giảng ngắn gọn mà thực tế, dễ dàng áp dụng trong cuộc sống.
Tâm lý các bạn trẻ là như thế
Nhưng, cũng có các linh mục già, lớn tuổi, nhưng tâm hồn của các ngài
thì không già tí nào cả, mỗi lần các vị ấy giảng, thì y như có lửa, làm cho cả
nhà thờ thấp thỏm lo sợ bài giảng của ngài chấm dứt. Có một vị linh mục tuổi đã
ngoài bảy mươi, nhưng khi nghe ngài giảng thì không ai biết là ngài đã lớn tuổi,
cứ mỗi lần cha sở chúng tôi mời ngài đến giảng tĩnh tâm cho họ đạo là nhà thờ đều
chật cứng, bởi vì ai cũng thích nghe ngài giảng, ngài giảng rất hấp dẫn, hùng hồn
và đầy tính thuyết phục. Vậy thì, cha già hay cha trẻ đều có thể giảng hay như
nhau, hay hoặc dở đều do tại lòng mình mà ra cả.
Cha giảng hay, cha giảng dở, đối với chúng ta không quan trọng, nhưng
quan trọng là mỗi người trong chúng ta có khiêm tốn đủ để nghe hay không mà
thôi!
Nếu chúng ta dâng thánh lễ, mà cứ như đi đến trường học, cố gắng học cho
thuộc làu bài giảng của linh mục, để rồi phân tích, phê bình, đánh giá thì bài
giảng của linh mục chẳng giúp ích gì được cho ta cả. Còn nếu chúng ta nghĩ rằng,
tâm hồn chúng ta là những mảnh đất (tốt hay xấu tùy mỗi người) và Lời Chúa là hạt
giống, thì chỉ cần một câu Lời Chúa nghe được nơi bài giảng của linh mục trong
thánh lễ, cũng giúp cho chúng ta ăn ngay ở lành, sống đẹp lòng Thiên Chúa trong
cuộc sống rồi vậy!
Có các bạn trẻ (và cả người lớn) đi dự thánh lễ, khi nghe đọc Phúc Âm
xong, liền ùn ùn kéo ra khỏi nhà thờ ngồi nơi bậc cấp nhà thồ để nói chuyện…thời
sự, hút thuốc hoặc âu yếm ôm nhau, trong nhà thờ cha giảng mặc cha, cha giảng
cha nghe, con cứ nói chuyện ngoài nhà thờ, không ảnh hưởng làm rộn ai cả “huề cả
làng”. Nếu chúng ta – các bạn trẻ – có thái độ như thế khi đi tham dự thánh lễ,
thì: một là chúng ta không hiểu tí gì về thánh lễ và ích lợi của thánh lễ; hai
là chúng ta chẳng có tí gì là lịch sự với Chúa, với linh mục và với cộng đoàn;
ba là chúng ta là những người tội nghiệp nhất vì cái ngu của chúng ta, ngu là
được mời gọi tham dự tiệc cưới Nước Trời, được nếm mùi vị thơm ngon của bánh
trường sinh là Mình và Máu Thánh Chúa Giê-su, mà lại không biết thưởng thức bỏ
đi ra ngoài phòng tiệc, thật đáng tiếc thay và cũng ngu thay!
Bài giảng của linh mục, nếu chúng ta nghe không được hay cho lắm, xét
cho cùng, thì cũng chẳng phải là dở như ta nghĩ, thực ra, chỉ vì các linh mục
có những người có tài lợi khẩu, ăn nói lưu loát, không vấp váp; cũng có các
linh mục ăn nói không được lưu loát lợi khấu cho lắm, nên bị chúng ta cho là giảng
dở mà thôi. Sáu, bảy năm ăn ở tại đại chủng viện, mà các ông bà ta ngày xưa gọi
là trường lý đoán, vì ở đó, các ngài chỉ chuẩn bị duy nhất có một việc, đó là
làm linh mục. Linh mục có nghĩa là người dẫn dắt linh hồn, ngoài các môn học về
triết và thần học, bài giảng cũng là một phần trong chương trình học. Do đó,
khi các ngài giảng, chúng ta đừng cho là lạc đạo để rồi phân tích, phê bình,
nhưng chỉ lo cho chúng ta có lãnh hội được Lời Chúa nơi miệng các ngài hay
không mà thôi.
Cha giảng hay, cha giảng dở cũng là mối bận tâm cho giáo dân nói chung,
và cho các bạn trẻ nói riêng, đành rằng, các linh mục cũng có người khi giảng,
thì đem tất cả tổng luận thần học của thánh Tô-ma mà mình đã học ở trong chủng
viện giảng cho giáo dân, làm cho họ nghe y như là nghe tiếng lạ; đành rằng,
cũng có các linh mục khi giảng thì đem chuyện riêng tư của ai đó ra mà nói cho
cộng đoàn nghe, và cũng có một vài linh mục khi giảng thì nói móc họng giáo dân,
làm cho họ nghe mà thêm xa Chúa. Mặc dù có những linh mục có cá tính đặc biệt
như thế, nhưng đó không phải là chuyện thường xuyên, mà đôi lúc trong việc coi
sóc giáo xứ, các ngài đã bị những con chiên của mình quay lại cắn mình, nên bực
tức, tâm lý bị dao động chút ít, thế thôi. Đó không phải là giảng hay, giảng dở,
nhưng đó là những điều mà chúng ta cần phải thông cảm cho những vị mục tử của
chúng ta, khi chúng ta nghe được như thế trong bài giảng của các ngài.
Vậy thì, thế nào là Cha giảng hay? Có một lần, sau khi tham dự thánh lễ
của buổi tĩnh tâm tại một giáo xứ lớn nọ, vừa ra khỏi nhà thờ, có bạn trẻ đã
nói với tôi: “Chà, hôm nay cha giảng hay
tuyệt”. Tôi hỏi lại: “Hay là sao?” –
“Cha giảng hay quá con chẳng buồn ngủ chút nào!”. Đây chưa phải là cha giảng
hay, mà chỉ là Cha giảng to tiếng, vui nhộn, cho nên không thể ngủ được mà
thôi.
Và thế nào là cha giảng dở ? Sau khi tham dự thánh lễ do một linh mục
giáo sư chủng viện nọ chủ tế và giảng, có một tu sĩ đã thốt lên một câu rất là
không có văn hoá :”Giảng gì mà dở ẹt, lặp
lui lặp tới hoài, tui giảng có lẽ hay hơn”!
Đây không phải là giảng dở, lặp lui lặp tới không phải là giảng dở, mà là
vì chúng ta không lãnh hội nổi ý nghĩa của bài giảng, hoặc là chúng ta nghe mà
cứ tìm những khuyết điểm của bài giảng để phê bình hay dở thì làm sao mà nghe
hay được chứ ? Khi Chúa Giê-su giảng dạy cho dân chúng, ngoài những người nghèo
khó, bệnh tật và người giàu có ra, thì có cả những người biệt phái, các thầy
thông luật cũng đến nghe nữa, chúng ta thử nhìn xem thái độ của họ sau khi nghe
Chúa Giê-su giảng dạy: những người nghèo khó, bệnh tật và cả những người giàu
có (như thu thuế Lêvi, Giakêu lùn…) thì vui vẻ đón nhận lời của Ngài mà không
phê bình, không nói giảng hay giảng dở, nhưng các ông đã thành tâm thiện chí nghe
Chúa Giê-su giảng, và tâm hồn của các ông đã được đổi mới hoàn toàn. Trái lại,
những người biệt phái, những thầy thông luật thì phê bình, bắt bí, hăm doạ Chúa
Giê-su, tại sao vậy ? Thưa là vì họ kiêu ngạo, họ có thành kiến, họ nghe Chúa
giảng mà y như thầy giáo nghe học trò thi vấn đáp, chỉ mong tìm kẻ hở của Chúa mà
bắt bí, mà chê bai này nọ, thì làm sao có thể lãnh hội được hết ý nghĩa cao sâu
của bài giảng chứ ?
Cha giảng hay là khi chúng ta nghe mà cố ý lắng nghe cho được một câu Lời
Chúa trong bài giảng, để đem theo bên mình trong cuộc sống đời thường, để mà sống,
mà thực hành, mà giao lưu với những người mà chúng ta tiếp xúc, gặp gỡ, thì hạt
giống Lời Chúa mà chúng ta nắm bắt trong bài giảng của linh mục, cứ đơm hoa kết
trái, sinh sôi nẩy nở nơi những người khác chung quanh ta, thì mới nói được là
cha giảng hay tuyệt vời.
Còn khi cha giảng mà chúng ta cứ nghĩ rằng, nói gì mà nói hoài nói mãi,
thật nhàm tai. Mà không khiêm tốn nghe giảng, hoặc là nghe mà tỏ ý kiêu ngạo mà
ta đã học qua rồi, hay ít nữa là đã nghe rồi, chán lắm, thì thật là tội nghiệp
cho chúng ta vậy. Bởi vì, hạt giống Lời Chúa không thể nào đâm chồi nẩy lộc nơi
những tâm hồn kêu ngạo. Hơn nữa, bài giảng không phải là một bài diễn thuyết mà
các linh mục tìm cách biện minh luận cứ cho bài thuyết trình. Nhưng, bài giảng
của linh mục là sự cắt nghĩa Phúc Âm vừa nghe đọc, và chia sẻ kinh nghiệm sống
đạo cho mỗi tín hữu của ngài, để qua bài giảng của linh mục, mà các tín hữu hiểu
rõ hơn về Chúa, và đem áp dụng trong đời sống thường ngày của mình.
Tóm lại, cha giảng hay hoặc cha giảng dở, cách chung, không hề tại linh
mục, mà là do tâm hồn và thái độ của chúng ta khi nghe giảng như thế nào mà
thôi. Nếu chúng ta cho rằng cha giảng hay, mà không đem cái hay ấy vào trong cuộc
sống của mình, nghĩa là không thực hành cái hay của bài giảng trong đời thường,
thì đó không phải là bài giảng hay cho chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta nói rằng cha giảng dở, nhưng nếu chúng ta bỏ cái
tôi của mình đi, để chú ý nghe một câu của bài giảng mà thôi, rồi ra về hân
hoan thực hành Lời Chúa mà mình đã nghe được, thì không những là cha giảng hay,
mà chúng ta còn thêm ơn ích bởi bài giảng ấy vậy. Mà ơn ích lớn nhất là chúng
ta tập tành được nhân đức khiêm tốn, là nền tảng của mọi nhân đức, thì lo gì mà
không nên thánh chứ?
3.THÁNH LỄ…ÔM
Chúng ta thường nghe nói cà phê ôm, xe ôm (xe thồ) chứ chưa nghe thánh lễ
ôm bao giờ cả, các bạn đừng hiểu nhầm thánh lễ ôm là vào nhà thờ ôm nhau đâu
nhé.
Thánh lễ ôm mà tôi nói đây, chính là những bạn thanh niên nam nữ (bồ bịch),
khi dự thánh lễ, không vào nhà thờ như những tín hữu khác, mà cùng nhau ngồi
ngoài nhà thờ trên chiếc Honda, chiếc cúp hoặc xin hơn nữa là trên chiếc Dream
II. Họ đi tham dự thánh lễ mà giống như đi hóng mát dưới Thanh Đa – Bình Quới ,
từng cặp từng cặp ngồi ôm nhau trên chiếc xe của mình, gác giò lên nhau, cười
cười nói nói, không kể gì người xung quanh nhìn họ bằng cặp mắt khó chịu, trong
nhà thờ, thánh lễ tới phần nào họ cũng chẳng hay biết. Họ chỉ biết là khi nào
rước lễ là sắp hàng đi lên như những người khác, thế thôi.
Thánh lễ là gì?
Là diễn lại cuộc hy tế của Chúa Giê-su Ki-tô ngày xưa trên thập giá, là
bàn tiệc Nước Trời mà chúng ta được mời gọi tham dự, là thông phần khổ nạn và
phục sinh của Chúa Ki-tô. Vì thế, khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta
đóng vai trò của:
- Đức Mẹ Maria, Mẹ dâng lên
Thiên Chúa Cha, hai của lễ đẹp lòng Ngài: một là dâng chính con mình làm của lễ
hi sinh đền tội cho nhân loại, hai là dâng những đau khổ tự tâm hồn mình, tuy
hai nhưng là một.
Cũng vậy, khi chúng ta đi dâng thánh lễ, là chúng ta đem những lao công
công vất vả trong ngày của mình, những khổ đau trong tâm hồn, đem những tâm
tình vui tươi, hớn hở của mình, hợp với của lễ trên bàn thờ –Đức Ki-tô- dâng
lên Thiên Chúa Cha, để nhờ Đức Ki-tô, mà xin Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta,
tha tội cho chúng ta.
- Chúng ta cũng đóng vai trò của
thánh Gioan Tông đồ, đã gan dạ đứng dưới chân thập giá, chứng kiến cảnh hấp hối
của thầy mình, ông không chạy trốn, không đứng xa xa mà nhìn, cũng không ngồi bên
ngoài như những người qua đường coi cuộc tử hình của một –tội-nhân- vô-tội,
nhưng ông đứng dưới chân thập giá, nghĩa là đứng dưới chân bàn thờ, sát bên, kề
bên.
Chứng có nghĩa là chứng, chứng nhận, Kiến có nghĩa là thấy, nhìn. Vậy chứng
kiến có nghĩa là người làm chứng, mà làm chứng là phải mắt thấy, tai nghe rõ
ràng. Đi dâng thánh lễ, cũng có nghĩa là chúng ta đi làm chứng, làm chứng niềm
tin của chúng ta vào Đức Ki-tô, làm chứng tôi là một người Công Giáo, tôi đang
hiệp nhất với cộng đoàn để dâng thánh lễ.
Thế nhưng, đi dâng thánh lễ mà không vào trong nhà thờ, nghĩa là không đứng
dưới bàn thời thì làm sao mà dâng của lễ được, đi dâng thánh lễ mà không hiệp
thông, không thấy cái gì trên bàn thờ cả, thì làm sao gọi là chứng nhân được chứ?
Đi dâng thánh lễ là chia sẻ Lời Chúa, lời hằng sống, mà không nghe linh mục đọc
Phúc Âm, cũng chẳng nghe ngài giảng, thì sao gọi là dâng thánh lễ được chứ? Đi
dâng thánh lễ là biểu hiện sự hiệp nhất công khai của người công giáo, nhưng đến
nhà thờ mà từng cặp ngồi ôm nhau trên xe…chỉ biết anh và em mà thôi thì sao gọi
là hiệp nhất cộng đoàn được chứ? Hoặc có những cặp nam nữ đi dự lễ, nơi tai
mang một headphone để nghe nhạc, thân hình cựa quậy theo điệu nhạc được phát ra
từ chiếc cassette bỏ túi trên chiếc xe của họ, thì thà rằng chở nhau đi nghe nhạc
nơi quán cà phê máy lạnh, hoặc vào công viên Đầm Sen nghe nhạc sống, nhảy nhạc
pop cho rồi.
Thánh lễ là một bữa tiệc Nước Trời, mà tiệc thì có trò chuyện và ăn uống.
Không ai đi tiệc mà chỉ nói chuyện qua loa rồi đi về mà không ăn uống gì cả; mà
cũng chẳng có ai đi dự tiệc mà vừa tới nơi là ăn uống một lèo, rồi ra về mà
không nói với ai một lời.
Hồi tôi còn giúp xứ cho môt họ đạo nhỏ ở trung tâm Sài gòn, trong một lớp
giáo lý vỡ lòng, sau khi nói cho các em biết sơ qua về những phần quan trọng
trong thánh lễ, tôi liền hỏi một bé gái 11 tuồi: “Thánh lễ có mấy phần quan trọng?”- Em trả lời rất nhanh, gọn mà
thông minh: “Thưa thầy có hai phần, phần
ăn uống và phần nói chuyện!”- Cả lớp cười to lên, tôi cũng không ngờ là em
trả lời dí dỏm như thế.
Đúng thánh lễ là tiệc cưới, nên có phần nói chuyện. Phần nói chuyện hay
trò chuyện cũng thế, tức là chúng ta cùng với Thiên Chúa trò chuyện với nhau,
trước tiên là phần chúng ta nói với Ngài: chúng ta cầu xin Ngài tha thứ tội lỗi
để xứng đáng tham dự tiệc thiên quốc (kinh cáo mình, kinh thương xót), sau đó
chúng ta tôn vinh Thiên Chúa, chúc tụng Thiên Chúa vì Ngài là Đấng đáng chúc tụng
(kinh vinh danh)… Sau đó là phần Thiên Chúa nói với chúng ta: Ngài nói với
chúng ta qua bài cựu ước của các tiên tri, các hiền nhân, và quan trọng nhất
chính là bài Phúc âm, nghe Phúc Âm tức là nghe lời của Đức Ki-tô, nghe lời Ngài
nói, thấy việc Ngài làm và đem lời Ngài thực hành trong cuộc sống.
Thánh lễ là một tiệc cưới thiên quốc, nên cũng có phần ăn uống, nhưng rượu
thịt ở đây không phải là thịt bò bảy món, lẩu dê hay gà rút xương, rượu cũng chẳng
là rượu đế Gò Công, hay của hãng bia rượu Sài Gòn, những thức ăn này ăn hoài
cũng chán, uống nhiều cũng cứ khát. Những rượu thịt mà chúng ta tham dự đây
chính là Mình và Máu Thánh của Chúa Giê-su, là lương thực ban sự sống đời đời
cho những ai ăn và uống thứ bánh rượu ấy: “Tôi
là bánh từ trời hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”(Ga
6,51). Ăn hoài không thấy chán, uống hoài không thấy khát, cho nên không thể
đổi món khác được, mà ở trần gian này làm gì có thứ món ăn nào qua mặt được thứ
lương thự hằng sống này mà đổi chứ, hơn nữa ai dại gì đem của ăn trường sinh đi
đổi của ăn dở khẹt bao giờ chứ !
Tham dự thánh lễ trọn vẹn là tham dự đầy đủ phần phụng vụ Lời Chúa và phụng
vụ Thánh Thể.
Nếu đi dâng thánh lễ mà ngồi xa xa bên ngoài nhà thờ, hoặc cùng ngồi ôm
nhau trên xe để mà dự thánh lễ, thì chẳng được ơn ích gì cả, bởi vì họ không
cùng chia sẻ tấm bánh Chúa Ki-tô, không cùng chia xẻ Lời Chúa, không cùng hiệp
nhất với cộng đoàn, thì làm gì có ơn với ích cho mình?
Nếu chúng ta quan niệm, dự thánh lễ là do tâm hồn mình nhớ đến Chúa là
được rồi, cần gì vào trong nhà thờ mới gọi là dâng thánh lễ ! Có những bạn trẻ
vì một lý do nào đó mà không thích ông cha sở của mình, hoặc giận ông cha sở
quá hách, nên chẳng thèm đi dự thánh lễ, chỉ ở nhà dự thánh lễ qua radio đài
Véritas (đài phát thanh chân lý Á châu), thì chẳng khác chi đi lễ ôm vậy, nhưng
không ôm cô bồ đẹp mà là ôm cái radio nghe thật đã đời. Quan niệm nhớ Chúa Mẹ
trong tâm hồn này cũng đúng đấy, nhưng chỉ đúng cho những người dốt giáo lý, hoặc
cho những người có lương tâm rộng như biển Thái Bình, hay lương tâm phóng túng
cũng thế mà thôi. Những người này tôi tưởng tượng là rất ốm nhom, gầy còm, vì mỗi
lần đến giờ ăn cơm thì chỉ ăn tưởng tượng mà thôi. Mà ăn tưởng tượng thì làm
sao mập tròn béo tốt, xinh tươi cho được chứ, phải không các bạn trẻ, thật tội
nghiệp cho họ.
Thánh lễ ôm, tuy là một hiện tượng chưa phổ biến cho lắm, nhưng nếu
chúng ta không ý thức đủ tầm quan trọng của việc tham dự thánh lễ, thì có nguy
cơ bành trướng nơi các nhà thờ, đặc biệt là các nhà thờ lớn trong thành phố.
Mọi người đều có bổn phận xây dựng sự hiệp nhất của cộng đoàn dân Chúa,
sự hiệp nhất này được biểu lộ ra nơi các ngày lễ chủ nhật và các ngày lễ lớn, và
ngay cả trong thái độ tham dự thánh lễ của mỗi người chúng ta nữa. Vậy, ngay từ
bây giờ, chúng ta nên bắt chước những người Do thái thời các tổ phụ, họ rất vui
mừng khi tiến lên đền thánh của Thiên Chúa:
“Vui chừng nào khi thiên hạ bảo
tôi:
“Ta cùng trẩy lên đền thánh
Chúa!”
Và giờ đây, Giê-ru-sa-lem hỡi,
Cửa nội thành, ta đã dừng
chân. (Tv 122,1-2).
Thật là cảm động và phấn khởi khi nghe hát câu thánh vịnh nầy trong
thánh lễ./
4 GIÁO LÝ – CÓ CẦN KHÔNG ?
Không ai trong các bạn trẻ chúng ta đây là không có học qua giáo lý, tệ
lắm thì cũng tốt nghiệp giáo lý khai tâm, và giáo lý thêm sức chứ?
Vậy thì học giáo lý có cần không?
Đa số các bạn trẻ nói cần học để được rước lễ hoặc để lãnh bí tích thêm
sức mà thôi, ngoài ra chẳng cần học giáo lý làm gì cho mất thời giờ của mình.
Cũng có bạn trẻ nói chỉ cần đi dự thánh lễ nghe cha giảng là đủ rồi, bởi vì thời
buổi bây giờ học giáo lý cũng chẳng thêm ích lợi gì cả, giữ lễ ngày chủ nhật,
sáng tối đọc kinh là hơn cả đi học giáo lý. Nhưng có giữ được như thế không?
Tôi biết tại một họ đạo lớn nọ tại Sài Gòn, có rất nhiều lớp giáo lý, từ
lớp khai tâm cho đến lớp già lão, từ các em có đủ điều kiện đến nhà thờ để học
giáo lý, cho đến các em nghèo hoặc các em bận công việc phụ gia đình, mà ngày
chủ nhật không đến nhà thờ học giáo lý theo giờ nhất định như các bạn khác, thì
đã có đội ngũ các anh chị giáo lý viên đến tận khu xóm vào một ngày trong tuần,
để hướng dẫn giáo lý cho các em. Mọi người đều hưởng ứng phương pháp cực khổ
cho giáo lý viên, nhưng có lợi cho các trẻ em này. Vậy, giáo lý cũng cần lắm, cần
như em bé cần sữa mẹ vậy.
Giáo lý là cụm từ của thời văn minh bây giờ thường dùng, trước đây đi học
giáo lý gọi là học kinh bổn, hoặc đi học lẽ đạo. Học kinh bổn hay học lẽ đạo chỉ
là để giữ đạo cho mình, cho gia đình hay nói cách khác, vì mình là “đạo dòng”,
đạo của ông bà mình để lại, nên phải giữ cho đúng nghĩa hai chữ “đạo dòng”.
Bây giờ người ta gọi học giáo lý là để sống đạo, sống đạo tức là làm cho
cuộc sống của mình trở thành chứng nhân của giáo lý mà mình đã học, đã biết và
đã tin. “Vô tri bất mộ” không biết thì không mến, và làm sao mà mến được nếu
không gặp gỡ, tiếp xúc và quan trọng hơn là nếu không cùng SỐNG.
Hồi nhỏ chúng ta học giáo lý là để rước lễ vỡ lòng, để nhận bí tích thêm
sức, cho nên “vốn” giáo lý của chúng ta chỉ đủ để giữ cho mình khỏi lạc đạo, và
cố gắng giữ những gì mình đã lãnh hội được để khỏi mất linh hồn. Sau công đồng
Vatican II, Giáo Hội thật sự đi vào đời, mỗi một tín hữu đều trở thành men
trong thúng bột của mình, muối cho mình và ánh sáng cho thế gian là làm người
công giáo có đức tin, và làm cho đức tin ngày càng sống động thêm. Bởi vì, như
thánh Gia-cô-bê tông đồ đã nói: “Cũng vậy,
đức tin không có việc làm là đức tin chết”(Gc 2,17). Học giáo lý không có
nghĩa là học một vài điều căn bản để được rước lễ, cũng chẵng phải học cho thuộc
lòng như ăn cháo quyển sách giáo lý rồi ngẩng mặt lên trời, vênh vênh váo váo đấu
lý thần học, cãi bừa giáo lý với cha sở, mà quên mất rằng, những điều ghi chép
trong sách giáo lý ấy là phần gút lại rất ư là ngắn gọn, đễ giáo dân dễ dàng đọc
và học thuộc, còn phần giảng giải, nguồn gốc, lịch sử của nó, thì các vị “thông
giáo lý Tân Định” ấy làm sao qua mặt ông cha sở của mình được chứ?
Học giáo lý, nói cách cụ thể hơn, chính là học cách xử sự của Chúa Giê-su,
học sự khiêm tốn nơi chính Thầy chí thánh của mình, và đem cái đã được học ấy
ra đi và “trình bày cho mọi người thấy. Trình bày ở đây, không phải là triển
lãm hay quảng cáo, bởi vì triển lãm thì người ta chỉ bày ra những cái đẹp nhất,
xịn nhất cho bàn dân thiên hạ coi để nhận được lời khen ngợi của mọi người. Cho
nên việc học giáo lý như thế thì càng quan trọng hơn, quan trọng là vì mỗi người
tín hữu mang trong mình một lệnh truyền của Đức Ki-tô: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi loài
thụ tạo”(Mc16,15). Đi loan báo Tin Mừng tức là đi làm chứng nhân cho Chúa
Ki-tô, nhưng làm chứng thế nào được khi chúng ta không có một chút vốn liếng
giáo lý ! Các bạn có thấy những người đi buôn bán chưa, buôn bán nhỏ thì vốn
ít, càng buôn bán lớn thì càng vốn nhiều. “Vốn” giáo lý của chúng ta như thế
nào, nhiều hay ít và có thể trở thành các chuyên viên đi khắp nẻo dường loan
báo Tin Mừng chưa? “Đi khắp nẻo đường”
nghe có vẻ to tát quá, đồ sộ quá, e rằng chúng ta làm chưa được, nhưng ít nữa
là đem Tin Mừng mà chúng ta đang lĩnh hội, đang sống, đang mang trên mình, loan
báo ngay cho những người chung quanh chúng ta, được quá đi chứ?
Trở lại vấn đề học giáo lý của chúng ta, ngày nay, có rất nhiều bạn trẻ
tham gia các nhóm sống đạo, các nhóm chia sẻ Lời Chúa, nhóm loan báo Tin Mừng,
và rất nhiều nhóm khác nữa. Đó là một niềm phấn khởi cho họ đạo, cho Giáo Hội
và cho mỗi cá nhân chúng ta, đó chính là hoa quả của ý thức vào việc học giáo
lý, và sự trình bày của chúng ta là diễn tả lại cuộc sống của Đức Ki-tô nơi con
người của mình, nơi lời nói và việc làm của mình.
Học giáo lý có cần không? Đối với một số người nào đó, họ cảm thấy mình
có đầy đủ “giáo lý Tân Định”, thì họ tự
cho mình không cần đi học thêm nữa, và như thế họ luôn giữ lấy cái đạo của
mình, giữ lấy có nghĩa là không đem cho ai cả, cho nên họ không dám đem Lời
Chúa đối diện với xã hội. Giữ lấy cũng có nghĩa là đem giáo lý mình đã biết cất
vào trong két sắt của họ và khoá lại, nên cuộc sống của họ chưa phải là men
trong bột, là muối cho thế gian, là ánh sáng cho đời.
Học giáo lý, cũng có nghĩa là đi ra từ cách giữ đạo khép kín theo kiểu
“pháo đài” cố thủ kín đáo của thời trước công đồng chung Vatican II, chúng ta tự
mình phá vỡ cái pháo đài kiên cố ấy, để vươn cánh tay ra phía trước nắm bắt lấy
quả tim của mọi người, và truyền vào đó một nguồn nhiệt huyết tràn đầy tình yêu
thương, nhân ái của Chúa Ki-tô. Học giáo lý, không phải là học một lý thuyết
nào đó của một triết gia, hay chủ trương nào đó của một giáo chủ, mà là học về
phương pháp yêu thương anh chị em như chính mình của một con người, con người
đây chính là Đức Ki-tô, Ngài là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.(Pl
2,7)
Có những tín hữu công giáo, nhưng cuộc sống của họ chưa chứng minh được
họ là người công giáo, bởi vì họ đem “vốn liếng” giáo lý khai tâm, giáo lý thêm
sức của mình cất trong “ngăn đồ cổ” của tâm hồn họ.
Các bạn trẻ công giáo thỏa mãn với số vốn “giáo lý Tân Định căn bản” của
mình thì có hai loại: một là giữ đạo cách cứng nhắc, máy móc và “pháo đài”; hai
là lạnh nhạt với các nghi lễ, thích biện minh về các hành vi tôn giáo “quá trớn”
của mình. Hai loại này đều là hậu quả của quá trình học giáo lý để được rước lễ
vỡ lòng, và nhận bí tích thêm sức rồi thôi, mà không đào sâu, không thích nghe
giảng, cho nên cuộc sống của các bạn trẻ này không biểu lộ được niềm tin sống động
để hấp dẫn mọi người, hoặc nói cách khác, họ không thể làm chứng cho niềm tin của
họ.
Học giáo lý, ba chữ rất cũ mà cũng rất mới, cũ thì dành cho những người
kiêu ngạo luôn thỏa mãn với chính mình. Mới thì dành cho những người khiêm tốn,
họ luôn biết và cho Thánh thần hướng dẫn, đào sâu chân lý ẩn tàng trong số vốn
giáo lý Tân định căn bản của mình. Họ biết cách học giáo lý trong mọi hoàn cảnh:
Học theo các trường lớp của giáo hội, các khóa học giáo lý tại trường lớp của
giáo xứ; học theo nhóm chia xẻ lới Chúa, các nhóm trẻ thiện chí, học trong
thánh lễ lúc nghe giảng phúc âm.v.v.. Khi làm việc nơi công trường, họ biết học
và ứng dụng lời Chúa, họ “thấy gíao lý” nơi bạn đồng nghiệp, nơi công việc đang
làm.v.v…
Như vậy giáo lý rất cần thiết cho chúng ta – các bạn trẻ – bởi vì chúng
ta nhận được lời hứa của Đức Kitô:
“Tôi là ánh sáng thế gian.
Ai theo tôi, sẽ không phải đi
trong bóng tối,
Nhưng sẽ nhận được ánh sáng
đem lại sự sống”(Ga 8,12).
Giữa một xã hội mà các câu lạc bộ nhảy nhót, uong6q1 rượu mọc lên như nấm,
và mỗi đêm có biết bao nhiêu bạn trẻ quay cuồng trong ấy, và nếu có ai đó “dại
dột” mời họ đến nhà thờ học giáo lý, thì chắc chắn là sẽ bị họ cười và “ban tặng”
cho một câu: “đồ ngu” rất là thoải mái.
“Đồ ngu” vì theo họ, học giáo lý quá khô khan, sao bằng vui chơi, nhảy
nhót, rượu chè, dẫn bồ bịch đi nghe nhạc có hay hơn không? Học giáo lý là lỗi
thời, là chuyện của… con nít và của các ông bà lão. Họ không hiểu được câu Chúa
nói: “…vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại
đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được
lối ấy”(Mt 7,13-14). Họ không hiểu cũng đúng thôi, vì họ có học giáo lý đâu mà
hiểu với không hiểu chứ?
.Học giáo lý để biết Chúa.
.Học giáo lý để yêu Chúa.
.Học giáo lý để sống lời Chúa.
.Học giáo lý để trung thành với Chúa.
Và cuối cùng, học giáo lý để trở nên giống Chúa Kitô hơn./.
5.HỌC
a-TRI THỨC
Người Trung Quốc có câu nói rất là ý nghĩa: “Học đến già, sống đến già” Có nghĩa là học hoài,học mãi, học cho đến già,
râu tóc bạc phơ cũng còn học. Mùa thi đại học năm nay (1999) tại Đài Loan, có một
cụ già 84 tuổi, tay xách nách mang…sách đi học với tụi con cháu, được báo chí
coi như mẫu mực của tri thức. Con người ta ai cũng sống đến già thì chết, như
thế cũng có nghĩa là học cho đến chế thì thôi! Đúng là một câu thành ngữ rất có
ấn tượng.
Sực học thì vô cùng, xã hội thì phức tạp, khoa học kỹ thuật thì phát triển
nhanh như phù thủy biến hóa, mà đời người thì có hạn. Vì thế, có người học cả đời
không biết mệt, càng học càng thấy mình chưa học, và thấy mình chưa học thì phải
học, như vậy không phải là họ học cả đời sao? Và cũng có người mới học xong một
vài môn căn bản không đủ để dằn túi mà đi đâu cũng khoe khoang, lòe loẹt với mọi
người rằng mình đã học xong tất cả rồi. Nhưng một tờ báo đọc cũng không hết vài
dòng chữ, và không bao giờ rờ tới một quyển sách nào khác, ngoại trừ duy nhật một quyển sách giáo khoa.
Tại trường đại học tôi có quen biết một vài bạn trẻ, đối với họ, việc học
rất là quan trọng, ngoài việc học chính thức ở nhà trường, họ còn đọc rất nhiều
sách báo. Những giờ nghỉ, họ “ngồi lì” cả ngày trong thư việnb để đọc các tác
phẩm văn chương và sách kỹ thuật, vậy mà họ vẫn cảm thấy mình lạc hậu. Tôi cũng
thấy rất nhiều linh mục, ngoài việc nghiên cứu thánh kinh, soạn bài giảng, các
vị ấy còn đọc những tác phẩm “đời”, vì các vị ấy cho rằng, cần phải cặp nhật
hoá kiến thức mới mong hướng dẫn các “con chiên” có tri thức trong họ đạo của
mình, mà không sợ bị họ nói: “Chuyện này (chuyện của ngoài xã hội) các cha biết
gì mà nói”.
Học không phải là lãnh nhận tấm bằng tốt nghiệp rồi đem nó “gác lên giàn
khói”, rồi thỏa mãn với cái “mảnh giấy vô tri” ấy mà không thèm học hỏi thêm
trong cuộc sống đời thường, không thèm ngó ngàng đến một quyển sách, một tờ
báo, thì coi như mất đi ớ cuộc đời. Đáng tiếc thật!
Cái gì cũng phải học, ở đời cái gì cũng đáng để cho chúng ta học, đừng
nói tôi không có thời gian đến trường để học, đó là một cách học để lấy bằng cấp,
để “coi” trình độ chuyên cần, học lực của người đi học, nhưng cũng có khi chưa
chắc là đúng 100%, bởi vì có nhiều người lúc đi học thì ngồi xe con (loại xe 4
chổ ngồi sang trọng mà các nhà báo hay nói) có tài xế lái, thay vì lái đến trường
học, thì lái “lộn đường” đến nhà hàng, vũ trường, caphê máy lạnh, hát karaoke
gác tay với mấy em. Rồi đến kỳ thi khảo, điểm danh cả nửa ngày mà chẳng thấy mặt
mũi đâu, nhưng cũng có tấm bằng tốt nghiệp loại ưu như ai vậy. Học như thế thì ở
nhà làm vườn để học trồng rau cải, nuôi gà vịt phụ cho vợ con e rằng có ích cho
gia đình và cho nước nhà hơn.
Chúng ta cũng đừng nói là không có thời gian để học. Có rất nhiều bạn trẻ,
sau một ngày làm việc vất vả, tối đến lại cắp sách đến trường học thêm ngoại ngữ,
trau dồi kiến thức, hy sinh những tiệc trà, hy sinh những giờ bên người yêu,
đúng là những mẫu gương đáng để cho chúng ta khâm phục.
Hồi tôi còn ở phân viện dòng tại Việt Nam, cứ mỗi ngày chủ nhật là các
anh em trong dòng được ra các giáo xứ giúp, có giáo xứ mời anh em đến sinh hoạt
cho thiếu nhi, có anh em thì về giúp cho cha bố
của mình. Có một thầy nọ, mỗi lần đi giúp xứ xong trở về nhà khoe với
tôi rằng hôm nay cha Bố cho trăm ngàn đồng xài chơi, lần khác thì cho vài chục
ngàn mua đồ lặt vặt, chứ chưa hề nghe thầy ấy nhắc nhở học hành thế nào, hoặc
khuyên bảo ra sao trong đời sống tu trì của mình, hoặc truyền đạt kinh nghiệm đời
sống linh mục cho mình!!
Trái lại có những cha bố thì không những quan tâm đến việc học, mà luôn
quan tâm đến đời sống tu trì của đứa con mà mình chịu trách nhiệm cho đi tu, dù
nó phục vụ nơi đâu chăng nữa. Tôi may mắn được một vị linh mục đỡ đầu, ngài
đúng là một nhà mô phạm. Trong 13 năm giúp xứ cho ngài, hình như mọi khả năng
tiềm tàng trong tôi đều nhờ ngài mà phát triển, khi giao công việc cho tôi,
ngài không bao giờ thúc ép, không bao giờ kiểm soát, mặc tôi muốn làm như thế
nào đó thì làm, miễn là không sai chủ đề, khônng lạc đạo và tăng thêm sự hiểu
biết cho giáo dân là tốt. Nhưng không phải vì thế mà ngài không quan tâm đến
công việc của tôi làm, cứ mỗi lần tôi “bí”, thì ngài đã chuẩn bị hỗ trợ, hoặc
những lúc mệt quá tôi làm qua loa cho xong, thì ngài nhẹ nhàng chỉ cho tôi những
cái chưa tốt, bởi vì ngài biết tôi chỉ có thể làm tới sức đó mà thôi. Ngài luôn
nhắc nhở tôi phải học, học để làm và làm để học, và cách học đầu tiên của tôi
là đọc báo, và nếu như ngày nào mà tôi không đọc sách hay báo, thì con người
tôi uể oải giống như thiếu càphê vậy. Tôi vẩn còn nhớ mãi câu nói của ngài nói
với tôi: “Cần phải học, không học họ sẽ
khinh”. Họ chính là những người trong giáo xứ đã học xong lớp 12 thời chế độ
trước, rất ngang tàng với trình độ cao-trung của mình. Hôm nay tôi cũng muốn
nói với các bạn trẻ như thế, cần phải học, học như thể chưa bao giờ được đi học,
học cách hăng say, học với mục đích rõ ràng: Phục vụ.
Chúng ta nói là không có thời gian để học, nhưng chúng ta có rất nhiều
thời giờ ngồi lai rai trong quán cà phê hàng tiếng đồng hồ mà không biết chán,
con đường đến trường tuy gần mà xa, nhưng con đường đến vũ trường, quán nhậu tuy
xa mà gần. Thế mới biết, xa hay gần không phải tại không gian, địa hình hay địa
thế, mà chính là tại lòng của ta vậy.
Học để biết, học để thực hành cái mình biết, đem cái học để giúp ích cho
mình, cho gia đình và cho xã hội, chúng ta gọi là thực hành. Học mà không thực
hành thỉ không phát huy được cái hay cái tốt của cái đã học, học và hành thỉ phải
luôn đi với nhau như hình với bóng. Cầm cái văn bằng bác sĩ trong tay mà không
đi thực tập, không thực hành nghề bác sĩ, thì làm sao mà chữa cho người bệnh được,
và chính bản thân cũng không dám tư tin nơi mình nữa, thì sao gọi là bác sĩ
lành nghề được?
Bất kỳ học môn gì, nghề gì, việc gì, cũng đều phải thực hành mới mong
“nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” được. Không ai đến chữa bệnh nơi một bác sĩ
còn non tay nghề, cũng chẳng ai đến nhà người nghèo để vay mượn vàng bạc cả,
nhung người ta chỉ đến chữa bệnh nơi bác sĩ giàu kinh nghiệm, và phó sinh mạng
mình trong tay họ.
Sự học nói mãi không cùng, chỉ mong chúng ta biết lợi dụng thời gian,
hoàn cảnh và mọi phương tiện để học tập, để mở mang kiến thức, thêm tri thức
cho mình và để mình khiêm tốn hơn. Tại sao lại khiêm tốn hơn? Tại vì càng học
càng cảm thấy mình ngu, càng thấy minh cân phải học, thì làm sao mà vênh vênh tự
đắc, kiêu ngạo với anh em mình chứ?
Tôi có tham dự môt buổi lễ tốt nghiệp cho các sinh viên thần học tại viện
Thần học của trường Đại học Phụ nhân ở Đài Loan, trong bài phát biểu của mình,
linh mục viện trưởng (dòng Tên) viện Thần học đã nói: “Sau ba năm học, với những lần thi cử, những lo lắng, những vui buồn,
hình như chúng ta cảm thấy mình hiểu rất ít trong những gì mình đã học được…”
Ngài là một chuyên gia về khoa luân lý (là giáo sư của tôi về môn Luân lý sự sống)
kiến thức thâm sâu, đã khiêm tốn phát biểu như thế để nhắn nhủ các linh mục,
các tu sĩ nam nữ và cả giáo dân, luôn tìm tòi nghiên cứu và phát huy những gì
mình đã gặt hái được tại viện thần học này.
Như vậy, có phải càng học càng cảm thấy mình dốt không chứ?
b- ĐẠO ĐỨC
Học để mở mang kiến thức, thêm tri thức cho mình là một điều may mắn cho
gia đình và cho xã hội. Đây là phương diện tri thức mà ai cũng muốn đạt thành.
Nhưng có một thứ tri thức vượt trên mọi tri thức của con người mà chúng
ta cần phải học, đó là đạo đức. Xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng
tiến bộ vượt bậc, thì đạo đức cần phải đứng vị trí hàng đầu trong mọi lãnh vực.
Người Trung Quốc họ ít dùng chữ “nhân đức” để chỉ về một người có tính hạnh tốt
nào đó, mà họ dùng hai chữ “đạo đức”, khi gặp một người đạo hạnh tốt, họ nói:
anh là người đạo đức, chứ không nói: anh là người nhân đức.
Theo tôi, ngườ đạo đức là người có đầy đủ Nhân, Trí, Dũng. Nhân để biết
tha thứ, bao dung, đó là rộng lượng. Trí để nhìn xa thấy rộng, để biết việc
mình làm, đó là khôn ngoan. Dũng để hành động, bảo vệ lẻ phải, bảo vệ sự bất
bình mà không sợ bị trù dập, gọi là dũng cảm.
Các bạn trẻ thường cho rằng, chỉ có các linh mục, các bà xơ, các thầy
tu, hoặc những người già cả cao niên mới có đạo đức, còn những người trẻ thì
không thể nào luyện tới mức độ đạo đức ấy được ! Các bạn trẻ thường quan niệm rằng,
đạo đức là ngồi “lỳ” cả ngày trong nhà thờ để đọc kinh, đạo đức là không bao giờ
nở một nụ cười với anh em, vì họ phải tạo cho mình một bộ mặt nghiêm nghị như một
nhà mô phạm thứ thiệt. Đó không phải là đạo đức, bởi vì, có nhiều người ngồi lì
cả ngày trước tượng Đức Mẹ Maria trong nhà thờ mà cầu nguyện, nhưng vừa bước ra
khỏi nhà thờ, thì một tay bịt mũi, một tay xua xua người ăn xin trước cổng nhà
thờ, miệng thì nói lẩm bẩm: “Đồ dơ dáy, hôi quá”. Cũng có người làm bộ mặt
nghiêm trang trước công chúng, trước mặt mọi người, nhưng ngồi thật “chăm chỉ”
trước bộ phim sex trong quán cà phê đèn mờ.
Tôi rất phục các bạn trẻ lăn lộn với trẻ em bụi đời, vô gia cư, các bạn
trẻ nhóm Thảo điền, các sinh viên trẻ trong những đợt hè đi về các vùng quê xa
xôi, hẻo lánh, để đem ánh sáng văn minh, đem chữ nghĩa cho những người dân ở
đó, vậy thì, đó có phải là đạo đức không? Đạo đức quá đi chứ!
Nhưng cũng có những người thay vì đem chữ nghĩa cho người khác, thì lại
đi ăn cắp chữ nghĩa của người khác làm của mình. Những năm đầu sau ngày thống
nhất đất nước, có nhiều nhà văn “kiếm hiệp” mọc lên như nấm gặp mưa, họ viết
văn bằng cách cạo các địa danh, tên tuổi của các nhân vật trong truyện, thay
vào một cái tên mới, và đề tên tác giả là tên mình. Lúc tôi còn ở Sài gòn, đọc
báo có biết ông nhạc sĩ T …kiện ông nhạc sĩ W…vì đã ăn cắp nhạc của ông mà in
thành sách, phát hành băng nhạc, mà không chịu “thông qua” ông ta một tiếng. Đó
gọi là ăn cắp bản quyền, đối với các nước văn minh như Mỹ, Pháp…họ có luật báo
chí, luật về bản quyền, thì những chuyện ăn cắp bản quyền như thế sẽ bị kiện
cho đến ngồi tù, sạt nghiệp. Bởi vì,đó là ăn cắp trí tuệ của người khác làm của
mình, sửa đổi một vài địa danh, nhân vật trong truyện, sửa một vài nốt nhạc của
bản nhạc gốc, và đề thật lớn: tác giả Hồ mộng X…Hoặc đề bên trên dòng nhạc: Nhạc
và lời của Trịnh thanh J…như vậy, đố các bạn, đây có phải là đạo đức không? Chắc
chắn là không, bởi vì những người này không có Nhân, không có Trí và cũng chẳng
có Dũng. Nếu họ có Nhân thì họ không đi ăn cắp tri thức của anh em, mà ăn cắp,
tức là chiếm đoạt của người làm của mình. Nếu họ có Trí thì họ sẽ dùng trí tuệ
của mình mà sáng tác bản nhạc mới hay viết tác phẩm hay hơn. Nếu họ có Dũng,
thì họ sẽ dũng cảm thà chịu chết đói chứ không kinh doanh ăn cắp bản quyền, hoặc
dũng cảm chịu thua thiệt anh em bạn bè vì mình không thể làm hay hơn họ được.
Học cao, kiến thức nhiều, mà không có đạo đức thì sẽ gây đau khổ cho gia
đình, cho xã hội, người ta thường gọi hạng người này là gian hùng. Nhưng nếu có
đạo đức mà không có tri thức, thì chỉ bảo vệ được thân mình mà thôi, chứ không
giúp ích được cho ai gì cả.
Muốn có tri thức thì cần phải học, và mhuốn có đạo đức thì không những
phải học tập mà còn phải thực tập và sống nữa. Chúng ta có thể nói: tri thức và
đạo đức như xác và hồn, nó cần phải tồn tại trong con người chúng ta. Như thức
ăn và nước uống mà mỗi ngày chúng ta cần phải dùng để được tăng thêm sức khoẻ
và để sống mạnh.
Đài Loan là một đảo quốc theo chủ nghĩa “Tam dân” của nhà cách mạng Tôn Trung Sơn: Dân tộc, dân
sinh, dân quyền, và quyết chí đạt cho được “tam dân” này, và họ đã đạt được, giờ
đây họ đã trở thành một đảo quốc rất giàu có, rất tri thức, họ có đày đủ “tam
dân”, phát triển “tam dân” mà không có nền tảng là đạo đức để nâng đỡ “tam dân”
ấy, hậu quả là gì? Coi tin tức trên tivi, không giết người thì cũng cướp của,
chính phủ lên tiếng báo động về đạo đức xuống cấp trầm trọng, cần phải làm lại
từ đầu, nhưng làm thế nào được, 100 kênh truyền hình liên tục phát mỗi ngày
24/24 đủ thứ phim dâm loạn, chết chóc, cướp của, giết người, mà ai coi cũng được,
không hạn chế tuổi tác. Chỉ cần đóng tiền (rất rẽ) cho công ty truyền hình bắt
một sợi dây cáp vào TV thì tha hồ mà coi. Coi các chương trình vui chơi của các
nghệ sĩ thì quái đản hơn nữa, tục tỉu chịu không nỗi…Nhưng đối với họ, thì là
giải trí văn minh kiểu Mỹ. Theo thống kê của bộ y tế Đài Loan năm 1996, thì mỗi
ngày có khoảng 36 ngàn vụ phá thai trên toàn quốc. Các ông nghị viên thì cãi
nhau, có nên cho phép phá thai vào tháng 9 hay không? Tại sao là tháng 9 mà
không phải là những tháng khác? Bởi vì tháng 9 là tháng tựu trường, mọi học
sinh, sinh viên đều đến trường, mà trong 3 tháng hè, các cô cậu du hí với nhau,
có bầu thì phá bỏ để đi học chứ; có cô học sinh, sinh viên nào dám mang cái…trống
phía trước mà đi học và có nhà nào dám nhận con dâu miệng còn hôi sữa? Rất giàu
có, rất tri thức, rất dân chủ, nhưng không có căn bản đạo đức thì xã hội sẽ đảo
lộn tùng phèo, gia đình chẳng còn kỷ cương gì cả.
Người có đạo đức thì như cây cao bóng mát, ai cũng thích ngồi dưới gốc của
nó mà nghỉ ngơi, hóng mát, sau khi làm việc mệt nhọc. Người không có đạo đức
thì như gai nhọn, chẳng giúp ích gì cho xã hội, ai thấy cũng phải tránh.
Đạo đức là nền tảng của hoà bình.
Tri thức là chim bồ câu trắng trên nền tảng ấy./.
6. CẦU NGUYỆN
Ít có bạn trẻ cầu nguyện lâu giờ trước Thánh Thể, và có rất ít bạn trẻ
mê say cầu nguyện đến nỗi quên cả người chung quanh.
Nhưng tôi thấy rất nhiều cụ già cầu nguyện lâu giờ trước bàn thờ Đức Mẹ,
trước bàn thờ thánh cả Giu-se, và tôi cũng đã từng quan sát một phụ nữ cầu nguyện
hơn cả tiếng đồng hồ trước tượng đài thánh Martin de Porres trong nhà thờ Huyện
sĩ, quận I – Tp Sài gòn.
Cầu nguyện không phải giải thích cho dài dòng, vì ai cũng hiểu cầu nguyện
là nói chuyện với Chúa, thật đơn giản biết bao. Nói chuyện với Chúa là một diễm
phúc, một hạnh phúc vô cùng to lớn, thế thì tại sao chúng ta lại tỏ ra dè xẻn
thời giờ khi nói chuyện với Chúa thế? Nếu chúng ta chỉ hiểu: cầu nguyện là nói
chuyện với Chúa, thì không lạ gì chúng ta dành cho Ngài rất ít thời gian, bởi
vì chúng ta cứ nghĩ như thế này: Chúa Mẹ là đấng thiêng liêng, thông hiểu mọi sự,
nói ít các Ngài cũng biết, nói chi cho nhiều mất giờ. Vâng, tôi rất đồng ý với
các bạn trẻ về điều này, nhưng chúng ta quên mất một điều: trong khi cầu nguyện
cần phải kiên trì, nhẫn nại, phục tùng thánh ý Chúa, không phải Thiên Chúa muốn
“làm eo” với chúng ta đâu, mà chính chúng ta làm eo với Ngài đấy, chúng ta coi
Ngài như một thư ký luôn biết ý ông chủ để mà làm việc này nọ, cho nên, khi cầu
nguyện, chúng ta nói với Thiên Chúa rằng: Lạy Chúa, con cần một chiếc xe dream
II; lạy Chúa con muốn lấy cô ấy làm vợ nhưng sao cô ta khó quá, xin Chúa giúp con,
rồi nghĩ rằng, Chúa biết mọi sự và không thèm cầu nguyện nữa. Như vậy thì đâu
có phải là cầu nguỵên, mà là ông chủ ra lệnh cho cô thư ký đấy.
Có người nói: cầu nguyện là kết hợp với Chúa; có người nói: cầu nguyện
là tôn vinh Chúa, tạ ơn Chúa, và cầu xin Chúa ban ơn lành cho mình, ai nói cũng
đúng cả, chỉ thiếu một điểm nhỏ mà quan trọng, đó là: Cầu nguyện là chấp nhận
và xin vâng theo thánh ý Chúa. Tại sao vậy, bởi vì trước hết là Đức Trinh nữ
Maria đã cầu nguyện và đã thưa “Vâng, tôi
đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,38).
Và sau hết, trong vườn cây dầu, Chúa Giê-su đã cầu nguyện, và Ngài cũng đã
nói: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén nầy
rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin vâng theo ý Cha.”(Mt 26,39).
Có phải Đức Maria và Chúa Giê-su đã cầu nguyện và đã xin vâng theo ý Cha
trên trời không? Thưa vâng.
Cầu nguyện, vâng, chỉ có cầu nguyện với tâm tình yêu mến và xin vâng mới
đẹp lòng Thiên Chúa, mới có sức mạnh để kéo ơn Chúa xuống trên chúng ta. Cầu
nguyện là hơi thở, là dưỡng khí làm cho tâm hồn của chúng ta ngày càng khỏe mạnh,
tiến triển trên con đường thánh thiện.
Cầu nguyện là một sức mạnh bí mật không ai hiểu nỗi sự bí nhiệm của nó,
chỉ có những ai thâm tín như các thánh, hay nói cách phàm tục hơn một chút, chỉ
có ai đã yêu, mới hiểu được sự bí nhiệm của sự cầu nguyện, bí nhiệm đây chính
là tình yêu. Cầu nguyện cũng có nghĩa là tìm hiểu ý muốn của người yêu (Thiên
Chúa), không yêu thì không thể nào nhìn thấy cái khuyết điểm của anh em mà
thông cảm, mà nhắc nhở. Khi cầu nguyện là chúng ta đem cái xấu, cái bất lực,
cái thiếu thốn của mình mà “báo cáo” cho Chúa nghe với tất cả yêu thương và xác
tín. Và Thiên Chúa, Ngài cũng đem yêu thương đáp trả, lắng nghe và… im lặng.
Đây không phải là sự im lặng đáng sợ của cửa quan, của người có quyền, mà là im
lặng của tình yêu.
Khi yêu nhau người ta không nói nhiều lời, họ chỉ nói ngằn gọn ba chữ:
Anh yêu em hoặc em yêu anh, là đủ rồi, và im lặng. Im lặng để nghe nhịp đập của
con tim, mà con tim là biểu hiện của tình yêu.
Cầu nguyện là hiệu quả của tình yêu, không yêu, không ai thèm nhiều lời
với nhau, chỉ có đấu võ miệng với nhau thì có. Cầu nguyện cũng là cách tỏ tình
với Chúa, mặc dù, Ngài đã biết chúng ta sẽ nói như thế nào rồi. Như người tình
mong mỏi bạn mình nói lên những lời âu yếm, yêu thương, mặc dù cũng chỉ bấy
nhiêu lời mà thôi. Chúa Giêsu vẫn thích chúng ta nói chuyện với Ngài, xin với
Ngài những gì mình muốn, bởi vì, như Ngài nói:
“Cho đến nay
anh em đã chẳng xin gì nhân
danh Thầy.
Cứ xin đi, anh em sẽ được,
Để niềm vui của anh em nên trọn
vẹn” (Ga 16,24)
Như vậy, cầu nguyện không phải là việc khó khăn gì cho lắm mà không làm
được, cái khó chính là chúng ta có yêu thích sự cầu nguyện không mà thôi. Cầu
nguyện, đối với các linh mục, các tu sĩ, các bà xơ dì phước đều là bổn phận và
nhiệm vụ hàng đầu của họ, khỏi bàn tới. Nhưng đối với các bạn trẻ chúng ta, cầu
nguyện chính là nguồn an ủi khi cô đơn, là sức mạnh khi yếu đuối, là hy vọng những
khi thất vọng ê chề, là niềm tin tưởng trong cuộc đời đầu những lo âu và chán
chường.
Cầu nguyện là chúng ta “bắt” Chúa đi với mình, ở với mình và làm việc với
mình, tắt một lời là chia sẻ những vui buồn, khốn khó hạnh phúc với mình. Nếu
chúng ta yêu Chúa nhiều, nếu chúng ta thấy sự cầu nguyện là cần thiết cho đời sống
của mình thì cầu nguyện dài lâu, hay cầu nguyện ngắn chút chút đều không ăn nhằm
gì cả, chỉ cần chúng ta có một đức tin, một tình yêu mến Chúa, và một sự phó
thác tin tưởng – như em bé tin vào bố mẹ – trong khi cầu nguyện thì đủ rồi.
Phải cầu nguyện lúc nào?
Phải cầu nguyện luôn, cầu nguyện không ngừng, bởi cầu nguyện là hơi thở,
mà chúng ta không thở thì phải chết. Nếu chúng ta không cầu nguyện, thì coi như
đời sống tâm linh của chúng ta chết rồi vậy.
Cầu nguyện trong thánh lễ,
Cầu nguyện nơi học đường,
Cầu nguyện khi vui chơi,
Cầu nguyện khi ăn, uống,
Cầu nguyện khi làm việc.
Mọi nơi và mọi lúc, chúng ta đều có thể cầu nguyện với Chúa, dù cha sở
đóng cửa nhà thờ vì hết giờ hành chánh, dù đến nhà thờ trể vì vừa tan ca làm việc,
dù mưa to, dù bão lụt, dù nắng cháy khét trên công trường, chúng ta cũng có thể
cầu nguyện được. Bởi vì có Chúa ở trong ta, và ta ở trong Chúa, thì có gì mà phải
sợ chứ?
7 TÌNH YÊU
Hồi còn ở đại học, các cô cậu sinh viên thường hay hỏi tôi về người yêu
của họ, các bạn trẻ ấy làm như tôi là chuyên gia cố vấn về chuyện này không bằng!
Tại sao các cô cậu thường hay hỏi về người yêu của mình chứ? Bởi vì
chính họ cũng không tự tin cho lắm khi chọn người yêu. Nhưng họ chỉ hỏi tôi:
người yêu của con thầy coi có được không? Hoặc là hỏi: anh ta giàu lắm, chịu
chơi lắm, nhưng rất yêu con, thầy thấy thế nào?… … và rất nhiều câu hỏi khác nhức
óc nữa. Nhưng chẳng có một cô cậu nào hỏi đúng trọng tâm của vấn đề: Đây có phải
là tình yêu không?
“Đây có phải là tình yêu không?”, đố ai biết được đó có phải là tình yêu
không chứ, người trong cuộc mà cũng không biết được thì người ngoài cuộc làm
sao mà biết được ? chỉ có cách đừng yêu nữa để khỏi lo lắng, khỏi bận tâm yêu,
và để thời gian mà học hành, có khỏe hơn không?
Các chuyên gia về tâm lý đã phân tích nhiều về quá trình “đường đi nước
bước” của tình yêu, các chuyên viên cố vấn về tình yêu cũng đã giải gỡ cho rất
nhiều chuyện tình yêu éo le, ly kỳ, lâm ly bi đát, nhưng chính họ cũng có lúc
lúng túng trước vấn đề rất xưa, nhưng cũng rất mới và rất tế nhị này.
Người ta định nghĩa rất nhiều về tình yêu, người ta giải thích rất hay về
tình yêu, người ta ca tụng rất nhiều về tình yêu. Đố các bạn trẻ tại sao như vậy,
dễ ợt à, bởi vì tình yêu làm cho chúng ta đau khổ, người ta càng đau khổ càng ca
tụng tình yêu, càng đau khổ, người ta càng thấy tình yêu là tuyệt vời, rất tuyệt
vời nữa là khác, kì cục và kì diệu thật.
Yêu, đồng nghĩa với hy sinh.
Khi tôi yêu, là tôi chấp nhận không còn là mình nữa, mà hoà lẫn trong
người tình của tôi, chàng (nàng) vui, tôi vui, chàng (nàng) buồn, tôi cũng thấy
nỗi buồn ấy là của tôi. Chấp nhận hy sinh chính mình là làm cho người mình yêu
nổi bật lên, mặc dù người yêu của tôi có rất nhiều khuyết điểm, và khuyết điểm
này có lúc làm cho tâm hồn tôi đau đớn hơn cả lúc bị người yêu giận dỗi, nhưng
vì yêu, tôi đón nhận món quà tình yêu của người yêu ban tặng, đó đúng là tình
yêu thật sự.
Yêu cũng là chết đi.
Chết ở trong tình yêu, chính là quên đi mức độ yêu thương của mình dành
cho người mình yêu, là tan biến trong giới hạn của ngôn ngữ, của vật chất.
Chết đi cũng có nghĩa là không đem tình yêu của mình so sánh với tình
yêu của người mình yêu, để coi ai là người yêu nhiều nhất, nhưng đem mức độ
tình yêu của mình, biến thành ánh sáng chiếu vào tình yêu, để cho viên-ngọc-tình-yêu
của người mình yêu được sáng lên, long lanh lấp lánh với vô vàn tia sáng kỳ diệu.
“Đường” vào tình yêu có rất nhiều ngõ, ngõ sắc đẹp, ngõ giàu có, ngõ
duyên dáng, ngõ đẹp trai, ngõ tài cao, ngõ chịu chơi và thậm chí có ngõ..du
côn, tất cả những ngõ ấy đều luôn mở cửa, và tùy “tuýp” người mà chọn. Các cô
gái thời nay thường chọn ngõ gìu có, có cô thì lãng mạn hơn, chọn ngõ chịu
chơi, ngõ du côn… …còn các chàng trai thì hầu hết đều chọn ngõ sắc đẹp, bởi vậy
mới có câu: trai tài gái sắc.
Nhưng tất cả các ngõ ấy đều không phải là tình yêu, càng không phải là
tình yêu khi chỉ nhìn thấy dáng vẻ bên ngoài ấy, rồi mê say mê đắm và tuyên bố
với đối tượng rằng: Anh (em) rất yêu em (anh). Nhưng nếu không được lời đáp trả
thì bảo đảm với các bạn trẻ là, chỉ trong vài ngày, “anh rất yêu em” sẽ trở
thành: đồ làm phách, thấy mà chán, cho mà coi!
Thánh Phaolô tông đồ đã khuyên nhủ với các ông chồng (và cũng là khuyên
bảo với các bạn trai) rằng: “Người làm chồng
hãy yêu thương vợ mình, như chính Đức Kitô yêu thương hội thánh và hiến mình vì
hội thánh” (Ep 5,25). Chúa Kitô yêu thương hội thánh đến mức độ nào, thì
thánh Phaolô đã nói, nhưng có hai điểm mà chúng ta –các-bạn-trẻ- cần lưu ý và học
hỏi để tình yêu của mình được tốt đẹp như ý của Chúa.
1/- Chúa Kitô yêu mà không cần điều kiện, Ngài không có quan niệm yêu là
cùng nhìn về một hướng, bởi vì khi Ngài yêu chúng ta, thì chúng ta đâu có cùng
nhìn về một hướng với Ngài. Trái lại, chúng ta nhìn đủ thứ hướng. Mà hướng nào
cũng “chọi” lại sự thánh thiện của Ngài, vậy mà Ngài vẫn yêu thương chúng ta.
Ngài yêu ngay khi chúng ta là những người tội lỗi (Rm 5,8), để nhờ tình yêu của
Ngài, chúng ta được thánh hóa, chúng ta được cứu rỗi.
Cũng vậy, trong tình yêu, chúng ta cũng đừng tìm cho được người “cùng
nhìn về một hướng” như mình, bởi vì: Một, “cùng nhìn về một hướng”, một hướng
đây có phải là hạnh phúc không, mà nếu là hạnh phúc, thì trên thế gian này, ai
cũng mong muốn được hạnh phúc khi kết hôn, vậy thì mọi người ai cũng đều là người
cùng hướng với mình cả, cần gì phải chọn cho mệt óc! Hai, nếu nói “cùng nhìn về
một hướng”, hướng đây là sở thích, sở thích như mình thích thì chẳng còn chi là
thú vị nữa, hơn nữa, cùng sở thích chẳng qua chỉ là để vui thú, giải trí nhất
thời thì chóng qua, dễ nhàm chán và đơn điệu…
Nếu người yêu không cùng hướng với mình, thì đó là cơ hội để cho mình chứng
tỏ tình yêu trung thành, và thăng tiến người yêu theo “hướng” của mình. “Hướng”
mà tôi nói ở đây, chính là những khuyết điểm, những cái “tật” nho nhỏ của người
mình yêu mà mình không hài lòng mấy. Đem tình yêu của mình hướng cái khuyết điểm,
cái tật nho nhỏ ấy trở thành những đức tính khả ái, dịu dàng, lịch sự, thì lo
gì mà không có hạnh phúc?
2)-Như đã nói ở trên, yêu là hy sinh, Chúa Kitô đã nêu gương trước, Ngài
vì yêu chúng ta và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Hy sinh đến chết, đó là mức
độ cao nhất của tình yêu, con người ta chỉ có thể hy sinh vật chất khi yêu, rất
ít người hy sinh mạng sống của mình (chỉ có các thánh), và đôi lúc, dùng hy
sinh giả tạo để chiếm đoạt tình yêu, hy sinh giả tạo là dùng “con tép bắt
con…người”, nghĩa là chịu “hy sinh” một đêm nhậu vài trăm đô la, chịu “hy sinh”
một chiếc dream II để câu-một-tình-yêu, mà không bao giờ biết thông cảm cho
tình yêu ấy, hoặc chưa hề nhường nhịn hoặc thăng tiến tình yêu “câu” ấy, cũng
có nghĩa là họ chỉ thấy cái “hy sinh to lớn” của họ hơn tình yêu của người yêu.
Bởi vì tình yêu ấy được câu bằng hy sinh giả tạo, cho nên, tình yêu này cũng sẽ
khô héo theo thời gian tróc nước sơn của chiếc dream II.
Hồi tôi còn giúp xứ tại một họ đạo nhỏ ở trung tâm Sài gòn trong mười ba
năm, tôi đã dạy giáo lý cho rất nhiều đôi hôn phối, trẻ có, già có và có cả
“đôi vợ chồng trẻ thiếu niên” chồng mười tám tuổi và vợ chưa tời mười sáu tuổi.
Trong những cặp vợ chồng này, có những đôi khác đạo, có những đôi theo đạo, có
đô thì hứa sẽ theo đạo sau khi làm đám cưới. Trước khi học giáo lý hôn nhân,
tôi thường hỏi đùa họ: “Tại sao anh chị
yêu nhau”- Và có rất nhiều câu trả lời khác nhau, nhưng tôi để ý nhất là
câu trả lời của một ông chồng trẻ: “Thầy
coi cô ấy như thế thì làm sao không yêu được cho”- Tôi trả lời: “Tôi chẳng thấy gì cả”- Ông chồng trẻ ấy
nói tiếp: “Cô ấy hy sinh cho con rất nhiều”.
Và nhũng lần dạy giáo lý sau đó, tôi mới thật sự nghe được cái “hy sinh” của
cô gái: cô đã quên mất mình là thiên kim tiểu thơ, được giáo dục rất tốt; cô
cũng đã quên mất mình là người rất nguyên tắc, rất ghét những thói hư tật xấu,
vật mà cô ta lại yêu một anh chàng có đủ “thói hư tật xấu” ấy mới chết chứ,
đúng là ghét của nào trời trao của ấy. Nhưng chính cô ta đã hy sinh tất cả, đã
đem tất cả khả năng nhạy bén của mình mà “hướng” anh ta đi theo hướng của mình,
thật không dễ dàng, nhưng tình yêu chân thật của cô ta đã được đền bù xứng
đáng, anh ta trở nên một người tốt, và đã trở thành một Kitô hữu, tôi cũng tin
chắc anh ta là một Kitô hữu tốt. Đúng là trong tình yêu, chỉ có sự hy sinh chân
thật mới có một tình yêu chân thật.
Tất cả mọi tình yêu ở trần gian này, tình yêu của bố mẹ dành cho con
cái, tình bạn hữu, tình yêu vợ chồng, hay mọi thứ tình yêu chân chính khác đều
quy về Thiên Chúa, hay nói cách khác, từ Thiên Chúa mà ra và phản ảnh lại tình
yêu của Ngài, vì Thiên Chúa là tình yêu (Ga 4,8) Thánh Phao lô tông đồ không
khuyên bố mẹ hãy yêu con cái như Thiên Chúa yêu Hội Thánh, bởi vì tình yêu phụ
tử là tình yêu tự nhiên, bố mẹ nào mà lại không yêu thương con cái của mình? Nếu
bố mẹ không thương yêu con cái thì là ngược với tự nhiên, là chống lại Thiên
Chúa, là bá đạo, là ác ôn. Thế nhưng, thánh Phao Lô chỉ khuyên những ông chồng
hãy thương yêu vợ mình, vì trước khi nên vợ chồng, thì họ đều là hai kẻ xa lạ,
xa lạ mà ăn đời ở kiếp với nhau thì thật là anh hùng, nhưng cũng có lúc họ trở
thành người nhát gan, vì họ đã chửi nhau, cấu xé nhau, làm khổ nhau và cuối
cùng thì đào ngũ, tức là li dị. Do đó mà thánh Phaolô phải khuyên bảo như thế.
Vậy thì, khi yêu các bạn trẻ khoan hỏi ai về việc: “đây có phải là tình
yêu không?”, nhưng trước hết hãy hỏi lòng mình: “Tôi có dám hy sinh, dám tự
mình chết đi, để những khuyết điểm của người tôi yêu được đổi mới chăng?”
Và sau đó, thảnh thơi, hân hoan giang tay ôm một tình-yêu-đầy-khuyết-điểm
vào lòng, và dùng tình yêu chân thật, rộng lượng, bao dung của mình, mà bao
tròn tình yêu đầy khuyết điểm ấy, để vui cùng vui, khổ cùng khổ với người mình
yêu, đó gọi là chia ngọt xẻ bùi trong tình yêu ấy mà. Chẳng có gì là mới cả, chỉ
là chuyện tình yêu xưa như trái đất, nhưng rất mới, như mới có…tình yêu vậy.
Chúc các bạn hiểu được thế nào là tình yêu chân thật, và khi hiểu rồi,
thì là hạnh phúc vậy, khỏi chúc “hạnh phúc” làm gì nữ vì các bạn đã có rồi vậy./.
8. ĐỂ GIA ĐÌNH CÓ HẠNH PHÚC
Đặc biệt là tìm hạnh phúc trong gia đình, hoặc nói: làm sao để có gia
đình hạnh phúc, cũng thế thôi. Con người ta ai cũng muốn sống hạnh phúc, ai
cũng muốn có hạnh phúc, mà gia đình hạnh phúc thì tuyệt vời hơn tất cả mọi sự
trên thế gian này, nhưng làm thế nào để có hạnh phúc chứ?
Hạnh phúc có rất nhiều định nghĩa: đối với người nghèo, thì hạnh phúc của
họ chính là có tiền, có cơm ăn ngày hai bữa, có áo có quần mặc là đủ rồi; hạnh
phúc đối với người giàu có thì muốn có nhiều tiền hơn, có quyền hơn; đối với
các bạn trẻ thì hạnh phúc là có một nghề nghiệp ổn định, có tiền để tiêu xài,
và có một cô bồ dễ thương, xinh xắn là nhất trên đời. Và những mơ ước hạnh phúc
khác mà con người muốn mơ ước trong cuộc sống hiện tại.
Nhưng tất cả những điều ấy không phải là hạnh phúc, bởi có tiền thì muốn
có tiền nhiều hơn, có tiền nhiều hơn thì ăn không ngon miệng, ngủ không ngon giấc,
vì sợ…kẻ trộm, mà sống trong lo sợ thì làm gì có hạnh phúc cơ chứ? Và các bạn
trẻ đã có người yêu thì ngày đêm đều sống trong nỗi lo, lo bị mất việc, lo bị bồ
giận, lo bị bồ đá, lo đủ thứ. Như thế thì làm sao mà có hạnh phúc được.
Hạnh phúc, không phải tự trên trời rơi xuống cho mình hưởng, cũng chẳng phải
ai cho mình cả, nhưng chính là do mình tự tạo lấy hạnh phúc cho mình (các nhà cố
vấn, các chuyên gia về gia đình, cũng chỉ đưa ra các phương pháp, những lời
khuyên mà thôi). Và khi đã có hạnh phúc rồi thì làm thế nào mà giữ được nó?
Thiên chúa đã tạo dựng nên Adong, đặt ông ở trong vườn địa đàng, tức là
vườn hạnh phúc, Ngài đã ban cho ông một tình yêu (bà Eva), đã ban cho ông mọi
thứ cần dùng trong cuộc sống như ăn, uống mà không phải làm lụng ngày tám tiếng
đồng hồ nơi công xưởng, nơi nhà máy chi cho mệt, Ngài cũng đã ban cho ông mọi
thứ trong vườn làm sở hữu của mình, ban cho ông quyền cai quản vũ trụ. Tóm lại
là Thiên chúa đã ban cho ông vật chất (có đủ mọi thứ cần dùng), danh vị (làm
con người ) và quyền lực (trên mọi loài ở mặt đất), để ông được hạnh phúc, và hạnh
phúc nhất là được sống mãi với Thiên chúa.
Nhưng ông Adong đã đánh mất tất cả hạnh phúc ấy (lý do tại sao khỏi cần
nói lại, vì ai cũng biết). Nguyên tổ đã đánh mất hạnh phúc thì con cháu bây giờ
và mãi mãi sau này đều đi tìm hạnh phúc ấy.
Mà cái hạnh phúc lớn nhất theo tôi chính là gia đình.
Người ta thường nói gia đình là nhà trường đầu tiên, là nơi đào tạo con
người; người ta cũng thường quan niệm, gia đình là cái mắt xích liên kết xã hội
thành một khối đoàn kết. Nếu gia đình không có kỷ cương, không có một nền giáo
dục tốt, thì sẽ sản sinh ra một thế hệ trẻ không có đạo đức, gây nguy hại cho
xã hội, mà con cái trong gia đình được giáo dục tốt thế nào được khi mà bố mẹ
“cơm không lành canh không ngọt”.
Mấy năm trở lại đây, tại Sài Gòn báo chí đã đăng nhiều tin tức, những phần
tử tội phạm thiếu niên, thanh niên đều là những đức con nhà giàu có, con cán bộ
cao cấp, tất nhiên chúng nó có rất nhiều tiền và cũng rất …túng tiền. Nhiều tiền
là vì cha mẹ có rất nhiều tiền cho chúng nó xài quen rồi, đến khi không có tiền
nữa thì đi giựt dây chuyền của người đi đường, đi ăn cắp để hút, để chích
choác, để ăn nhậu, để bao gái, đó không phải là túng tiền sao?
Nguyên nhân chính không phải là con cái mà là tại bố mẹ, cho nên sau khi
con cái bị công an bắt, bố mẹ mới biết là con mình đi bụi, lý do: bởi bố mẹ chỉ
lo việc kiếm tiền, chỉ lo việc bên ngoài xã hội, mà không hoặc ít ngó ngàng gì
tới con cái. Nhưng nguyên nhân lớn nhất chính là bố mẹ không còn yêu thương
nhau nữa, nghĩa là bố mẹ không còn sống hạnh phúc bên nhau nữa, có thể là đã ly
dị, đường ai nấy đi, cũng có thể là ly thân, ông ăn chả bà ăn nem, huề cả đám.
Đây chính là điều tôi muốn nói với các bạn trẻ, bởi vì, nếu bạn không đi tu làm
linh mục hay làm dì phước, thì các bạn sẽ lập gia đình, nghĩa là đi kiếm “cái
xương sườn” của mình, để thủ thỉ, để âu yếm “cái xương sườn” của mình mới kiếm
lại được. Hay nói văn vẻ hơn là: Các bạn sẽ kết hôn với một người xa lạ, nhưng
rất gần gũi, để thành lập một gia đình, mà một gia đình đúng nghĩa của nó là:
cha+mẹ=con, nếu thiếu một trong ba thì sẽ không đúng nghĩa là một gia đình thật
sự.
Vậy làm thế nào để có hạnh phúc? Theo các nhà đạo đức học phân tích thì
muốn gia đình được hạnh phúc, phải có năm yếu tố CÓ sau đây :
1. Có tình yêu.
2. Có cùng tôn giáo.
3. Có đạo đức.
4. Có nghề nghiệp.
5. Có sức khỏe.
Chúng ta cùng tìm hiểu từng “cái có” để có thể giúp cho bản thân hoặc
giúp ý kiến cho ai đó muốn hỏi về điều kiện để được hạnh phúc gia đình.
1 – Có tình yêu
Đây là tình yêu song phương, nghĩa là hai người cùng tự nguyện yêu nhau,
chứ không phải bị ép buộc, không phải yêu để được hưởng gia tài, nghĩa là một
tình yêu mà hai người nam nữ “nhìn thấy mình” trong người mình yêu. Không thể
nói là tình yêu, nếu một trong hai người lợi dụng người kia, hoặc yêu giả vờ, yêu
để đạt được mục đích. Tình yêu không tự nó mà đến, nhưng từ hai con tim rung nhịp,
hoà hợp như dây đàn rung lên dưới bàn tay kỳ diệu của người nghệ sĩ vĩ đại:
Thiên Chúa.
Chính Thiên chúa là tác giả của tình yêu, nhưng Ngài không đem tình yêu
đó ấn định, hay bắt anh này phải yêu cô nọ, mà là để cho tình yêu bay bổng, lơ
lửng trong ánh mắt, trong cử chỉ, trong con tim, trong lời nói của “một nửa con
người” còn lại của mình, để trở thành “một” trong hai, đó chính là tình yêu
(xin coi bài nói chuyện số 6, tình yêu).
Như vậy cái có thứ nhật để tạo nên hạnh phúc gia đình chính là tình yêu
song phương, tình yêu chung thủy, không ai chối cãi được.
2 – Có cùng một tôn giáo
Một tuần sau lễ Giáng sinh năm nọ, có một cô vợ trẻ gặp tôi nói: “Thầy biết không, con muốn chết cho rồi, thằng
chồng con không cho con đi lễ đêm Noel, lễ sáng nó cũng chẳng cho con đi, con
chán quá.” – Tôi đùa: “Sao lại là thằng
chồng con? Phải gọi là anh hay ông xã chứ?”- Cô ta nói tiếp: “Thầy coi, nó bắt con ở nhà làm đồ nhậu, để
nó với bạn bè nhậu, còn nói con đi lễ là hẹn hò với trai chư lễ gì mà lễ, còn lễ
sáng (25/12) thì nó nói đi Vũng Tàu chơi, bắt con đi theo”.
Cùng một tín ngưỡng tức là hai người cùng chung một niềm tin, thì không
những họ tìm được niềm an ủi trong niềm tin của mình, mà chính bản thân họ cũng
nhận thấy rằng, tình yêu được xây dựng trên nền tảng đức tin, đem lại cho họ những
xác tín khi gặp khó khăn, và biết thông cảm cho nhau, ít nữ là trong niềm tin
vào Đức Kitô.
Tại một nhà thờ nọ, trong nhà thờ có một hàng ghế, mà theo thói quen,
giáo dân không ai ngồi hay quỳ chỗ đó cả, bởi vì ai cũng biết đó là hàng ghế của
một gia đình, mà mỗi lần đi dự thánh lễ, thì cả bố mẹ, con cái đều cùng ngồi,
quỳ ở hàng ghế ấy, không phải là họ “xí” trước hàng ghế ấy, mà là chính giáo
dân, người ta tôn trọng một gia đình mà mỗi lần tham dự thánh lễ, đều có đầy đủ
cả gia đình. Họ giàu nghèo ra sao, không ai biết, nhưng người ta đều biết rõ, họ
là một gia đình kính Chúa. Đó không phải là hạnh phúc sao?
Trước công đồng Vatican II, người công giáo không được kết hôn với người
khác đạo, xem ra Giáo Hội có lý do chính đáng để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Sau
công đồng Vatican II, Giáo Hội đã mở rộng nhiều trong mọi lãnh vực, và trong
đó, người công giáo được phép kết hôn với ngườ khác đạo, dĩ nhiên người công
giáo phải luôn giữ gìn đức tin của mình, và tìm cách đưa người bạn của mình
thành một Kitô hữu, và người khác đạo phải cam đoan để cho bạn mình tự do tham
dự các nghi lễ của đạo công giáo.
Không cùng tín ngưỡng, trên thực tế, cũng có nghĩa là một cuộc chiến
tranh lạnh đang âm thầm hình thành trong ý thức ảua người không công giáo (vợ
hoặc chồng), nếu họ hiểu và ý thức được niềm tin của người bạn mình, thì không
có gì phải lo ngại. Nhưng nếu họ không hiểu và có khi đưa đến thái độ ghét đạo,
và làm khó dễ cho người bạn của mình như trường hợp của câu chuyện trên., thì
thật là điều đáng tiếc, và ảnh hưởng lâu dài trên gia đình, con cái.
Có một lần dạy giáo lý hôn nhân cho một đôi bạn trẻ không cùng tôn giáo
(người chồng không phải là công giáo), thú thật trong lòng tôi không vui chút
nào cả, bởi vì khi nhìn thấy dáng vẻ chìu chuộng, nũng nịu, lả lơi của cô gái đối
với anh chàng, tôi thầm biết rằng anh chàng này chẳng thích gì Chúa Mẹ cả, trước
sau gì cũng hành hạ cô vợ và bắt vợ phải giã từ nhà thờ cho mà coi. Và đúng như
thế, không những cấm vợ không được đến nhà thờ dự thánh lễ, mà còn cấm không được
rửa tội cho con cái, đó là chưa kể ảnh hưởng của bố mẹ chồng có thành kiến với
đạo công giáo.
Như vậy, có cùng một tín ngưỡng, cũng là một yếu tố để đem lại hạnh phúc
cho gia đình vậy.
3- Đạo đức
Đạo đức mà tôi muốn nói ở đây không phải là đạo đức của các dì phước, phải
đi dâng lễ mỗi ngày, phải lần chuỗi Mân côi mỗi ngày, hay như các linh mục, mỗi
ngày phải đọc ít nhất là năm lần kinh phụng vụ, hoặc như là các cụ già rảnh việc,
đến nhà thờ ngồi cầu nguyện, đọc kinh riết đến giờ ăn thì về nhà. Đạo đức ở đây
“nhẹ” hơn một chút, đó chính là “biết” bổn phận của mình đối với gia đình (vợ,
chồng, con cái).
Thế nào là không có đạo đức?
Trong gia đình người chồng không có đạo đức thì không biết lo tròn bổn
phận của mình. Này nhé, người chồng không có đạo đức thì suốt ngày lè nhè chửi
mắng vợ con, vì là bợm nhậu; cuối tháng lãnh lương thì cùng bợm nhậu đi bia ôm,
hát karaoke, mọi việc trong nhà đều do một tay vợ trông coi, nhưng ông chồng lại
không thấy điều ấy, cứ lấy quyền làm chồng mà xử tệ với vợ con, đó là những ông
chồng nhà nghèo không có đạo đức. Còn những ông chồng nhà giàu không có đạo đức
thì sao, đọc qua báo chí chúng ta thấy những ông chồng loại này thì sa đà trong
tứ đỗ tường, nói không nỗi, những hạng ông chồng như thế thì làm sao lại đem được
hạnh phúc cho vợ con.
Và những người vợ không có đạo đức, xét cho cùng, càng tệ hại hơn những
ông chồng không có đạo đức. Một bà vợ không đạo đức suốt ngày la cà hàng xóm, hết
nói xấu nhà này đến nhà nọ, hết con mẹ này đến thằng cha kia, và khi hết chuyện
nói, thì đem chuyện chồng con ra đấu tố với hàng xóm: nào là thằng chồng nhà
tôi chẳng biết làm gì cả, chỉ biết đạp xích lô, mánh mung chẳng biết, thật thua
những thằng đàn ông khác; hoặc là chồng chị sao giỏi quá vậy, biết chiều chuộng
vợ con, biết đủ thứ lời để tố khổ ông chồng mình. Một người vợ không có đạo đức
thì hằng ngày đánh phấn môi son, áo quần lòe loẹt đi khoe với thiên hạ, trong
lúc đó, con cái nheo nhóc, cơm không có ăn, áo quần rách vá trăm chỗ , chồng đi
làm đầu tắt mặt tối đi làm để kiếm tiền, tối về chẳng thấy cơm nước gì cả, thử
hỏi thằng chồng nào mà không buồn bực chứ, và thế là to tiếng, đánh đập, chử bới
nhau, như vậy thì làm gì có hạnh phúc?
Trái lại, một ông chồng có đạo đức thì biết chu toàn bổn phận của một
người cha, người chồng trong gia đình, biết yêu thương vợ, biết giáo dục con
cái theo tinh thần phúc âm, nghĩa là biết thực hành đức ái ngay trong cuộc sống
gia đình, biết ý thức vai trò to tát mả Thiên Chúa đã “phân quyền” cho, để tiếp
tục tạo ra con người mới, sự sống mới mà không oán trách, than van.
Cũng vậy, ngừơi vợ có đạo đức thì như viên kim cương quý báu của người
chồng, nó tăng thêm niềm hãnh diện cho người chồng và cho con cái: “Nàng khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói và dịu
hiền khi dạy dỗ bảo ban” (Cn 31,26). Người vợ đạo đức không bao giờ đem
chuyện chồng con ra nói xấu với hàng xóm, không to tiếng khi chồng mệt nhọc,
không bỏ mặc chồng gánh vác việc nhà một mình; người vợ đạo đức biết dạy dỗ con
cái kính Chúa yêu người, là người biết chia xẻ, biết nhu cầu của con cái mà hướng
dẫn chúng nó.
Trong gia đình, ảnh hưởng của người mẹ trên con cái rất nhiều, do đó, có
được một người vợ đạo đức, theo tôi thì hơn cả viên kim cương quý báu vạn lần
(dù nghĩa bóng lẫn nghĩa đen), vì viên kim cương dù có đắt giá bao nhiêu lần đi
nữa, cũng chỉ là hạt kim cương vô tri, để trang sức, không thể dạy dỗ một thế hệ
(và hơn thế nữa) trở nên một người tốt được, nhưng chính người mẹ lại làm được
chuyện ấy, vì khi dạy dỗ con cái mình sống đạo đức, thì bà mẹ đã xây dựng một
thế hệ tương lai của con mình tốt đẹp rồi vậy. Có người vợ như thế thì một trăm
viên kim cương cũng không thèm, chứ đừng nói một viên. Không biết các bạn trẻ
thích một trăm viên kim cương hay thíchmột người vợ phúc hậu như thế?
Vậy thì yếu tố thứ ba này cũng đem lại hạnh phúc cho gia đình chúng ta vậy.
4- Có nghề nghiệp
Trước năm 1975, tôi có nghe qua bài hát “túp lều lý tưởng” do đôi nam nữ
ca sĩ hát, đúng là bài hát vui nhộn và “lý tưởng hóa” tình yêu. Bài hát đại
khái là: một túp lều, trong đó có hai quả tim vàng (tức là nàng và chàng chứ
không phải bằng vàng thứ thiệt đâu mà ham), được xây dựng bằng duyên bằng tình,
chứ không bằng tiền. Lý tưởng quá đi chứ, và thời nay, tức là thời đại ngày
nay, cũng có những đôi tim vàng như thế, họ yêu nhau mà không cần ăn uống, cũng
không cần áo quần mặc, bời vì họ chỉ cần túp lều tranh là đủ rồi. Một túp lều
tranh, hai trái tim vàng và một bầy con thơ, đúng là lý tưởng. Nhưng nếu có gió
bão cấp 10 đến cấp mười hai thì còn túp lều tranh nữa không? Nhà xây bê tông cốt
sắt cũng còn sập nữa chứ đừng nói chi đến túp lều tranh; và khi con cái bệnh hoạn,
thiếu ăn thiếu mặc, thì có còn hai quả tim vàng nữa không, hay trở thành hai quả
tim đất sét vỡ nát vì túp lều tranh dột nát và bầy con đói nheo nhóc?
Tuy là một bài hát, nhưng chúng ta cũng nên thấy thực tế cuộc sống.
Hai quả tim vàng, dù yêu nhau đến đâu chăng nữa, cũng không thể ngày
ngày nhìn nhau mà sống, hay cạp đất mà ăn, nhưng phải đi làm việc. Thánh Phaolô
tông đồ đã nói rất thực tế: “Ai không có làm thì đừng có ăn”.
Do đó, chúng ta phải có nghề nghiệp, một nghề ổn định, bởi vì “nhất nghệ
tinh, nhất thân vinh”. Không nhất thiết phải làm bác sĩ, kỹ sư hay nhà giáo, chỉ
cần một nghề cho thông, cho rành, thì sẽ có tiền bạc vật chất, mặc dù tiền bạc
không phải là yếu tố hạnh phúc, nhưng nó cũng có một phần quyết định hạnh phúc
trong gia đình. Không có tiền, chúng ta sẽ không có những vật dụng trong gia
đình, không có tiền, con cái chúng ta không được đến trường.v.v…
Dù nam nữ bình đẳng, nhưng bình đẳng ở ngoài xã hội, còn trong gia đình,
theo tôi, người chồng vẫn là số một, mà các bà vợ phần đông cũng thích như thế,
chỉ có những bà vợ nào dữ tợn như sư tử Hà Đông, mới thích mình trên cơ ông chồng
thật thà của mình, vì vậy, chồng phải có một nghề nghiệp để đem lại hạnh phúc
cho gia đình. Tôi đã thấy những bạn thanh-niên-lớn-tuổi chưa lập gia đình, vì
chưa có một nghề nghiệp nhất định để bảo đảm cuộc sống cho một gia đình tương
lai. Tôi cũng thấy (và cũng dạy giáo lý cho họ nữa) những bạn trẻ kết hôn mà
không có một nghề nghiệp nào cả, khi được hỏi tại sao, thì họ chỉ cười và nói:
trời sinh voi thì sinh cỏ. Đúng là có đức tin to lớn, mà cũng liều ghê gớm.
Trên thế giới nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng đáng kể, ở Việt Nam
cũng thế, nhưng không phải vì thất nghiệp nhiều mà vật giá rẻ đi, hay là đợi
các công ty bán hạ giá (hạ giá vì quá hạn) rồi mua, nhưng dù cho đại hạ giánhư
bánh trưng thu hết “đát”, mua một cái tặng một cái chăng nữa, thì cũng phải có tiền
mà mua để được tặng chứ.
Trách nhiệm người chồng trong gia đình rất nặng nề, một trách nhiệm mà nếu
suy nghĩ cho thấu lý thấu đáo, thì qủa là đáng sợ thật, bởi Thiên chúa biết cái
đáng sợ ấy của các ông chồng, nên đã ban cho các ông một người bạn đường, bạn
đường đây không phải là bạn đứng nơi đường Huyền Trân công chúa, hay là đường
Lê Hồng Phong, cũng chẳng phải là bạn nhậu nhẹt cầy tơ bên lề đường Cống Quỳnh,
mà là một người bạn đường đúng nghĩa của nó: đường của đời người, đó chính là
người vợ, là”xương sườn” là “một nữa còn lại” của mình, mà người đàn ông đã”
tìm lại” được sau nhiều ngày tháng suy nghỉ, bàn hỏi với bố mẹ, với cha sở và với
xương sườn tuyệt vời của mình, tức là người vợ ngày hôm nay vậy.Chính nàng- chứ
không ai khác- sẽ cùng đi với chồng suốt quãng đường đời, chia sẽ những buồn
vui, những lo âu hôm nay và của ngày mai.
Người vợ, tuy là lo công việc nội trợ, nhưng nếu có một nghề nghiệp để
phụ với chồng về kinh tế gia đình, thì tuyệt vời không chê vào đâu được. Chẳng
hạn như khi chồng đau ốm bệnh hoạn không thể đi làm được, thì nghề nghiệp của vợ
sẽ đỡ đần cho chồng biết bao nhiêu mà kể, mà xã hội ngày nay, chồng vợ đều đi
làm việc, vì tiền lương một người không đủ trang trải việc nhà, cho nên có nghề
nghiệp cũng là khâu quyết định hạnh phúc gia đình vậy.
5- Có sức khỏe
Đây là yếu tố cuối cùng trong việc giữ gìn hạnh phúc gia đình.
Bạn đã thấy cây đu đủ còi cọt chưa, nó ốm tong teo, cao nghều nghệu, vài
ngọn lá lưa thưa trên đầu, và những quả đu đủ thì ốm o gầy còm, đung đưa theo
gió như muốn rụng xuống.
Tất cả mọi người bệnh (nam và nữ) cũng đều như nhau: ốm o, nói không ra
hơi, đi không nổi, mắt sâu má hóp, làm biếng ăn và không nhìn thấy sinh khí nơi
họ.
Trong gia đình, chồng vợ là hai trụ cột chống đỡ gia đình, nhưng nếu hai
trụ cột này bị mối mọt đục nát, thì có thể chống đỡ nổi gia đình không, do đó
có sức khỏe là một điều rất quan trọng vì: sức khỏe quý hơn vàng, vì có sức khỏe
là có tất cả.
- Xét về mặt thân thể
mà nói:
Một người mẹ bệnh hoạn, sẽ sinh ra những đức con bệnh hoạn, còi cọt, nhưng
một người mẹ mạnh khỏe, sẽ sinh ra những đức con khỏe mạnh, thông minh.
- Xét về mặt tinh thần
mà nói:
Một người vợ bệnh hoạn, thì tinh thần sa sút, tâm thần bất định, bà sẽ
trở nên bi quan yếm thế với cuộc sống, trở nên cấu gắt với chồng con, nhưng một
người vợ mạnh khỏe sẽ làm cho gia đình có tiếng cười vui, vì bà chính là niềm
vui của chồng con.
Còn ông chồng bệnh hoạn thì như thế nào?
Tôi có quen biết một gia đình, chồng vì nghiện rượu mà trở nên bệnh nặng,
mọi công việc đều do bà vợ và con cái đảm đang, nhưng bệnh lâu ngày không
thuyên giảm, kết qủa: vợ chán nản trở thành kẻ cờ bạc, đồ đạc trong nhà bán dần
dần để lo cho chồng và để có tiền đánh bạc, con trai thì bỏ nhà ra đi, con gái
cũng đi làm đĩ. Cuối cùng ông chết trong cô đơn.
Vậy thì, có sức khỏe cũng là điều rất cần thiết cho hạnh phúc gia đình,
mà nếu khi còn trẻ, chúng ta biết luyện tập thân thể, biết qúy sức khỏe, thì lo
gì mà không đem lại hạnh phúc cho gia đìnhtương lai của mình chứ!
Tóm lại, năm yếu tố trên đây, chính là sự đúc kết qua quá trình nghiên cứu
của các nhà đạo đức học, theo tôi, nó đúng là những yếu tố cần thiết mà rất thực
tế để gìn giữ và mang lại hạnh phúc gia đình. Nó không lý thuyết chút nào cả,
nhưng rất gần bên cạnh chúng ta, trong đời sống thường ngày của chúng ta, bởi
vì chúng ta hay đi tìm hạnh phúc ở đâu xa xăm trên mây trên gió, mà không để ý
đến cái căn bản để được hạnh phúc đang ở kề bên chúng ta.
Trong những năm giúp xứ, tôi đã sử dụng nó như một tài liệu quý để giúp
cho các đôi hôn phối, nói cho họ nghe, giúp cho họ hiểu được hạnh phúc gia đình
là chính bản thân của họ phải tạo ra, chứ không phải người nào khàc. Bởi vì, hạnh
phúc không những cho họ, mà còn cho những đứa con mà họ sẽ sinh ra, chúng nó cần
phải được sống trong hạnh phúc, và xã hội cũng có trêm một thành viên biết xây
dựng hạnh phúc, yêu quý hạnh phúc. Nói cho họ nghe, để ít nữa là khi nghe qua
năm yếu tố này, họ sẽ có cách nhìn và tìm cách thực hiện trong đời sống vợ chồng,
và tôi cũng tin rằng, họ cũng sẽ nhớ được một vài câu, để giúp cho tình yêu của
họ bền lâu hơn, bời vì hạnh phúc chình là điều mà ai cũng mong được có.
Các bạn trẻ, chúc các bạn được hạnh phúc trong cuộc sống gia đình sau
này./.
9 – “THỨ BỐN THẢO KÍNH CHA MẸ”
Tôi đã chứng kiến một thằng nhóc mười hai tuổi, hất nhào mâm cơm xuống đất
và mẹ nó thì ngồi khóc, chứ không nói một tiếng nào, lý do đơn giản: bà mẹ nấu
cơm không ngon.
Tôi cũng đã thấy một cô gái nói chì chiết với bà mẹ, trong lúc đó, bà mẹ
im lặng quét nhà, lý do thật đơn giản: bà quên phơi áo quần cho cô ta.
Tôi cũng đã từng can ngăn một thanh niên, xách dao phay rượt ông bố, lý
do cũng thật đơn giản: anh ta bị bố đánh vì chơi với bạn xấu.
Và có rất nhiều cảnh tương tự như trên mà tôi và các bạn đã thấy qua.
Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa: thảo kính cha mẹ.
Có bạn thanh niên đã vung tay nói hùng hồn với tôi về cha mẹ mình: “Ai
biểu đẻ tui ra làm chi, đẻ ra thì phải nuôi”, bạn thanh niên này nói rất đúng
và cũng rất sai. Thiên Chúa đã trao cái quyền tạo dựng cho những người làm cha
làm mẹ, nhưng sự sống thì Thiên Chúa nắm giữ “độc quyền”, độc quyền hơn cả
phòng công chứng thành phố, Ngài không trao cho ai cả, nhưng anh có hình hài,
anh có sự sống, và ai đã làm cho anh được to con lớn xác như ngày hôm nay thế,
chắc là anh được con khỉ hay con sói nuôi như Tazzan chắc? Vì thế cho nên khi
anh bạn thanh niên này vung tay tuyên bố như trên, thì cũng có nghĩa là anh ta
đang chửi Thiên Chúa, đúng vậy, vì khi sinh con, cha mẹ đã cộng tác vào chương
trình tạo dựng kỳ diệu của Thiên Chúa, và con cái chính là hồng ân của Thiên Chúa
ban cho cha mẹ, như lời thánh vịnh đã ca tụng:
“Này con cái là hồng ân của
Chúa
Con mình sinh hạ là phần thưởng
Chúa ban.”(Tv 127,3).
Hồng ân, tức là món quà quý báu, mà anh bạn thanh niên này chính là món
quà quý báu mà Thiên Chúa đã ban cho cha mẹ anh ta, tại sao lại nói như thế, chẳng
lẽ anh bạn này không muốn trở thành món quà quý báu sao?
Không cần phải hất hủi cha mẹ mới gọi là bất hiếu: phát biểu như anh bạn
trên, hất đổ mâm cơm như nhóc con trên, hay như cô gái chì chiết mẹ vừa kể
trên, cũng là đại bất hiếu rồi vậy.
Các bạn trẻ thời nay thường hay viện cớ cha mẹ già cả, lỗi thời, không hợp
với thời đại con cháu nữa mà đối xử với cha mẹ lắm lúc như một người đầy tớ
không bằng. Dù cha mẹ già cả, dù cha mẹ lẩm cẩm hay dù cha mẹ là một người mang
bệnh tâm thần chăng nữa, thì cũng là người đã sinh ra mình, vẫn là người đã được
Thiên Chúa ủy quyền thay mặt Ngài mà sinh thành, dạy dỗ, nuôi dưỡng chúng ta,
cho nên chúng ta phải luôn luôn tôn trọng và kính yêu cha mẹ, đó chính là thảo
hiếu rồi vậy.
Giáo lý công giáo đã nói cho chúng ta biết phải thảo kính cha mẹ như thế
nào, tôi nghĩ rằng, các bạn trẻ ai cũng đã đều học qua (không thuộc thì không
được rước lễ vỡ lòng vậy), nhưng tôi cũng cứ nhắc lại để chúng ta cùng nhau trò
chuyện cho có “căn bản” hơn.
Giáo lý công giáo dạy rằng : “phải
thảo kính cha mẹ khi các ngài còn sống, cũng như khi các ngài đã qua đời. Khi
cha mẹ còn sống, thì phải hết sức phụng dưỡng, vâng lời và không làm cho cha mẹ
buồn. Khi cha mẹ qua đời, bổn phận làm con phải luôn cầu nguyện cho cha mẹ được
hưởng phúc thiên đàng”.
Có một điều rất quan trọng mà chúng ta không biết hay không để ý, đó là:
dù chúng ta đã già, tóc hai màu như cha mẹ, có con cháu đầy đàn, dù chúng ta có
làm ông thủ tướng, làm ông cha cố, làm bà xơ dì phước, hay làm chức phận này nọ
trong xã hội, thì đối với cha mẹ, các ngài vẫn luôn luôn coi chúng ta là những
đức con còn nhỏ, vẫn luôn quan tâm như hồi chúng ta còn bé vậy. Đó là một dấu
chứng của tình mẹ cha thương con bao la như biển Thái Bình, còn chúng ta, cha mẹ
còn sống trước mắt chúng ta đó, chúng ta phải thảo hiếu như thế nào?
-Khi cha mẹ còn sống- điều làm cho cha mẹ vui lòng nhất, sung sướng nhất,
thích thú nhất nơi con cái mình, đố các bạn trẻ đó là điều gì? Là sự VÂNG LỜI,
tôi dám bảo đảm với các bạn là cha mẹ chúng ta thích nhất là sự vâng lời của
chúng ta đối với các ngài, của lễ đẹp nhất mà Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha
chính là vâng lời, là phục tùng thánh ý của Cha hoàn toàn:
“Người còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng
chịu chết,
chết trên cây thập tự” (Pl
2,8)
Vâng lời cha mẹ, đó là tỏ rõ sự hiếu thảo của con cái, đó cũng là sự
hãnh diện của cha mẹ khi có đứa con biết vâng lời mình, các ngài thường đem sự
vâng lời của con cái đ “khoe” cho hàng xóm biết: “con tôi nó rất ngoan, không
bao giờ làm trái ý tôi”. Chúa Kitô cũng sẽ nói với Cha Ngài như thế: “Nó vâng lời
cha mẹ giống như con vâng lời Cha vậy”. Thật hạnh phúc biết bao cha mẹ nào có đứa
con biết vâng lời. Bởi vì:
“Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,
ai kính mẹ thì tích trữ kho
báu.
Ai thờ cha thì sẽ được vui mừng
vì con cái,
Khi cầu nguyện họ sẽ được lắng
nghe.
(Hc 3,3-5).
-Cái hiếu thảo to lớn thứ hai là săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ, dĩ nhiên
là khi các ngài còn sống, còn sống mới săn sóc, còn sống mới phụng dưỡng.
Nhưng săn sóc như thế nào?
Có người săn sóc cho cha mẹ như thế này: mỗi tháng đều gởi tiền cho cha
mẹ tiêu xài, nhưng chẳng bao giờ dẫn vợ con về thăm cha mẹ, đây không phải là
hiếu thảo, mà là bố thí cho cha mẹ.
Có người lại săn sóc cha mẹ như sau: từ thành phố về quê xa quá, đi lại
tốn tiền mà thêm mệt nhọc, bèn đem mẹ lên thành phố ở nhà mình, để gọi là mẹ
con gần gũi bên nhau. Nhưng khi mẹ về ở trong nhà con của mình, mẹ rất ít khi gặp
con của mình, vì con đi làm từ sáng đến tối, hoặc cùng bạn bè nhậu nhẹt, nên
không có thời giờ để mẹ con trò chuyện, mẹ cũng chẳng dám bước lên nhà trên, vì
nó quá sang trọng, mà mẹ sờ tới cái gì cũng bị con dâu dòm ngó và lấy giẻ lau lại,
sợ cái chai cái lọ, ly tách bị dơ, đến nỗi bạn bè của con tưởng bà là người ở,
người làm công. Đây càng không phải là đứa con hiếu thảo với cha mẹ, mà là cha
mẹ hiếu thảo với con cái.
Lại có người hiếu thảo với cha mẹ cách quái gở như thế này: mỗi ngày trước
khi đi làm thì ra lệnh cho mẹ mình: thau áo quần con bỏ trong thau, mẹ đem giặt
cho con; trưa nay có bạn trai của con đến chơi, mẹ nhớ quét nhà, đừng hút thuốc
lá hôi lắm, anh ấy chịu không nỗi, đừng thế này và đừng thế nọ. Đây không phải
là phụng dưỡng cha mẹ, mà là bắt cha mẹ phụng dưỡng mình.
Cha mẹ không cần chúng ta cho các ngài tiền để tiêu vặt, cha mẹ chỉ muốn
chúng ta thỉnh thoảng ghé thăm các ngài, nói chuyện trên trời dưới đất (chuyện
tiếu lâm), chuyện học hành của cháu chắt, chuyện nhà chuyện cửa của chúng ta,
là các ngài vui hơn có bạc triệu trong tay. Dùng vật chất để săn sóc cho cha mẹ,
để cha mẹ không thiếu thốn trong tuổi già là một điều tốt, nhưng các ngài chỉ
muốn tận mắt nhìn thấy “thằng cu tí nghịch ngợm, con tèo bụ bẫm” của mình ngày
xưa thì mới vui lòng”, nếu chúng ta đối xử đơn sơ như cách nghĩ đơn sơ của cha
mẹ già thì đó chính là hiếu thảo với cha mẹ vậy.
Hiếu thảo với cha mẹ khi các ngài còn sống, đó là việc làm chính đáng mà
Thiên chúa mà đã ban thành lề luật cho con người. Ai thảo hiếu với cha mẹ thì
đã vâng lệnh Thiên Chúa rồi vậy (Hc 3-7).
Khi còn nhỏ, chúng ta hiếu thảo với cha mẹ bằng cách: vâng lời các ngài
trong mọi việc một cách đơn sơ, hồn nhiên.
Khi đến tuổi thanh niên, chúng ta hiếu thảo với cha mẹ bằng cách: phục
tùng các ngài trong khiêm tốn và hồn nhiên.
Khi đã lập gia đình, chúng ta hiếu thảo với cha mẹ bằng cách: dạy cho
con cái mình biết tôn kính, yêu mến ông bà, bởi vì khi chúng nó yêu mến ông bà,
thì cũng chính là chúng chúng ta hiếu thảo với cha mẹ vậy.
Khi chúng ta đã già, có cháu có chắt, thì sự hiếu thảo của chúng ta đối
với cha mẹ (nếu các ngài còn sống), không gì hay hơn là trở nên người “bạn già”
của các ngài, bởi vì lúc ấy, chỉ có chúng ta (đã trải qua quá trình làm cha mẹ)
mới hiểu và thông cảm được với các ngài, và đó cũng là tấm gương hiếu thảo cha
mẹ sống động cho con cái, cháu chắt của chúng ta bắt được.
-Khi cha mẹ qua đời- Việc hiếu thảo to lớn nhất mà ai cũng biết, đó là cầu
nguyện cho các ngài.
Phải cầu nguyện như thế nào?
Theo tôi thì khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời, đều phải săn sóc các
ngài và cầu nguyện cho các ngài. Có người sẽ cười tôi và nói: chết rồi còn săn
sóc gì nữa, chỉ cầu nguyện thôi. Giáo hội cho phép chúng ta được hỏa táng, và lấy
tro đựng vào trong một cái hủ làm sẵn, gọi là hủ hài cốt, rồi gởi vào trong nhà
thờ, rất gọn gàng, rất sạch sẽ và con cái dễ dàng thăm viếng. Đây là lúc chúng
ta săn sóc: mỗi ngày chúng ta đến nhà thờ dâng thánh lễ, sau đó đến “nói chuyện”
với cha mẹ rất thân tình, êm ái, và kể lể những khổ cực, những vui buồn của
mình như khi cha mẹ còn sống vậy, cho cha mẹ nghe, đó không phải là săn sóc
sao, đứng trước hài cốt của cha mẹ, chúng ta vừa cầu nguyện với Chúa, vừa nói
chuyện với các ngài, thật là hiếu, kính đôi đường vậy.
Có người một năm hai lần mới đến thăm hài cốt cha mẹ mình, đó là ngày giỗ
cha mẹ mình và ngày lễ các đẳng linh hồn (2.11)
Có người rất ít khi xin lễ cầu nguyện cho cha mẹ đã qua đời, hồi tôi còn
giúp xứ cho một họ đạo nhỏ ở Sài gòn, nhiều năm phụ trách việc nhận tiền xin lễ
và ý lễ của giáo dân, rồi phân chia ý lễ trong tuần để cha sở dâng lễ theo ý
người xin. Tôi để ý thấy có nhiều luôn xin lễ cho linh hồn ông bà cha mẹ, mà
không bao giờ tới nhà thờ dâng thánh lễ! Có một giáo dân nói với tôi: “Miễn là
có xin lễ, đừng quên ông bà cha mẹ là được rồi, đi lễ cũng thế mà thôi, Chúa
cũng biết!” – “Miễn là” cũng đồng nghĩa với guợng ép trong tình yêu, như một cô
gái nọ đã mách nước cho cô bạn của mình: “mầy không thương thằng cha đó cũng được,
“miễn là” mầy nhận lời đi chơi với nó là xong ngay, có tiền xài…” – Nếu cha mẹ
nghe được chữ “miễn là” của đứa con nói, thì chắc các vị ấy buồn ghê lắm, mà
Thiên chúa cũng chẳng ban ơn cho đứa con “miễn là” ấy đâu.
Cầu nguyện cho cha mẹ khi các ngài qua đời, không phài là chuyện dị
đoan, nhảm nhí mà là bổn phận của con cái đối với cha mẹ, và cũng là tuyên xưng
niềm tin vào kẻ chết sống lại của chúng ta: “Tôi
tin xác loài người ngày sau sống lại…” ; không phải xin lễ cho ông bà cha mẹ,
hay là những người đã qua đời là chuyện ngày nay, mà đã có từ xưa trong thời cựu
ước: “Ông Giuda đã quyên được khoảng hai
ngàn đồng bạc, và gởi vể Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất
tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại” (2Mcb 12,43).
Khi các ngài còn sống, chúng ta đem những của ngon vật lạ để cha mẹ
dùng, nhưng khi chết rồi, thì không thể dâng cho cha mẹ những thức ăn ấy nữa,
mà chính là lời cầu nguyện và những việc làm hy sinh, bác ái của chúng ta. Có
người, khi cha mẹ còn sống, để cha mẹ thiếu thốn mọi cái trong sinh hoạt hằng
ngày, nhưng khi cha mẹ vừa qua đời, quan tài còn để trong nhà, đã tổ chức ăn uống
nhậu nhẹt rùm beng, gọi là để cha mẹ “nở mặt nở mày”, để gọi là đức con có hiếu!
Mà cha mẹ mặt mày lúc đó đã thối rữa, còn đâu nữa mà nở mặt với không nở mặt chứ!
Chẵng qua là cái dịp (cha mẹ chết) để có cơ hội ăn uuống nhậu nhẹt “hợp pháp”
mà không bị ai quấy rầy mà thôi (không phải ai cũng như thế cả đâu). Các ngài
đang cần lời cầu nguyện và hy sinh của con cái mình.
Có những người con, cha mẹ vừa nhắm mắt tắt hơi, thì la ó, chửi nhau tùm
lum, kiện nhau ra tòa, để giành giựt gia tài, mà quan tài cha mẹ còn “nằm chình
ình” ở đó mà chẳng thấy đứa con nào giành cả, đúng là đại bất hiếu “trời không
dung đất không tha”, cũng có nghĩa là: Chúa không chúc phúc, mà người đời cũng
không quên việc làm bất hiếu này của họ. Các ngài rất cần lời cầu nguyện và hy
sinh của con cái mình.
“Thứ bốn thảo kính cha mẹ”
Hiếu thảo và kính yêu phải đi kèm với nhau, không ai vừa hiếu thảo lại vừa
hất hủi cha mẹ. Nhưng tôi cũng thấy có người rất hiếu thảo với cha mẹ nhưng
không kính trọng các ngài, những người này thường săn sóc cha mẹ rất chu đáo,
nhung không muốn đi bên cha mẹ khi xuất hiện trước mặt đông người, vì cha mẹ
mình quê mùa. Cũng có các vị quyền cao chức trọng, vì sĩ diện, mà không dám giới
thiệu cha mẹ mình cho người khác biết vì mẹ mình bị bệnh tâm thần.
Cha mẹ quê mùa hay bệnh hoạn, đó không phải là lý do để chúng ta mất sĩ
diện với mọi người hay bạn bè; nếu cha mẹ bạn là người nông dân chất phác, mà
giờ đây bạn trở thành một linh mục, một bà xơ, một ông bác sĩ hay một ông giám
đốc, thì tôi bảo đảm với các bạn rằng, mọi người sẽ hết lòng khen ngợi bạn (chứ
không phải cha mẹ) là người có phúc, vì bạn có cha mẹ rất thương yêu và nuôi dạy
bạn nên người. Khi bạn sợ mất thể diện, ấy là lúc bạn đem hai chữ bất hiếu, khắc
(chứ không phải viết) trên cái “bản mặt” trơ trẽn của mình rồi vậy.
“Cha con, con hãy hết lòng tôn
kính,
và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng
đẻ đau.
Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục
sinh thành,
công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp
đền cho cân xứng?” (Hc 7, 27-28)
Hiếu thảo cha mẹ, cũng có nghĩa là yêu mến anh chị em của mình, họ chính
là những tay, chân trong thân thể của mình. Anh chị em trong nhà cần phải luôn
thương yêu giúp đỡ nhau, con cái khôn ngoan thì vui lòng cha mẹ (Hc 3,2), khôn
ngoan ở đây chính là anh chị em biết nhường nhịn nhau, anh chị nói thì em nghe,
trên dưới thuận hòa, không phải là niềm vui của cha mẹ mình sao? Sống mà để cho
cha mẹ vui lòng thì đó chính là hiếu thảo rồi vậy, cần gì phải đem cha mẹ lên
thành phố sống, cần gì phải mua sắm nhiều thứ cho cha mẹ mới gọi là có hiếu.
Anh chị em trong nhà, đành rằng cùng cha mẹ sinh ra, nhưng mỗi người có
một cá tính không giống nhau, có người thì nóng như lửa, có người thì nguội như
nước, lại có người thì cười luôn miệng, nhưng cũng có người thì gọi mười ngày
cũng chẳng nghe được một câu ơi ạ! Do đó, mà thỉnh thoảng trong nhà cũng có lúc
anh chị em to tiếng với nhau rất ác liệt, nhưng không phải vì thế mà anh chị em
trong nhà cứ đấu đá nhau hoài? Có hiếu với cha mẹ, chính là huynh đệ biết sống
thương yêu nhau, nhưng khi đã lập gia đình, có con cái, chúng ta mới thấy tình
thương anh chi em dành cho nhau rất quan trọng, nhìn con cái mình, thì mình hồi
tưởng lại mình với anh chị em ngày còn ở với cha mẹ, để mà thấy thương yêu cha
mẹ và anh chị em hơn.
Nếu các bạn là linh mục, thì cần phải thảo kính cha mẹ nhiều hơn tất cả
mọi người,và bạn được Thiên Chúa ủy quyền rao giảng lời của Ngài cho mọi người,
bạn cần phải ý thức vệic mình làm, và noi theo điều mình thực hiện, cũng có
nghĩa là khi bạn giảng về sự hiếu thảo với cha mẹ rồi vậy.
Nếu bạn là một nữ tu, tôi nghĩ rằng bạn có một tâm hồn nhạy cảm, rất nhạy
cảm với cha mẹ, và tôi tin rằng, những người đi tu đều là những người hiểu rõ
hơn ai hết về sự hiếu thảo đối với cha mẹ, bởi vì chính họ ngày đêm luôn cầu
nguyện cho cha mẹ mình được bằng an xác hồn, bởi chính họ đã phó thác cha mẹ
mình cho Thiên Chúa khi dâng mình làm nữ tỳ của Ngài. Và một khi đã giao cho
Ngài coi sóc gìn giữ, thì Ngài sẽ không quên đâu.
Nước mắt thì luôn chảy xuống chứ không chảy lên bao giờ cả.
“Chảy xuống” cũng có nghĩa là cha mẹ luôn thương yêu con cái của mình,
đó là lẽ tự nhiên mà tạo hóa đã ban cho người làm cha làm mẹ. “Chảy lên” chính
là nói về con cái, con cái thường là không nhìn thấy tình cảm rộng lớn bao la của
cha mẹ, nên có những thái độ, những lời lẽ bất hiếu với cha mẹ trong cuộc sống,
Thiên Chúa thấy trước mắt mọi sự, nên đã ban cho nhân loại điều răn thứ bốn
này, tuy là đứng hàng thứ bốn trong muời điều răn của Thiên Chúa, nhưng nó là
điều thứ nhất trong bảy điều sau nói về con người phải tuân giữ.
Một gia đình hạnh phúc là một gia đình mà cha mẹ, con cái đều la chu
toàn bổn phận của mình. Không một vị thánh nào mà không thảo kính cha mẹ, cũng
như Thiên Chúa không bao giờ không bao giờ chúc phúc cho những người bất hiếu với
cha mẹ mình, lý do thật dễ hiểu: Bởi vì cha mẹ thay quyền Thiên Chúa mà sinh
thành, dưỡng dục con cái, theo như ý Ngài muốn, vậy thì bất hiếu với cha mẹ,
cũng có nghĩa là bất hiếu bất kính với Thiên chúa vậy.
Có một câu chuyện như sau: Trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ
hai, trên chiếc tàu chở quân đội đi hành quân, có một anh lính trẻ buồn nhớ mẹ,
anh ta liền lấy tấm hình của mẹ ra coi, vì vô ý và gió biển thổi mạnh, nên tấm
hình rơi xuống biển, anh ta vội vàng nhảy xuống biển để vớt tấm hình lên, viên
sĩ quan cho rằng anh ta đào ngũ, bèn giam tù anh lính này, đến ngày ra hầu tòa,
quan tòa hỏi anh:
-“Tại sao anh đào ngũ trong
khi đang hành quân, theo quân luật,đào ngũ trong khi đang hành quân là tử hình,
anh biết không?”
Anh lính trẻ trả lời:
-“Tôi biết, nhưng thưa quan
tòa, tôi không có đào ngũ”.
Quan tòa hỏi lại:
-“Mọi người đều thấy anh nhảy
xuống biển để trốn”.
Anh trả lời:
-“Tôi còn kỷ vật duy nhất mà mẹ
tôi để lại, là tấm hình, không may nó rơi xuống biển, nên tôi phải nhảy xuống lấy
lên, vì đó là tấm hình của mẹ tôi”
-“Anh đưa tấm hình tôi coi”
Anh lính trẻ lấy tấm hình ở trong túi áo, đưa tấm hình của mẹ mình đã
loang lỗ vì tróc hết thuốc rửa cho quan tòa xem, quan tòa coi xong liền tuyên bố:
-“Một người con có hiếu với mẹ
như thế, thì không thể là một người phản bội tổ quốc được. Anh vô tội”
Cả pháp đình thở phào nhẹ nhõm vui mừng, mọi người chạy lại ôm lấy anh
lính trẻ để chia sẻ niềm vui, và khen ngợi anh là một người con thật có hiếu .
Người ta cũng khen ngợi vị quan án sáng suốt và có hiếu với cha mẹ, vì
ai đã từng hiếu thảo với cha mẹ mình, mới hiểu được tình cảm hiếu thảo này to lớn
và thiêng liêng vô cùng.
Xin Thiên chúa chúc lành cho chúng ta luôn luôn hiếu thảo với cha mẹ
trong suốt cuộc đời của mình./.
10 – LỜI KẾT
“Trò chuyện với các bạn trẻ” đến đây thì chấm dứt,
nghĩa là trên giấy trắng mực đen đã hết.
Nhưng trong cuộc sống đời thường mỗi người, những câu chuyện trên đây vẫn
còn tiếp diễn không ngừng, và sẽ tiếp diễn mãi cho đến khi mặt trăng không còn
chiếu sáng, mặt trời tắt ngủm mới thôi. Cũng có nghĩa là bao lâu còn con người
trên mặt đất, thì những câu chuyện trên đây vẫn còn tái diễn mãi cho đến tận thế,
dù cho vật đổi sao dời, dù cho chiến tranh hạt nhân bùng nổ cũng không làm cho
lòng con người trở nên tốt hơn, chỉ có Lời Chúa mới xoay chuyển được lòng trí
con người, chỉ có các bạn trẻ hôm nay học tập lời hằng sống, và ngày mai đem chiếu
soi cho mọi nguời chung quanh nhận biết chân lý mà mình đã sống.
“Trò chuyện với các bạn trẻ” được viết ra sau những năm giúp xứ, “lăn lộn”
nơi một xã hội đầy những cái không tốt – giữa trung tâm Sài gòn văn minh phát
triển – mà mọi người thường gọi là tệ nạn xã hội, “đưa tay ra là có thể phạm một
tội tày trời, quá chân bước là có thể gặp một chuyện không may” cho đời sống tu
đức. Tôi đã tiếp xúc với nhiều hạng người trong xã hội của Sàigòn, mà nhiều nhất
có lẽ là những thành phần bất hảo: con trai lớn thì đi ăn cướp, làm ma cô, con
gái lớn thì làm gái, làm điếm; trẻ em thì đi cướp giựt nhiều hơn tới trường, những
người mà chính họ cũng thấy mình không ra gì cho xã hội.
Họ đang cần những tấm gương sáng của các bạn trẻ, bởi vì gia đình họ
không được cái may mắn hạnh phúc như các bạn, bởi vì không ai nói cho họ biết về
tình yêu chân chính trong hôn nhân nên họ yêu bừa yêu bãi, mà con gái lỡ trượt
chân một lần thì lao đầu luôn vào chốn lầu xanh, nhưng lầu xanh thì bị cảnh sát
lục xét gắt gao, thành ra họ đón khách ở các gốc cây vào buổi tối.
Ở một nơi mà thường nghe con nít hát bài “đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng
cô đơn…”, nên có lúc nó cũng làm tôi suy nghĩ về đời sống tu trì của mình. Nhìn
các em thiếu nhi mới tuổi mười bốn, mười lăm tuổi mà khuôn mặt đã đầy phấn son,
và lòng dạ thì già trước tuổi, đã lì ra trước những trận đòn bị bắt quả tang ăn
cắp.
Trò chuyện với các bạn trẻ là để chia sẻ tâm tình bức xúc của mình và những
hiểu biết của mình trong phạm vi khiêm tốn, với những kinh nghiệm qua những lần
gặp gỡ, tiếp xúc và dạy dỗ những con người rất đời thường, nhưng rất cá biệt.
Và chính nơi họ, tôi đã tìm ra cho mình một lý tưởng của ơn gọi, một sự kiên
trì nhẫn nại mà hoàn toàn tự do. Vậy, có thể nói, họ chính là những ông thầy đời
của tôi vậy.
Xin Thiên chúa chúc lành cho tất cả chúng ta./.
Lm.
Giuse Maria Nhân Tài, csjb.