Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Chia sẻ với
em
KINH MÂN
CÔI
Em thân mến,
Có lần em hỏi anh
là khi mình làm linh mục hay làm tu sĩ thì mỗi ngày đều có tham dự thánh lễ, rước
lễ thì lần chuổi Mân Côi có quan trọng lắm không, bởi vì theo em biết: chỉ có
thánh lễ mới là việc thờ phượng Thiên Chúa cách cao quý, đích thực và công khai
của người Ki-tô hữu mà thôi, còn tất cả những việc khác chỉ là việc phụ, có
cũng được mà không thì cũng chẳng sao.
Vâng, em nói rất
đúng, chỉ có thánh lễ là đỉnh cao duy nhất mà Giáo Hội thay mặt nhân loại tế lễ
Thiên Chúa mà thôi, bởi vì trong thánh lễ chính Chúa Giê-su hiện diện thực sự,
và Ngài vừa là chủ tế vừa là hiến tế dâng lên Chúa Cha của lễ là chính Ngài để
tha tội và cứu chuộc nhân loại.
Vậy thì kinh Mân
Côi mà Đức Mẹ Maria dạy Giáo Hội phải truyền bá cho con cái (giáo hữu) phải đọc
và suy niệm thì phải như thế nào ? Anh đưa ra mấy ví dụ thật cụ thể để em biết
tại sao phải đọc thêm kinh Mân Côi, hoặc đọc thêm những kinh nguyện khác để được
Chúa xót thương:
1.
Trong gia đình, khi
em có lỗi với bố thì việc đầu tiên là em đến với mẹ để nhờ mẹ mà bố tha lỗi cho
em. Mẹ em sẽ nói với em: con hãy đi pha trà mời bố uống và xin lỗi bố. Và khi
em pha trà mời bố và xin lỗi bố, thì bố của em biết đây chính là cách chỉ dạy của
mẹ em, thế là bố vui lòng bỏ qua lỗi cho em, không phải vì em pha trà ngon,
nhưng là vì đó là vì em làm theo lời mẹ chỉ bảo.
Đức Mẹ Maria dạy chúng ta đọc kinh Mân Côi không phải để thay thế cho thánh lễ, nhưng nhờ kinh Mân Côi mà chúng ta hiểu rõ và yêu mến thánh lễ hơn.
2.
Em có đọc những
truyện kiếm hiệp Tàu của Kim Dung thì chắc em biết, các nhân vật cự phách của
võ lâm thường có tính khí cổ quái, không muốn tiếp khách, không muốn chữa bệnh
cho ai cả, dù người đó sắp chết, nhưng hể có tín vật của người thân hoặc của
người mà họ tôn trọng cách đặc biệt, thì họ mới tiếp kiến hoặc chữa bệnh cho, bởi
vì khi thấy tín vật thì họ hiểu rằng, người chủ của tín vật này muốn mình chữa
bệnh cho người cầm tín vật này. Như vậy, không phải vì người bệnh tài giỏi,
nhưng vì cái tin vật của người mà vị quái nhân võ lâm ấy tôn trọng.
Đức Mẹ Maria dạy chúng ta đọc kinh Mân Côi, không phải vì kinh Mân Côi
cao trọng hơn thánh lễ, nhưng vì đọc kinh Mân Côi thì làm đẹp lòng Mẹ, nên
Thiên Chúa cũng qua kinh Mân Côi mà tha tội và ban ơn cho chúng ta.
Nói như thế không
phải Thiên Chúa có tính cổ quái lạnh lùng, nhưng đây chỉ là một hai vì dụ để em
thấy, con người tội lỗi chúng ta sẽ không là gì trước mặt Thiên Chúa, càng
không đáng để được Thiên Chúa tha tội, nhưng nhờ sự chết và sống lại của Chúa
Giê-su mà chúng ta được cứu độ, và cũng nhờ công nghiệp hiệp thông của Đức Mẹ
Maria với con của mình là Chúa Giê-su, mà chúng ta được nhận lấy lòng xót
thương của Ngài.
- KINH MÂN CÔI LÀ LỜI TÂM
TÌNH CỦA MẸ.
Khi hiện ra với ba
trẻ em ở Fatima, Đức Mẹ Maria đã bày tỏ nổi lòng yêu mến nhân loại và đau khổ
trước những tội lỗi mà nhân loại đang xúc phạm đến Thiên Chúa. Và chính Mẹ -chứ
không ai khác- hiểu rất rõ sự công bằng của Thiên Chúa, sự công bằng này luôn
nghiêng về phía yêu thương nhân loại mà Con Một của Ngài là Chúa Giê-su phải xuống
thế làm người, chịu chết và sống lại để cứu độ loài người, thế nhưng Thiên Chúa
yêu thương càng nhiều, thì nhân loại càng gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của
họ. Vì vậy. Đức Mẹ Maria chính là nơi để chúng ta –nhân loại tội lỗi- trú ẩn
trước cơn thịnh nộ bởi sự công bằng của Thiên Chúa.
Nỗi lòng của Đức Mẹ
Maria đã trãi ra khi nói với em bé Lucia: “Các
con hãy cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt Mân Côi và hãy tôn sùng trái tim
Mẹ”.
Chính những lời nói
phát xuất từ miệng của người mẹ cao cả này mà Giáo Hội tin tưởng rằng: sự kiên
nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa không còn bao lâu nữa, nên ngày càng thôi thúc
chúng ta hãy thực hiện gấp ba mệnh lệnh và cũng là ba lời tâm tình của Đức Mẹ
Maria:
Lời tâm tình thứ nhất: Hãy cải thiện đời sống.
Không một người mẹ
nào hãnh diện với hàng xóm khi có đứa con đi bụi đời, thành tích bất hảo đếm
không nổi; không có người mẹ nào nở được nụ cười khi con cái mình ngày càng hư
đốn không nghe lời dạy bảo.
Đức Mẹ Maria là mẹ
của chúng ta, Mẹ không thể nào nhắm mắt làm ngơ khi sự kiên nhẫn của Thiên Chúa
sắp hết, mà nhân loại vẫn cứ ngày càng sống trong đêm tối của tội lỗi; Mẹ cũng
không thể một mình giúp nhân loại nếu nhân loại chúng ta không cộng tác với Mẹ,
bởi vì nhân loại ngày càng lợi dụng tình yêu của Thiên Chúa ban cho để phủ nhận
Ngài, lợi dụng sự tự do để làm tất cả những gì mà tính ích kỷ của con người đòi
hỏi, kể cả những công việc mà ngay chính lương tâm của họ cũng lên án như giết
người, phá thai và bốc lột người nghèo.v.v...
Mẹ, như người mẹ
đau khổ vì những đứa con là nhân loại tội lỗi, Mẹ đang nhờ những đứa con nhỏ bé
đơn sơ để nhắc nhở nhân loại: hãy cải thiện đời sống.
Cải thiện đời sống
tức là thay đổi cuộc sống của mình từ xấu qua tốt, từ gian ác qua thánh thiện,
từ gian dối qua thật thà, từ ghen ghét qua yêu thương, từ ích kỷ qua quảng đại,
tắt một lời là thay đổi cách sống của mình để ngày càng trở nên giống Chúa
Giê-su hơn, đó chính là điều mà Mẹ muốn mỗi người trong chúng ta phải thực hiện
trước khi cơn thịnh nộ vì sự công bằng của Thiên Chúa đến.
Lời tâm tình yêu
thương chứa đựng sự van nài của Đức Mẹ Maria đến nay vẫn còn vang dội trên khắp
thế giới. Chỉ có thay đổi cuộc sống của mình thì hòa bình sẽ đến, và chỉ có
thay đổi cuộc sống của mình thì mới có thể kéo dài sự kiên nhẫn của Thiên Chúa,
và như thế cũng có nghĩa là Nước Trời thật sự đang hiện diện ở trần gian này.
Lời tâm tình thứ hai: Yêu mến Trái Tim Mẹ.
Chúa Giê-su khi còn
là bào thai trong cung lòng Mẹ Maria, thì mỗi nhịp đập tim của Mẹ là một nhịp sống
của Ngài, mỗi một hơi thở của Mẹ là một động lực thúc đẩy Ngài từng giây phút lớn
lên. Mẹ đã chia sẻ phần máu thịt của mình để làm nên hình hài của Chúa Giê-su,
và hơn ai hết, Chúa Giê-su hiểu rất rõ, cảm nghiệm sâu sắc tình mẫu tử của Đức
Mẹ Maria đối với Ngài và với nhân loại. Tình mẫu tử này đã được thể hiện trên đồi
Can-vê trước giờ hấp hối, Phúc Âm của thánh Gioan thuật lại rằng:”Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến
đứng bên cạnh. Đức Giê-su nói với
thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là
mẹ của anh”[1].
Yêu mến Mẫu Tâm Mẹ
Maria là chúng ta yêu mến Thánh Tâm Chúa Giê-su, cả hai trái tim này đều vì
nhân loại mà chịu đau khổ.
Trái tim Chúa
Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu để giọt máu yêu thương nhân loại cuối cùng trong
tim chảy ra cho hết, để nước nơi cạnh sườn Ngài chảy ra rửa sạch tội lỗi nhân
loại. Một trái tim của Mẹ Maria bị bảy lưỡi dao sắc đâm thâu[2],
khiến mẹ trở nên người mẹ đồng công cứu chuộc nhân loại với con của mình là
Chúa Giê-su, hai trái tim đồng nhịp yêu thương vì nhân loại tội lỗi bất trung.
Yêu mến Trái Tim Mẹ
là bởi vì trái tim ấy rất yêu mến loài người, đã hy sinh tất cả vì loài người,
hy sinh ngay cả người con độc nhất để cứu chuộc loài người. Yêu mến Trái Tim Mẹ
là để xoa dịu nổi đau khổ của Thiên Chúa và của Mẹ vẫn còn đang chịu hằng ngày
vì tội lỗi của loài người. Yêu mến Trái Tim Mẹ là để chúng ta biết yêu mến Chúa
Giê-su hơn khi hiệp thông với những đau khổ của Ngài phải chịu vì chúng ta.
Một người mẹ chịu
quá nhiều đau khổ thì không than trách với ai cả, mà chỉ thầm thỉ với những đứa
con nhỏ bé đơn sơ của mình mà thôi. Mẹ Maria như người mẹ hiền đau khổ vì những
đứa con ngỗ nghịch đã bày tỏ tâm tình với ba trẻ ở Fatima, bằng cách cho ba em
biết những bí mật mà Giáo Hội mà vị đại diện Chúa Giê-su ở trần gian là Đức
Giáo Hoàng phải chịu đau khổ, và nhân loại phải chịu vì những tai ươn do chính
tội lỗi của mình mang đến: chiến tranh, ôn dịch, đói khát.v.v...
Yêu mến Trái Tim Mẹ,
không phải chỉ là đọc kinh sáng tối, hay là đọc kinh Mân Côi cho thật nhiều mà
không muốn thực hành lời Mẹ dạy là ăn ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, nhưng
yêu mến Trái Tim Mẹ chính là đem con tim của mình đi yêu thương và chia sẻ những
đau khổ của Chúa Giê-su và Mẹ Maria nơi những người khác, để đền bù tội lỗi của
mình và để kéo dài sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lời tâm tình thứ ba: Siêng năng lần hạt Mân Côi.
Không có vị thánh
nào mà không yêu mến chuỗi Mân Côi, cũng có nghĩa là nói: không có vị thánh nào
mà không yêu mến Đức Mẹ Maria, chính lòng yêu mến Đức Mẹ mà các thánh siêng
năng lần hạt Mân Côi, bởi vì các ngài biết rằng, chuỗi Mân Côi là phương thế hữu
hiệu mà đơn sơ nhất để được đến gần với Thiên Chúa, bởi vì nơi kinh Mân Côi này,
các ngài nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho các ngài không những nhờ
công nghiệp của Chúa Giê-su, mà còn nhờ sự vui lòng cộng tác vào ơn cứu độ ấy của
Đức Mẹ Maria.
Chuỗi Mân Côi, như
các nhà thần học nói, chính là sách Phúc Âm rút gọn lại những mốc chính của cuộc
đời Chúa Giê-su khi ở trần gian này, mà Giáo Hội –qua mọi thời đại- đã suy tư
chiêm ngắm và chia làm hai mươi “mốc” quan trọng: từ khi sứ thần Gabriel truyền
tin cho Đức Mẹ, cho đến khi Đức Mẹ được đem về trời cả hồn lẫn xác. Hai mươi mốc
lịch sử này, chúng ta gọi là hai mươi mầu nhiệm kinh Mân Côi, và như là hai
mươi đóa hoa hồng mà Giáo Hội kính dâng tặng cho Đức Mẹ Maria, để rồi qua kinh
Mân Côi này, mà Thiên Chúa ban xuống cho chúng ta rất nhiều ơn trọng qua sự
chuyển cầu của Đức Mẹ.
Lý do mà Đức Mẹ Maria
dạy chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, không gì khác hơn là Mẹ muốn con cái của
Mẹ suy niệm đến tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho nhân loại. Bởi vì, qua
kinh Mân Côi này, mà người quyền quý cũng như người bình dân, người có học thức
cũng như người không có học thức, đều có thể suy tư và cảm nghiệm, rồi từ đó mà
diễn tả lại cuộc sống của Chúa Giê-su qua cuộc sống của mình.
Có rất nhiều người
được ơn trở lại là nhờ siêng năng đọc kinh Mân Côi, có rất nhiều người được ơn
chết lành là nhờ đọc và suy ngắm kinh Mân Côi, và nhờ kinh Mân Côi mà các linh
mục cũng như các tu sĩ nam nữ được ơn bền đỗ trong ơn gọi của mình.
Đức Mẹ Maria đã đem
hết tình mẫu tử để dạy và khuyên bảo chúng ta cách cầu nguyện bằng kinh Mân
Côi, không phải vì Mẹ muốn “chơi nổi” qua mặt Chúa như có người lầm tưởng,
nhưng chính nơi chuỗi Mân Côi này, Mẹ dạy chúng ta biết ca ngợi Thiên Chúa bằng
kinh Sáng Danh; biết dùng kinh Lạy Cha để cầu nguyện với Cha trên trời, biết ngợi
khen hồng phúc của Mẹ và kêu cầu Mẹ cứu giúp trong giờ lâm tử bằng kinh Kính Mừng,
và nhất là biết suy ngắm các mầu nhiệm cứu chuộc loài người của Chúa Giê-su.
- MẦU NHIỆM
KINH MÂN CÔI
Những lần hiện ra ở
Fatima cũng như ở Mễ Du, Đức Mẹ Maria thường thiết tha kêu gọi nhân loại: hãy
hoán cải và trở về với Thiên Chúa. Chỉ cần con người có tâm tình hoán cải, tức
là cải thiện đời sống của mình, thì Mẹ sẽ ban cho họ phương tiện để thực hành sự
hoán cải của mình, đó là kinh Mân Côi, còn gọi là chuỗi Mân Côi.
Bất cứ thời đại nào,
từ khi Đức Mẹ Maria hiện ra và dạy thánh Đa Minh truyền bá kinh Mân Côi trong
Giáo Hội, thì các Đức Giáo Hoàng đã tích cực ủng hộ truyền bá và siêng năng lần
hạt Mân Côi, coi đó như phương tiện để người tín hữu được đến gần Thiên Chúa
hơn. Đức Thánh Cha Gregory XII
cũng cho rằng: "Kinh Mân Côi được
chính Thánh Đa-minh thiết lập để làm nguôi cơn giận của Thiên Chúa và để cầu
xin Rất Thánh Trinh Nữ bầu cử”.
Trong thông diệp “Trong tháng năm (Mense Maio) Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI
đã nói: “Kinh Mân Côi rất đẹp lòng Đức Mẹ
và được các giáo hoàng khuyến khích”, và Đức Giáo Hoàng Gioan-Phao-lô II
trong bài giảng ngày 13.5.1982 tại Fatima đã nói: "Lời kêu gọi thống hối bao giờ cũng được gắn liền với cầu nguyện.
Hợp với truyền thống của bao thế kỷ, Đức Mẹ của sứ điệp này đã đề cập đến Kinh
Mân Côi, một kinh có thể được khẳng định là Kinh của Mẹ Maria, một kinh mà Mẹ đặc
biệt cảm thấy gắn liền với chúng ta."
Ngoại trừ thánh lễ ra, thì kinh Mân Côi chiếm vị trí quan trọng trong đời
sống của người Ki-tô hữu, và thực tế đã chứng minh được điều ấy, khi mà trong
các chủng viện, các dòng tu và các tu hội, cũng như các đoàn thể và cá nhân tín
hữu đều nô nức yêu mến đọc kinh Mân Côi trong các đoàn thể của mình, và đặc biệt
các gia đình công giáo đều không thể thiếu vắng kinh Mân Côi trong gia đình của
mình. Kinh Mân Côi mau chóng được các chủ chăn và con cái trong Giáo Hội đón nhận,
là vì nó như cái phao cứu hộ cứu được rất nhiều linh hồn khỏi chết đời đời
trong hỏa ngục, nó làm cho nhiều người trở về nẻo chính đàng ngay, và nhờ kinh
Mân Côi, mà Thiên Chúa ban thêm đức tin cho những người yếu đuối được vững mạnh
trong đường trọn lành...
Khi đọc và suy niệm
kinh Mân Côi với tất cả tâm hồn, thì cuộc đời của Chúa Giê-su và Mẹ Maria khi sống
ở trần gian như đoạn phim mầu nhiệm sống động trước mắt chúng ta, và nhờ đó mà
đức tin của chúng ta được tăng trưởng, lòng yêu mến của chúng ta được nhân rộng,
và lòng cậy trông của chúng ta được củng cố thêm lên.
NĂM SỰ VUI:
Chiếc phao cứu độ linh hồn.
1.
Thiên Thần
truyền tin.
Năm sự Vui kinh Mân
Côi nhắc nhở chúng ta suy niệm đến tình yêu của Thiên Chúa đã dành cho nhân loại
khi Ngài tuyên án con rắn –đại biểu cho ma quỷ và sự dữ- rằng: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và
mi sẽ cắn gót nó”[3].
Và lời hứa này đã thực hiện nơi Đức Mẹ Maria –người nữ sẽ đạp đầu con rắn- bởi
lòng khiêm tốn vâng phục thánh ý của Thiên Chúa trong ngày Mẹ được sứ thần truyền
tin.
Năm sự Vui kinh Mân
Côi được bắt đầu từ mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng Đức Mẹ
Maria bởi hai tiếng “Xin Vâng” của Mẹ, hai tiếng Xin Vâng này đã làm cho đất trời
bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của cứu độ, ân sủng và hòa bình mà muôn
dân đang trông đợi, và bởi lòng khiêm tốn và luôn đặt mình vào trong bàn tay
quan phòng của Thiên Chúa nên Đức Mẹ Maria đã trở thành kho tàng ân sủng của
Thiên Chúa –qua Chúa Giê-su- để ban phát cho tất cả những ai nhờ Mẹ để đến với
Chúa Giê-su là nguồn mọi ân sủng.
Bởi tiếng Xin Vâng
này, mà các thánh trong ngục tổ tông vui mừng, cửa thiên đàng rộng mở và tâm hồn
những người công chính như nở hoa, bởi vì ngày cứu độ đã đến rồi.
Bởi tiếng Xin Vâng
này mà Đức Mẹ Maria được chọn làm Mẹ của Thiên Chúa, như lời của thánh công đồng
Vaticanô II đã dạy rằng: “Thực vậy, khi sứ
thần truyền tin, Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn
cùng thân xác, và đem Sự Sống đến cho thế gian, nên được công nhận và tôn kính
là Mẹ thật của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Thế.”[4]
Và với ưu thế là mẹ
Thiên Chúa ấy, mà Mẹ Maria đã không đành lòng nhìn thấy Máu Thánh của Con mình
đổ ra vô ích, Mẹ không đành lòng nhìn thấy những đứa con ngày càng đi xuống vực
thẳm tội lỗi, Mẹ cũng đã không đành lòng khi thấy thời gian kiên nhẫn của Thiên
Chúa sắp hết, nên Mẹ đã ra tay can thiệp với tất cả uy quyền của người mẹ trước
tòa Thiên Chúa, để xin Ngài tha tội cho nhân loại. Thánh I-rê-nê đã nói rất chí
lý: “Chính Ngài (Đức Mẹ Maria), nhờ vâng
phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại”.
“Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho đặng ở khiêm
nhượng”, sự khiêm nhượng
này phải như khiêm nhượng của Mẹ Maria, tức là biết nhận ra thánh ý của Thiên
Chúa cách minh bạch, và rồi mau mắn đáp trả và phó thác tương lai của mình trong
tay Ngài. Con người ta thường có khuynh hướng ưa làm nổi mình dù biết mình chẳng
tài cán bao nhiêu, và thích khiêm nhượng kiểu “ống điếu” để người khác chiều
chuộng, mời mọc mới có giá trị.v.v..
Như vậy, tiếng Xin
Vâng của Đức Mẹ Maria đã trở thành chiếc phao cứu hộ của cả nhân loại, và khi
chúng ta suy niệm đến cái mốc lịch sử này, thì phải nhận ra giá trị vô giá tiếng
Xin Vâng của Đức Mẹ Maria.
2.
Đi thăm bà
Ê-li-sa-bét.
Ơn cứu độ này, niềm
vui này cần phải được chia sẻ với mọi người, trước hết là trong bà con thân thuộc,
rồi sau đó đến với người khác.
Đức Mẹ Maria là một
phụ nữ nhạy cảm, một người có tâm hồn đang tràn ngập niềm vui thiên quốc và
lòng yêu mến tha nhân, cho nên Mẹ đã không quản ngại đường sá xa xôi để đi đến
phục vụ cho người chị em của mình là bà Ê-li-sa-bét, bà cũng đang mang thai được
sáu tháng[5],
đây là một hành động của người đang có niềm vui của Thiên Chúa, niềm vui này
không thể ấp ủ hưởng thụ một mình, nhưng là cho đi, đem tới và tỏa rộng để chia
sẻ với tha nhân, nó như ánh sáng chiếu tỏa khắp nơi chứ không chiếu sáng một
mình ai, và đó chính là điểm bắt đầu của niềm vui cứu độ.
Trước mắt chúng ta
là cảnh bà Ê-li-sa-bét ngạc nhiên và vui mừng tột cùng khi Mẹ Maria đến viếng
thăm, bà ôm chầm lấy người em gái họ dễ thương và như có một sự thôi thúc đặc
biệt tự trong tâm, bà đã thốt lên: “Em được
chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc
phúc”[6], sự
thôi thúc ấy chính là Thánh Thần Chúa đã dùng môi miệng của bà Ê-lia-sa-bét để
ca ngợi hồng phúc mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ Maria. Nhưng quan trọng hơn cả
lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét, là lời chào của Đức Mẹ Maria đã làm cho thai
nhi sáu tháng tuổi trong bụng bà Ê-li-sa-bét cảm nghiệm được ơn cứu độ của
Thiên Chúa đã ưu ái đến mình nên mừng vui nhảy lên sung sướng, và hiệu quả của
lời chào này là thai nhi –Gioan Tẩy Giả- được khỏi tội nguyên tổ.
Cuộc thăm viếng lịch
sử này của Đức Mẹ Maria là chiếc phao cứu độ cho thánh Gioan Tẩy Giả, là đem niềm
vui và hạnh phúc đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Cuộc thăm viếng này, có thể
nói là Đức Mẹ Maria đã làm người tiên phong trong việc loan báo tin mừng cứu độ
của Thiên Chúa cho mọi người.
Ơn cứu độ dành cho
tất cả mọi người, chỉ có điều là có người được đón nhận trước và có người đón
nhận sau, nhưng tất cả những ai đã diễm phúc đón nhận ơn cứu độ này, thì noi
gương của Đức Mẹ Maria ra đi, đến với và cùng với tha nhân, để giới thiệu cho họ
biết về tình yêu của Thiên Chúa bằng ngay chính cuộc sống của mình.
3.
Sinh hạ Chúa
Giê-su.
Ngày tháng trông đợi
Đấng Thiên Sai đến của người Do Thái thật dài đăng đẳng, biết bao nhiêu người
đã qua đi khi trong lòng họ mong mỏi được nhìn thấy Đấng Cứu Thế, nhưng dù
không đợi chờ được thì họ vẫn cảm thấy thỏa lòng vì lời hứa ấy vẫn luôn được
các tiên tri loan báo qua các thời đại, nhất là tiên tri I-sai-a, vị tiên tri
khoảng hơn sáu trăm năm trước Chúa Giê-su sinh ra đã loan báo niềm hy vọng và
ngày cứu rỗi đến:
-
“Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng
huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu
rọi”[7].
-
Vì một trẻ thơ đã chào đời đã cứu ta, một người con đã
ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố
Vấn Kỳ Diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình”[8].
-
Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy,
sẽ mọc lên một mầm non. Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn
ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ
Đức Chúa...”[9].
-
“Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa
đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ
vươn lên”[10].
-
Này đây, người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con
trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.”[11]
Và cuộc đợi chờ nào
cũng sẽ có hồi kết thúc, Chúa Giê-su đã được Đức Mẹ Maria sinh hạ trong hang lừa
ở thành Bê-lem, làng Na-da-rét, xứ Palestine.
Mầu nhiệm nhập thế
này là cả một công trình sáng tạo của yêu thương, mà không có một kiến trúc sư
nào trên thế gian thiết kế được, chỉ có Thiên Chúa –Đấng là tình yêu- mới làm
được như thế: hy sinh Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại.
Nơi hang lừa
Bê-lem, Ngôi Hai Thiên Chúa đã làm người, một hài nhi nhỏ bé nghèo nàn, đang được
bọc trong khăn (bởi vì không có áo), đang chia sẻ thân phận nghèo khó với những
con người nghèo khó, cả tình yêu trời đất đang ở đó, Đấng cứu độ nhân loại đang
ở đó nhưng nào có ai hay ! Mẹ Maria hiểu thấu nổi thiếu thốn này như là một sự
chia sẻ của con mình với nhân loại, và như thế càng làm nổi bật tính “đồng
công” cứu chuộc nơi Mẹ hơn.
Nhưng sự nghèo khó
thiếu thốn của Mẹ không làm chùn bước các mục đồng đến thờ lạy, không làm cho
các nhà bác học xa xôi đến bái thờ Đấng Cứu Thế mới sinh ra...
Đức Mẹ Maria mời gọi
chúng ta đọc kinh Mân Côi và suy ngắm mầu nhiệm Nhập Thế này, không phải để
chúng ta cảm thấy tội nghiệp cho Chúa Giê-su và Đức Mẹ, nhưng là để chúng ta thấy
được tình yêu vô biên của Cha trên trời –qua kinh Mân Côi- và nhận ra rằng,
Chúa Giê-su chính là Đấng cứu độ nhân loại, là chiếc phao cứu rỗi các linh hồn
đang chới với giữa biển trần gian...
4.
Dâng Chúa
Giê-su trong đền thánh.
Một cái mốc quan trọng
nữa trong mầu nhiệm Nhập Thế của kinh Mân Côi –năm sự Vui- đó là suy ngắm đến
Chúa Giê-su khi mang thân phận con người như chúng ta, chịu lệ thuộc vào lề luật
của con người như tất cả mọi người khác, đó là luật dâng con trai đầu lòng cho
Thiên Chúa như luật Mô-sê chỉ định: “Mọi
con trai đầu lòng phải được thánh hiến, dành riêng cho Chúa.”[12]
Đức Mẹ Maria và
thánh cả Giu-se là những người công chính thánh thiện, luôn là mẫu gương tuân
giữ lề luật của cha ông mà dâng con trai đầu lòng của mình cho Thiên Chúa, dù
nghèo, nhưng không vì thế mà chuẩn chước cho mình khỏi tuân giữ lề luật, bởi vì
các ngài biết rằng, tuân giữ lề luật là thực hành ý Chúa truyền dạy.
Trong ngày dâng
Chúa trong đền thánh này, mọi việc liên quan đến Chúa Giê-su mà Đức Mẹ Maria đã
biết, thì giờ đây được bày tỏ công khai với mọi người qua lời tiên báo của một
người công chính và sùng đạo là Si-mê-on:
“Muôn
lây Chúa, giờ đây
Theo lời Ngài đã hứa,
Xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
Là vinh quang của Ít-ra-en dân Ngài.”[13]
Ông già Si-mê-on là
đại biểu cho những người Do Thái công chính mong đợi Đấng Cứu Thế, sự mong đợi
này Thiên Chúa đã tỏ mình đặc biệt cho ông thấy nhãn tiền Hài Nhi mà ông đang ẳm
trên tay chính là Đấng mà muôn dân trông đợi, vui sướng lắm, hạnh phúc lắm, và
Chúa Thánh Thần đã qua miệng ông đã nói với Đức Mẹ Maria rằng: “Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều
người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống
báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà...”[14]
Dâng con cho Thiên
Chúa, thay vì nhận được những lời chúc phúc thì lại nghe những lời tiên báo về
tương lai của con mình và chính mình, người mẹ nào lại không buồn bả lo âu, Đức
Mẹ Maria cũng thế, Mẹ lo âu buồn bả vì lời tiên đoán thì ít, mà vì tội lỗi của
loài người thì nhiều, và lời tiên báo này hiệu nghiệm khi Mẹ đứng dưới chân thập
giá để cùng đồng công cứu chuộc nhân loại với con mình khi một lưỡi đòng đâm
thâu cạnh nương long Chúa Giê-su, thì đồng thời cũng có một lưỡi gươm sắc bén
thiêng liêng đâm thâu qua Trái Tim cực thánh của Mẹ...
Lần hiện ra ở
Fatima với ba trẻ, Đức Mẹ Maria đã cho các em thấy được sự khốn nạn của hỏa ngục
và những linh hồn bị giam cầm trong đó, và Mẹ không muốn một đứa con nào của Mẹ
đã được Máu Thánh của Chúa Giê-su đổ ra để rửa sạch, tha thứ và ban ơn phải vào
trong hỏa ngục chịu hình phạt đời đời nữa, nên Mẹ đã nhiều lần và nhiều cách hiện
ra nhắn nhủ nhắc nhở và dạy bảo hãy ăn năn đền tội và cải thiện đời sống. Đời sống
mà ngay từ khi đón nhận bí tích Thanh Tẩy chúng ta đã trở nên con của Thiên
Chúa, được trở nên đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần và đương nhiên là đón
nhận chính cuộc sống của Chúa Giê-su vào trong cuộc sống đời thường của mình.
Dâng Chúa Giê-su
vào đền thánh, một cái mốc lịch sử của ơn cứu độ, khi suy niệm điều này, Đức Mẹ
Maria mời gọi chúng ta hãy dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa, để Ngài làm
chủ chiếm trọn lấy linh hồn và thân xác của mình, và chỉ có những ai thành tâm
dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa thì như người trôi nổi phiêu bạt long đong
trên biển cả nắm được cái phao cứu hộ, họ sẽ được sống và sống đời đời với
Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc muôn đời với Đức Mẹ Maria, các thiên thần và
các thánh nam nữ.
5.
Tìm được
Chúa Giê-su trong đền thờ.
Em thân mến,
Nếu chẳng may em
đánh mất một chiếc nhẫn kim cương quý giá mà tìm lại được, thì niềm vui của em
sẽ không bút nào tả xiết; nhưng nếu chẳng may em mất đi người thân yêu, thì nổi
buồn sẽ tăng gấp nhiều lần, bởi vì em không bao giờ được lại người thân yêu đã
ra đi nữa.
Chúa Giê-su là con
duy nhất của Đức Mẹ Maria, là cả kho tàng yêu thương và hạnh phúc của Mẹ và
thánh cả Giu-se, lạc mất Chúa Giê-su cũng có nghĩa là Mẹ đã mất cả hạnh phúc của
cả đời mình, Mẹ buồn lắm và cùng với thánh cả Giu-se tất tả tìm kiếm khắp nơi
như lời tường thuật của thánh sử Lu-ca: “Xong
kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ
chẳng hay biết, ông bà cứ tưởng cậu là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một
ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người thân thuộc. Không thấy con
đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.”[15]
Lòng dạ của người mẹ
khi lạc mất con thì như có lửa đốt cháy, nóng bừng và rối bời bời, bà chạy khắp
nơi hỏi han người này người nọ để coi có ai biết tung tích con mình không ? Đức
Mẹ Maria cũng vậy, ba ngày tìm kiếm con là ba ngày Mẹ như sống trên lửa cho đến
khi tìm gặp lại Chúa Giê-su ở trong đền thờ ngồi giữa các thầy thông thái mà
trò chuyện, và ai nghe Ngài nói cũng đều thán phục trí thông minh và những lời
đối đáp của Ngài.[16] Không
có niềm vui nào sánh bằng khi tìm lại được con mình sau ba ngày lạc mất, Đức Mẹ
Maria vừa vui mừng vùa suy nghĩ những việc vừa xảy ra để chấp nhận thánh ý của
Thiên Chúa, để chuẩn bị chia sẻ và đón chịu những nổi buồn lớn hơn sau này, khi
Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá.
Đức Mẹ Maria mời gọi
chúng ta suy niệm về việc tìm lại được Chúa Giê-su trong đền thánh của Mẹ và của
thánh cả Giu-se, là để chúng ta nhìn lại bản thân mình, đã bao lần chúng ta lạc
mất Chúa Giê-su, đã bao lần chúng ta lạc đường chính lộ, đã bao lần chúng ta đã
vì sự thế phù vân mà lạc mất đường về với tình yêu của Cha trên trời ?
Mẹ mời gọi mọi người
chúng ta hãy trở về nẻo chính đường ngay, tức là cải thiện cách sống của mình
cho phù hợp lời dạy của Chúa Giê-su. Đã có nhiều linh hồn cố chấp trước lời mời
gọi thiết tha của Mẹ nên đã bị hình phạt hỏa ngục, đã có nhiều người biết mình
lạc mất phương hướng trong đời sống tu đức, nhưng vẫn cố chấp kiêu ngạo không sửa
đổi, nên đã bị án phạt đời đời trong hỏa ngục như các linh hồn mà ba trẻ ở
Fatima đã được Mẹ Maria cho thấy.
Tìm được Chúa
Giê-su trong đền thờ là một niềm vui và là một bài học cho chúng ta, Đức Mẹ
Maria đã lo âu khi Chúa Giê-su lạc mất thế nào, thì Mẹ cũng lo âu khi lạc mất
chúng ta như vậy, đó là niềm hy vọng và là niềm vui của những người con tội lỗi
là chúng ta. Mau mắn trở về với Chúa và từ bỏ con đường lầm lạc để trở lại con đường
mà Chúa Giê-su và Đức Mẹ Maria đã đi qua, đó là con đường hẹp, đường lên núi Sọ,
đường đưa đến hạnh phúc đời đời.
NĂM SỰ THƯƠNG
Con đường hẹp cứu rỗi linh hồn
1.
Chúa Giê-su
lo buồn đổ mồ hôi máu.
Có lẽ trong các mầu
nhiệm của kinh Mân Côi, không có mầu nhiệm nào làm cho chúng ta cảm động và thấy
mình quá tội lỗi cho bằng mầu niệm thương khó –năm sự Thương- này, bởi vì khi
suy ngắm đến những đau khổ mà Chúa Giê-su phải chịu vì tội lỗi nh ân loại và của chúng ta, thì không một
ai trong chúng ta cảm thấy mình là người tốt lành thánh thiện cả, bởi vì Chúa
Giê-su là Đấng thánh đã trở nên như một tội nhân, thì chúng ta là cái gì trước
mặt Thiên Chúa ?
Nơi vườn Ghết-sa-ma-ni,
Chúa Giê-su đã cầu nguyện với Cha trên trời, thánh Mát-thêu đã thuật lại như
sau: “Bấy giờ Đức Giê-su đi cùng với các
ông đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: “Anh em ngồi
lại đây, Thầy đến đằng kia cầu nguyện.”[17]
Trong cơn đau buồn
nhất của con người, Chúa Giê-su đã khước từ sự ồn ào của những người thân, Ngài
muốn yên tĩnh một mình để suy nghĩ đến những đau khổ mà trong giây lát nữa đây
mình sẽ phải chịu. Chúa Giê-su cầu nguyện lâu giờ với Chúa Cha, cũng có nghĩa
là Ngài đang đắm mình trong sự vâng phục ý Cha trên trời, coi ý Cha là lẽ sống
của mình, và dù cho dù Ngài có can đảm đến đâu thì sự sợ hãi vẫn cứ xâm chiếm
tâm hồn Ngài trong chốc lát, khi Ngài thốt lên: “Lạy Cha,, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì
xin câng ý Cha.”[18]
Ý của Cha là con phải
hy sinh, một thứ hy sinh mà đến các thiên thần thông minh sáng láng mà cũng
không hiểu nổi, nột thứ hy sinh mà chính ngay ma quỷ trong hỏa ngục cũng vò tai
bức tóc cũng không nhận ra đó là Đấng cứu độ trần gian, là Đấng mà ngày xưa
trong vườn địa đàng Thiên Chúa đã nói với con rắn –sa tan- rằng: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và
mi sẽ cắn gót nó”[19].
Đức Mẹ Maria khi hiện
ra đã lần chuỗi Mân Côi chung với những người mà Mẹ chọn (ba trẻ Lucia,
Jancintha, Phanxico ở Fatima, và Bernadette ở Lộ Đức), chắc chắn Mẹ cũng rất
đau khổ khi suy đến cảnh Chúa Giê-su đang cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-ni:
mồ hôi và máu chảy ra, và thật cô đơn khi các môn đệ đã ngủ say. Mồ hôi và máu
chảy ra đó, không phải là do làm việc mệt nhọc mà chảy mồ hôi, cũng không phải
do bị thương tích mà chảy máu, nhưng là do tự nổi đau khổ tột cùng ở trong tâm
hồn đã làm đứt các mạch máu và máu chảy ra, nổi đau khổ tột cùng này chính là
Chúa Giê-su đã thấy trước những vô ơn bội nghĩa của nhân loại, nhìn thấy những
tội lỗi mà nhân loại đã xúc phạm đến tình yêu vô biên của Ngài dành cho họ.
Đã có những lần
chúng ta đau buồn vì bị người thân khinh dể, bị người tình phản bội, đã có những
lần chúng ta cảm thấy buồn chán thất vọng vì chung quanh mình không tìm ra được
người bạn thân biết thông cảm và chia sẻ những nổi buồn với mình. Chúa Giê-su
trong vườn Ghết-sê-ma-ni còn đau buồn hơn chúng ta nhiều lần, bởi vì tất cả những
tội lỗi của chúng ta mà Ngài phải gánh lấy trên thân mình, đang làm cho Ngài
đau khổ đến nổi mồ hôi máu chảy ra.
Đức Mẹ Maria đã nhiều
lần nhắn nhủ loài người hãy ăn năn đền tội, hãy cải thiện đời sống của mình, để
làm dịu bớt đi những đau khổ mà Chúa Giê-su vẫn đang chịu vì chúng ta, để lau
đi những mồ hôi máu đang làm cho Chúa Giê-su như đang hấp hối, không phải trong
vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng là hằng ngày trong các nhà tạm trong nhà thờ lớn nhỏ
trên khắp thế giới.
Chỉ có thật lòng hối
cải tội lỗi của mình mới thật là con đường để được tha tội và dẫn đưa chúng ta
đến sự cứu rỗi đời đời.
2.
Chúa Giê-su
chịu đánh đòn.
Một hình hài đang
quằn quại dưới những đòn roi vọt dã man của những người lính Rô ma, một con người
đã từng đưa tay thi ân giáng phúc cho nhiều người, giờ đây hai cánh tay bị trói
vào cột đá để chịu người đời trả ơn bằng những đòn roi tủi nhục. Chúa Giê-su
đó, hình hài của Ngài đang biến dạng dưới những đòn roi của quân lính, thân thể
Ngài đang bị xâu xé tả tơi bởi những cây roi sắt đánh vào, không một tiếng rên
la, không một lời oán trách, như lời tiên báo của tiên tri I-sai-a đã nói về
Ngài trong bài người Tôi Trung của Thiên Chúa :
-
“Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.”[20](Is
50, 6)
Đức Mẹ Maria mời gọi
chúng ta suy niệm giây phút bị đánh đòn này của Chúa Giê-su, để chia sẻ những
đau khổ tủi nhục mà Ngài phải chịu vì tội lỗi của chúng ta. Chính Mẹ, dù rằng
không đến tận nơi trói giữ Chúa Giê-su để nhìn thấy thân xác con mình đang bị
hành hạ, nhưng tình thương và quả tim của Mẹ đã cảm nghiệm được những đau khổ ấy,
qua tiếng hét tiếng la man rợ của những tên lính không hề xúc động trước những
đau đớn của người khác, và những ngọn đòn chí tử ấy như quất vào thân xác, vào
con tim của Mẹ, làm cho Mẹ trở nên Đấng đồng công cứu chuộc loài người với con
mình.
Trong tông thư “Kinh
Rất Thánh Mân Côi” gởi cho các giám mục, linh mục và giáo hữu, Đức Giáo Hoàng
Gioan Phao-lô II đã nói: “Sự đau khổ hèn
hạ đó mặc khải không những tình yêu Thiên Chúa nhưng còn ý nghĩa của chính con
người nữa”. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người thì đã quá rõ qua
việc Chúa Giê-su -Con Một Ngài- đã chịu chết trên thập giá, nhưng ý nghĩa của
con người thì nhân loại chưa nhận ra được tình yêu cao trọng này của Thiên
Chúa, cho nên, nhân loại vẫn cứ mãi mê trong những đam mê tội lỗi, mà mỗi lỗi
phạm của con người là mỗi đòn roi sắt đánh vào thân mình của Chúa Giê-su.
“Chúa Giê-su chịu đánh đòn, ta hãy xin cho được hãm mình chịu khó bằng
lòng”, nhờ lời dạy của Giáo Hội mà
chúng ta biết hy sinh đời sống hưởng thụ của mình, biết bằng lòng với những gì
mà Thiên Chúa ban cho mà không so đo phân bì với người khác, đó chính là con đường
hẹp để được cứu rỗi của chúng ta, và đó cũng là một trong những lòng nhắn nhủ
tha thiết của Đức Mẹ Maria qua những lần hiện ra với con cái loài người, và nhất
là trong bí mật thứ ba ở Fatima, chị Lucia đã đã thuật lại như sau: “Sau hai phần mà con đã giải
thích, phía bên trái của Ðức Bà và cao hơn một ít, chúng con đã thấy một Thiên
thần cầm một thanh gươm bằng lửa nơi tay trái; nó lấp lánh và phát ra những tia
lửa dường như sẽ đốt cháy thế gian; nhưng chúng tắt ngúm khi chạm đến ánh quang
chiếu toả từ tay phải của Ðức Bà hướng về trần gian: chỉ về trái đất bằng tay
phải, Thiên thần lớn tiếng thốt lên: ‘Ðền
tội, Ðền tội, Ðền tội!”.
3.
Chúa Giê-su chịu đội mão gai.
Chúa Giê-su là vua
cả trời đất, không một triều thiên vương miện nào trên thế gian này có thể đội
trên đầu của Ngài, vì không xứng đáng. Nhưng khi đã trút tất cả vinh quang và mặc
lấy thân nô lệ trở nên một kẻ phàm nhân[21],
bị những người Pha-ri-siêu và các kinh sư vì ghen ghét mà kết án tử hình, thì
mũ triều thiên của Ngài chính là vòng gai nhọn bện lại thành cái vòng đóng vào
đầu để làm trò cười nhạo báng của quân lính.
Cái vòng gai nhọn ấy
tượng trưng cho những tội kiêu ngạo của loài người, khi mà con người ngày càng
chối bỏ Thiên Chúa trong cuộc sống của mình; chính những kiêu ngạo ấy đã làm
cho con cái của Giáo Hội bị chia rẻ, tấm áo tinh tuyền của Chúa Giê-su bị xé ra
thành nhiều mảnh nhỏ, để rồi trở thành vòng gai nhọn đóng vào đầu của Chúa
Giê-su.
Chúa Giê-su chịu đội
mão gai tức là Ngài chịu gánh lấy tất cả tội của loài người trút lên đầu Ngài,
qua những trận đòn và những lời nhạo báng xúc phạm của những người linh dã man.
Khi suy ngắm đến thảm
kịch nhạo báng này của những người lính Rô ma dành cho Chúa Giê-su, chúng ta giận
dữ lòng sục sôi vì quân vô đạo này đã tàn nhẫn với Chúa Giê-su là Đấng thánh,
chúng ta ước ao có được quyền phép để trừng phạt những tên lính độc ác ấy để cứu
Chúa Giê-su. Nhưng có lúc nào chúng ta tự xét mình: chính tôi là tên lính đã đội
mão gai, đã nhạo cười Chúa Giê-su bằng cuộc sống bê tha tội lỗi của mình, chính
tôi đã dùng những ghét ghen, kiêu căng, nói xấu, vu khống, tham lam, dục vọng bện
lại thành một vòng gai nhọn để đội trên đầu của Chúa Giê-su
Đức Mẹ Maria vẫn
tha thiết kêu gọi chúng ta đừng phạm tội nữa, đừng trở thành những tên lính
đánh đòn nhạo báng Chúa Giê-su nữa. Mẹ kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối, cải
thiện đời sống và hy sinh thật nhiều, bởi vì chỉ có những việc làm như thế, mới
mong mão gai trên đầu Chúa Giê-su trở nên nhẹ nhàng, và án phạt của Thiên Chúa
cũng sẽ cất khỏi trên đầu chúng ta.
“Chúa Giê-su chịu đội mão gai” Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin cho được chịu mọi sự sỉ nhục bằng lòng. Bởi
vì chỉ có chấp nhận chịu sỉ nhục mới đánh tan được kiêu ngạo, biết bằng lòng chịu
những hiểu lầm, ghét ghen của tha nhân, mới có thể chấp nhận đội mão gai khiêm
nhường của Chúa Giê-su. Đó chính là con đường hẹp dẫn đưa chúng ta đến nguồn ơn
cứu độ.
4.Chúa Giê-su chịu vác cây thánh giá.
Chỉ có ăn năn hối cải
và đền tội, thì chúng ta mới có thể làm nhẹ bớt sự công thẳng của Thiên Chúa sắp
trút xuống trên thế gian, và chỉ có đền tội mới có thể trở thành một ông Simon
thứ hai vác đỡ thánh giá với Chúa Giê-su, tức là chia sẽ những đau khổ do tội
đang trở thành cây thánh giá nặng nề trên thân thể Chúa Giê-su. Đức Mẹ Maria hiểu
thấu những nặng nề đau khổ của Chúa Giê-su, bởi vì Mẹ cũng chen chúc trong đám
đông hiếu kỳ để nhìn cho tường tận khuôn mặt “chẳng còn hình tượng người ta nữa”
của Con mình, đang lê lết đôi chân vác thập giá đi ra pháp trường để chịu chết.
Lòng Mẹ quặn thắt lại, đau đớn vô cùng như chính Mẹ vác cây thập giá vậy.
Đường lên núi Sọ
không bằng phẳng dễ đi, nhưng dốc đá gồ ghề, với thân xác bị đánh tả tơi suốt một
đêm,Chúa Giê-su thật sự sức đã kiệt lực đã cùng, nhưng vẫn cứ gắng gượng để làm
tròn bổn phận mà Cha đã giao phó cho mình.
Chúng ta dễ dàng nổi
quạu khi trách nhiệm nặng nề đè trên vai của chúng ta, chúng ta dễ dàng oán
trách người khác khi thấy họ thong dong tự tại, chúng ta cũng dễ dàng tự mãn
khi làm được nhiều công việc, và dù muốn hay không thì tất cả cũng đều là thánh
giá của chúng ta phải vác trong cuộc sống của mình, để cùng đồng hành với Chúa
Giê-su trên đường lên núi Sọ, và đó cũng là điểm vinh quang của người Ki-tô hữu,
bởi vì khi chết đi là khi bắt đầu cuộc sống mới với Thiên Chúa ngay tại trần
gian này.
Trên đường lên núi
Sọ, cây thánh giá của Chúa Giê-su đã là cớ vấp phạm cho nhiều người đi theo để
bàn tán: người thì đấm ngực ăn năn, kẻ thì nhạo báng chê cười, người thì suy
nghĩ những việc đang xảy ra trước mặt. Và Đức Mẹ Maria cũng đang đi theo đám
đông ấy, nhưng không ồn ào la hét, chỉ nhìn theo con để khóc và chia sẻ cây
thánh giá cứu độ vói con mình.
Hôm nay, có nhiều
nơi trên thế giới, thánh giá cũng là một cớ vấp phạm cho nhiều người như lời của
ông già Si-mê-on đã tiên báo khi Chúa Giê-su được cha mẹ dâng vào đền thánh: ““Cháu bé này được đặt làm duyên cớ cho nhiều
người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống
báng. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà...”[22]
và thánh giá vẫn còn mãi mãi là án phạt cho những ai luôn chối bỏ chân lý là
Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, và thánh giá cũng là biểu hiệu của ơn cứu
độ và đem lại sự sống viên mãn cho những ai tin vào Đấng đang bị treo trên nó:
Chúa Giê-su.
Điểm cuối cùng của
chặng đàng thánh giá là núi Sọ, nơi để hành hình các tội trọng phạm, Chúa
Giê-su đang đứng nơi mà mình sẽ là người làm ứng nghiệm lời của Đức Chúa đã phán
dạy ông Mô-se ngày xưa trong hoang địa khi dẫn dân Do Thái vể miền đất hứa:”Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một
cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” Ông
Mô-se bèn làm một con rắn đồng và treo lên một cây cột, và hể ai bị rắn cắn mà
nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.”[23]
Lời của Đức Chúa lát nữa đây sẽ ứng nghiệm khi Chúa Giê-su bị đóng đinh vài thập
giá, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho những ai nhìn lên “Đấng đã bị đâm thâu” và
được sự sống đời đời.
Đức Mẹ Maria đã chứng
kiến cảnh quân lính lột áo Chúa Giê-su ra, đã tận mắt nhìn thấy từng cái đinh với
âm thánh chát chúa của búa tạ đóng vào trên tay chân con của mình vào cây gỗ
giá, nổi đau vô vàn của Chúa Giê-su đang thấm thấu vào trong tâm hồn của Mẹ, Mẹ
như bị những cái đinh to lớn ấy đóng vào trong tim của mình, bởi vì tay chân
hình hài đang quằn quại trên cây gỗ giá ấy chính là hình hài được Mẹ cưu mang
trong dạ chín tháng mười ngày, được máu thịt và hơi thờ của Mẹ nuôi sống từng
ngày để giờ đây trở thành tế phẩm dâng lên Chúa Cha để xin Ngài tha tội cho
nhân loại tội lỗi.
Tại sao Chúa Giê-su
bị đóng đinh chân tay vào thánh giá thì chúng ta đã hiểu rõ, bởi vì chính Ngài
đã yêu thương nhân loại, yêu thương chúng ta mà vâng lời Chúa Cha để chịu nhiều
đau khổ, như lời trong thư gởi tín hữu Do Thái đã viết: “Dầu là Con Thiên Chúa , Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học
được thế nào là vâng phục.”[24]
mà cái đau khổ tột cùng nhất trong các đau khổ chính là sự phản bội của người
mà mình đã hy sinh cho họ.
“Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thánh giá, ta hãy xin cho được đóng đinh
tính xác thịt vào thánh giá Chúa.”
Tay của Chúa Giê-su
bị đóng vào thánh giá để cho chúng tay của chúng ta được vươn tới với những người
đang cần chúng ta giúp đỡ, để tay của chúng ta trở thành tay của Chúa Giê-su an
ủi xoa dịu những vết thương tích nơi người bất hạnh, để tay của chúng ta vươn
ra nắm lấy những bàn tay đang ngã xuống vũng sâu của đam mê trụy lạc; chân của
Chúa Giê-su bị đóng đinh vào thánh giá là để cho chân của chúng ta ra đi rao giảng
tin mừng Nước Trời, để chân của chúng ta rảo bước đến với những nơi mà bóng tối
bất công đói nghèo dang ngự trị, chân của Chúa Giê-su bị đóng vào thánh giá là
để chân của chúng ta đi đến nhà thờ thay cho những người ao ước đến mà không được...
Cây thập giá được dựng
đứng lên trên đồi cao với hình hài đẩm máu của Chúa Giê-su, thì đối với những
người Pha-ri-siêu và các kinh sư thì coi như đã giải quyết được một vấn đề liên
quan đến quyền lợi và uy tín của họ, cái gai trong mắt họ đã được nhổ ra và
treo trên thập giá. Người bị họ kết án tử và treo trên thập giá ấy, chính là Đấng
sẽ xét xử họ trong ngày thế mạt, Đấng mà họ coi như một tử tội ấy sẽ là Đấng ngự
xuống uy nghiêm trên mây trời để phán xét thế gian[25].
Trong những lần hiện
ra tại thành phố Akita - Nhật Bản, vào ngày 3.8.1973 Đức Mẹ Maria đã nói cho nữ
tu Sumako Sugawara biết: “Rất nhiều người đang gây buồn phiền cho
Chúa. Mẹ muốn nhiều linh hồn an ủi Ngài để làm dịu cơn thịnh nộ của Chúa Cha.
Cùng với Con của Mẹ, Mẹ muốn nhiều linh hồn dâng những đau khổ và khó nghèo của
mình, để đền tạ cho kẻ tội lỗi và những kẻ vô ơn bội nghĩa.”
Ngày hôm nay, nhân loại vẫn còn đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá bằng
những tội lỗi của mình, các con cái Mẹ vẫn còn đóng đinh người Anh Cả của mình
bằng những tội bất trung, bằng những thói hư tật xấu, bằng những ghen ghét bon
chen, bằng những sự phạm thánh mà chính Mẹ đã báo cho nữ tu Sumako Sugawara rằng:
“Thế lực ma quỷ sẽ xâm nhập vào trong Giáo Hội, đến
nỗi người ta sẽ thấy Hồng y chống đối Hồng y, Giám mục chống đối Giám mục. Những
linh mục có lòng sùng kính Mẹ sẽ bị chính đồng bạn của họ khinh miệt và chống đối...” Lời tiên báo này
của Mẹ đang ứng nghiệm trên khắp thế giới, khi mà những con cái ưu tuyển của Mẹ,
các môn đệ của Chúa Giê-su vẫn có những người muốn chối bỏ ân sủng mà mình đã
lãnh nhận từ nơi Giáo Hội, để rồi trở thành những người lính đóng đinh Chúa
Giê-su vào thánh giá một lần nữa.
5.Chúa Giê-su chịu chết trên thánh giá.
Phúc Âm của thánh
Mat-thêu thuật lại rằng:“Từ giờ thứ sáu,
bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su
kêu lớn tiếng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, lạy
Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con... ...Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn,
rồi trút linh hồn?”[26]
Chúa Giê-su đã chết
thật trên cây thánh giá, Ngài đi qua sự chết khổ nhục để phục sinh vinh quang,
và từ đó sự chết không còn quyền gì trên Ngài nữa.
Chúa Giê-su đã chết
trên cây thánh giá, các môn đệ thất vọng tán loạn, những người Pha-ri-siêu và
các kinh sư hớn hở vui mừng, và những người đạo đức thì đau buồn, người tội lỗi
ăn năn sám hối. Cái chết của Chúa Giê-su là khơi nguồn sự sống cho những ai tin
vào Ngài bắt đầu từ người lính dùng lưỡi đồng đâm cạnh nương long Chúa Giê-su
đã chứng thực Ngài là Con Thiên Chúa[27],
và viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giê-su, khi thấy Ngài tắt thở liền
nói: “Quả thật, người này là Con Thiên
Chúa.”[28]
Chúa Giê-su đã chết
để dụ ngôn hạt lúa mì của Ngài nói với các môn đệ biến thành sự thật nơi Ngài: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó
mới sinh được nhiều hạt khác.”[29]
Ngài chính là hạt lúa từ trời xuống và được Cha gieo vào trần gian, để rồi chết
đi bởi những thế lực của tội ác, và sống lại vinh quang để trở nên nguồn sống
cho những kẻ tin vào Ngài.
Đức Mẹ Maria khi đối
diện với sự thật này, Mẹ vẫn đứng vững vàng dưới chân thánh giá như một Ki-tô hữu
tham dự thánh lễ đầu tiên của con mình trên thánh giá. Mẹ đã thực sự cộng tác với
Thiên Chúa trong chương trình cứu độ loài người, đã đồng công với Chúa Giê-su,
không những chia sẻ những vui buồn với Ngài, mà còn chia sẻ con đường khổ giá của
Ngài để đem ở cứu độ cho nhân loại.
“Chúa Giê-su chịu
chết trên thánh giá” Giáo Hội kêu mời chúng ta đóng đinh tính xác thịt mình vào
thánh giá với Chúa Giê-su, là con đường hẹp dẫn đưa chúng ta đến sự cứu rỗi đời
đời.
Đóng đinh xác thịt
mình vào thánh giá, đau lắm, khốn khổ lắm, nhưng Chúa Giê-su đã làm như thế để
bày tỏ tình yêu thương của Ngài dành cho chúng ta. Giáo Hội kêu gọi chúng ta
chia sẻ vào cuộc thương khó của Chúa Giê-su và sự chết của Ngài bằng những hy
sinh nho nhỏ, bằng những đóng đinh thú vui dục vọng, thú vui ăn uống, thú vui
thỏa mãn tính tò mò, để chúng ta trở thành những hạt lúa được Chúa Giê-su gieo
vào dòng đời thế gian, được trổ sinh nhiều hạt lúa tốt đẹp và trở nên bánh cho
tha nhân hưởng dùng.
NĂM SỰ MỪNG
Niềm vui cứu độ
1.
Chúa Giê-su
sống lại.
Thánh Phao-lô tông
đồ rao giảng cho giáo đoàn Cô-rin-tô về Chúa Giê-su sống lại như sau: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em
chinh điều mà tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta,
đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy,
đúng như lời Kinh Thánh.”[30] Chúa
Giê-su đã sống lại, như lời Ngài đã mạc khải cho các người Pha-ri-siêu, nhưng
có lẽ vì đầu óc kiêu ngạo mà họ không tin hoặc không muốn biết: “Quả thật, ông Giô-na ở trong bụng kình ngư
ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm
như vậy.”[31]
Chúa Giê-su đã sống
lại như lời các thiên sứ đã báo cho hai
bà Maria Magdala và một bà Maria khác: “Này
các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người
không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói.”[32]
Chúa Giê-su đã sống
lại vả đang giải thích Sách Thánh cho hai môn đệ trên đường Em-mau: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh
thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ
hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?”[33]
Và còn rất nhiều bằng
chứng để cho chúng ta biết được và tin rằng: Chúa Giê-su đẵ sống lại thật rồi,
và từ đây tiếng hát vui mừng Alleluia sẽ được vang xa đến tận chân trời góc biển,
và kéo dài cho đến khi Chúa lại đến lần thứ hai trong vinh quang để phán xét kẻ
sống và kẻ chết.
Chúa Giê-su đã sống
lại là niềm tin căn bản của người Ki-tô hữu, một niềm tin mà nếu không có ân sủng
đặc biệt thì chắc chắn không một ai tin được, bởi vì như một số người ác cảm với
Giáo Hội, chống đối Thiên Chúa , đã nói rằng, Chúa Giê-su sống lại chỉ là chuyện
cổ tích hoang đường của các môn đệ Ngài bịa đặt láo khoét. Thế nhưng, dù họ tin
hay không tin, công nhận hay phủ nhận, thì Chúa Giê-su vẫn cứ là Thiên Chúa làm
người, Đấng đã từ trong cõi chết sống lại, và muôn đời sự chết sẽ không còn làm
chủ được Ngài nữa, mà trái lại, muôn loài trên trời dưới đất đều phải tùng phục
quyền bính của Ngài, bởi vì trong Ngài mà mọi loài được tạo thành[34].
Đức Mẹ Maria –Đấng
đồng công cứu chuộc loài người- đã chờ đợi từng giây từng phút lịch sử này, giờ
đây đã rất vui mừng vì Con mình đã sống lại, và Mẹ càng vui mừng hơn nữa khi
nhân loại, từ đây, sẽ nhận biết bao là ân sủng từ trời xuống bởi sự sống lại của
Chúa Giê-su.
Hạt lúa mì gieo vào
lòng đất giờ đây đã nẩy mầm, sự sống bất diệt –Chúa Giê-su – từ đây sẽ không
bao giờ chết nữa. Các thiên thần vui mừng vì thần dữ sa tan từ đây sẽ không còn
quyền lực gì trên sự sống, các thánh trong ngục tổ tông vui mừng vì họ đã thoát
khỏi cảnh giam cầm trong tối tăm để lên thiên đàng với Chúa Giê-su, người thế
vui mừng, vì từ đây họ sẽ được hạnh phúc đón nhận lại thiên chức làm con của
Chúa qua sự chết và sống lại của Chúa Giê-su. Cả trên trời dưới đất đều vui mừng,
và triều thiên vinh quang bất diệt thuộc về Chúa Giê-su –Đấng Thiên Chúa làm
người- như trong sách Khải Huyền đã viết:
“Con Chiên đã bị giết xứng đáng nhận quyền năng
và Thiên Tính, sự khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và phúc lộc. Lạy
Chúa, Chúa đã cứu chuộc chúng con trong máu Chúa, chúng con thuộc mọi chi tộc,
mọi ngôn ngữ, mọi sắc dân, mọi quốc gia, Chúa làm cho chúng con trở thành vương
tước và tư tế của Thiên Chúa, và chúng con sẽ thống trị trái đất.”[35]
“Chúa Giê-su đã sống lại” Giáo Hội cầu xin cho mỗi
người trong chúng ta sống lại thật về phần linh hồn.
Sống lại thật về phần linh hồn, tức là ăn năn đền tội và cải thiện đời sống
như Đức Mẹ Maria dạy, bởi vì chỉ có thật lòng cải thiện, thật lòng thay đổi cuộc
sống cũ qua cuộc sống mới của mình mới có thể sống lại với Chúa Giê-su.
Sự thay đổi thật nào có đau khổ, hy sinh và rướm máu thì sự thay đổi ấy
mới có giá trị, như Chúa Giê-su đã đi từ đau khổ qua sự chết để đến vinh quang
phục sinh. Các môn đệ của Ngài cũng không đi ra khỏi quỷ đạo ấy, tức là đi theo
con đường mà Chúa đã đi qua, như lời Ngài nói với thánh Tô-ma: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự
sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”[36] và chỉ có con đường
này mới làm cho chúng ta phục sinh với Chúa Giê-su mà thôi.
Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết là một phép lạ vĩ đại nhất để chứng tỏ
Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật, cũng như để củng cố niềm tin cho các
tông đồ. Ngài chính là sự cứu rỗi của nhân loại và là niềm hy vọng của những
người tin kính và yêu mến Ngài.
2.
Chúa Giê-su lên trời.
Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gởi cho giáo đoàn Ê-phê-xô đã viết: “Khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết,
và đặt ngự bên hữu Người trên trời.”[37]
Mầu nhiệm kinh Mân Côi không dừng lại ở việc suy niệm Chúa Giê-su sống lại
mà thôi, nhưng còn mời gọi chúng ta tiếp tục suy ngắm quê hương thật của chúng
ta là thiên đàng, nơi mà Chúa Giê-su đang ngự bên hữu Chúa Cha sau khi sống lại
từ cõi chết. Lên trời tức là lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nơi mà Chúa
Giê-su đã khước từ vinh quang để xuống thế mặc xác phàm nhân như con người, ngoại
trừ tội lỗi. Để từ đây Chúa Giê-su “từ
cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.”[38]
Mỗi người chúng ta đều có một quê hương tạm ở trần gian và một quê hương
thật ở trên trời; quê hương tạm là nơi để chúng ta đền tội, lập công, là nơi để
chúng ta chuẩn bị cho ngày hội ngộ với Thiên Chúa trên thiên đàng mai sau, tuy
nhiên, việc được về quê thật hay không là tùy thuộc vào những công việc mà
chúng ta làm ở trần gian này. Nếu ở trần gian này chúng ta biết nghe và thực
hành Lời Chúa dạy, thì việc sẽ được cư ngụ vĩnh viễn trên thiên đàng sẽ là hiện
thực, nhưng nếu chúng ta sống như những người con của tội lỗi, của ma quỷ,
nghĩa là chúng ta sống theo dục vọng, để bản năng thống trị ý chí tinh thần mà
trở thành công cụ của ma quỷ, thì chắc chắn nơi ở của chúng ta trên trời sẽ bị
người khác chiếm đoạt.
Tại sao Chúa Giê-su phải xuống thế làm người, bởi vì Thiên Chúa muốn
chúng ta nhờ Ngài mà được lên thiên đàng; tại sao Chúa Giê-su phải chịu chết
trên thánh giá, bởi vì ý Thiên Chúa muốn nhờ Ngài mà chúng ta được dự phần
thiên đàng; tại sao Đức Mẹ Maria lại luôn thôi thúc chúng ta ăn năn đền tội cải
thiện đời sống, là bởi vì Mẹ biết rằng,
nếu không ăn năn hối cải thì chúng ta sẽ đời đời xa cách Thiên Chúa mà nhập bọn
với ma quỷ trong hỏa ngục.
Giáo Hội mời gọi chúng ta yêu mến ái mộ những sự trên trời khi suy ngắm
mầu nhiệm lên trời của Chúa Giê-su, bởi vì nếu không yêu mến những hạnh phúc mà
các thánh đã đạt tới trên thiên đàng, thì chúng ta không thể nào sống đẹp lòng
Chúa ở trần gian này được.
Yêu mến và ái mộ những sự trên trời, tức là yêu mến Cha và mong đợi ngày
được sum họp với Cha trên trời, đó cũng chính là điều mà Chúa Giê-su đã mạc khải
cho chúng ta khi dạy chúng ta cầu nguyện với Cha trên trời: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời...”[39]
Đức Mẹ Maria từ trời hiện xuống để dạy dỗ con cái mình biết thực hành ý
của Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường, để ngày sau được hưởng thiên đàng với
Chúa, với Mẹ, với các thiên thần và các thánh nam nữ. Đó cũng là mục đích sống ở
đời này của chúng ta.
3.
Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Trước khi về trời, Chúa Giê-su đã hứa ban Chúa Thánh Thần xuống cho các
tông đồ: “Anh em không cần biết thời giờ
và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của
Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”[40]Và việc trước tiên
mà Chúa Giê-su sau khi về trời ngự bên hữu Chúa Cha phải làm là ban Chúa Thánh
Thần xuống cho các tông đồ, để Thánh Thần trở nên Thần Khí, Đấng an ủi, Đấng bảo
trợ của các tông đồ và tất cả những kẻ tin vào Ngài.
Thánh sử Lu-ca trong sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại việc Chúa Thánh
Thần hiện xuống trên các tông đồ như sau: “Khi
đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu lại một nơi, bỗng từ trời phát ra một
tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ
thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống trên từng
người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng
khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho.”[41] Chúa Thánh Thần
là Đấng an ủi mà Chúa Giê-su sai đến nhân danh Ngài để giúp các tông đồ trong
giai đoạn “mồ côi” này, chính Ngài –trong ngày lễ Ngũ Tuần- đã khai sinh Giáo Hội
Chúa Ki-tô ở trần gian, chính Ngài hướng dẫn Giáo Hội đi theo đường hướng mà
Chúa Giê-su đã vạch ra cho các tông đồ trong những ngày giàng dạy tại trần gian
là: yêu thương, hiệp nhất và phục vụ.
Hiệu quả của ơn Thánh Thần ban cho các tông đồ ngay lập tức khi đón nhận
là ơn nói tiếng lạ, bởi vì Thánh Thần là thầy dạy, nên Ngài biết nhu cầu cấp
thiết trong giai đoạn sơ khai của Giáo Hội là truyền đạt tin mừng Nước Trời cho
muôn dân thiên hạ, chứ không riêng gì cho dân tộc Do Thái. Và như một cơ hội hiếm
có -mà như có bàn tay Chúa sắp đặt- trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, rất
đông người đến tham dự, đủ mọi dân tộc, mọi thứ ngôn ngữ, và nắm bắt cơ hội
này, các tông đồ lập tức nói về Chúa Giê-su cho mọi người nghe, và ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của
mình.[42]
Chúa Thánh Thần hiện xuống để khai mở lòng trí các tông đồ, để các ngài
nhớ lại những gì mà Chúa Giê-su đã dạy các ông, và từ đó các tông đồ đã mạnh dạn
ra đi rao truyền Phúc Âm cho mọi người. Chính trong ngày Chúa Thánh Thần hiện
xuống, Đức Mẹ Maria cũng đã hiện diện giữa các tông đồ, Mẹ cũng được diễm phúc
đón nhận Chúa Thánh Thần, như một dấu chỉ và điềm báo trước là từ nay Đức Mẹ
Maria có một vị thế rất quan trọng trong Giáo Hội của Chúa Ki-tô ở trần gian,
và Mẹ đã nên Đấng cầu bàu cho chúng ta và Chúa Giê-su.
Giáo Hội của Chúa Ki-tô được lập ra vì trần gian và cho trần gian, nhưng
không phải của trần gian, do đó cần phải được Chúa Thánh Thần hướng dẫn và dạy
bảo, chính nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội Công Giáo đã đi suốt
chặng đường lịch sử hơn hai ngàn năm và sẽ tồn tại cho đến khi viên mãn trong
Nước Trời, tức là ngày Chúa Giê-su lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống
và kẻ chết.
Đức Mẹ Maria ngay từ khi sứ thần Gabriel truyền tin,
đã được sung mãn ơn Chúa Thánh Thần, và nhờ Thánh Thần soi sáng mà Mẹ mau mắn
nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa sẽ thực hiện trên trần gian, do đó
mà Mẹ đã mạnh dạn cất tiếng đáp trả lời đề nghị của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ
làm cho tôi như lời sứ thần nói.”[43] Và hôm nay, trong
ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, Chúa Thánh Thần lại ngự xuống trên Mẹ cùng
với các tông đồ, lần hiện xuống này Chúa Thánh Thần đã mạc khải cho các tông đồ
nhận ra Đức Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội, bởi vì chính Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế,
là thầy và là Chúa của các tông đồ, do đó, Mẹ vẫn luôn đồng hành với Giáo Hội của
Chúa Giê-su để nâng đỡ, an ủi và dạy bảo Giáo Hội giữa cảnh phong ba thế tục
này.
Chúa Thánh Thần là ngự xuống trên các tông đồ và Đức Mẹ Maria trong ngày
lễ Ngũ Tuần, và vẫn còn hiện diện với Giáo Hội luôn mãi cho đến ngày tận thế,
vai trò Chúa Thánh Thần trong suốt chặng đường lịch sử của Giáo Hội rất quan trọng,
bởi vì Giáo Hội như chiếc thuyền đang đi trên biển lớn trần gian để cập bến Nước
Trời, mà Chúa Thánh Thần chính là bánh lái điều khiển con thuyền theo đường hướng
của Chúa Giê-su đã dạy, và các tông đồ cũng như những người kế vị các ngài
trong chức giám mục đều cứ nhắm hướng ấy mà hướng dẫn con tàu đụa phương đi đến
đích của mình là Nước Trời.
Giáo Hội khi suy ngắm đến việc Chúa Thánh Thần hiện xuống cho các tông đồ
và Đức Mẹ Maria trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, đã mời gọi chúng ta
hãy cầu xin Chúa Giê-su luôn ban ơn Thánh Thần xuống cho mình để hướng dẫn và dạy
bảo chúng ta sống đẹp lòng Chúa ở trần gian này. Tâm hồn của chúng ta là đền thờ
của Chúa Thánh Thần, là nơi mà Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị, Đức Mẹ Maria đã nhiều
lần nhắc nhở chúng ta hiểu biết điều ấy khi Mẹ luôn dạy chúng ta hãy ăn năn sám
hối, hãy cải thiện đời sống. Để làm gì ? Là để cho tâm hồn chúng ta được thanh
sạch, để xứng đáng là nơi ngự của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần là để chúng ta biết phân biệt được
đâu là công việc của Chúa và đâu là việc của ma quỷ, đâu là tiếng nói của Chúa
và đâu là tiếng nói của tự ái kiêu căng, đâu là việc nên làm và đâu là việc
không nên làm. Để như lời thánh Phao-lô tông đồ nói: “Những ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa, người được chấp nhận không
phải là kẻ tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao.”[44]
4.
Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời.
Cuộc sống ở trần gian cũng có lúc đến hồi kết thúc, Đức Mẹ Maria được
Thiên Chúa cho lên trời cả hồn lẫn xác, đó là một đặc ân cao quý vô cùng, như lời
Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tuyên bố trong ngày lễ Các Thánh Nam Nữ 1.11.1950: “Ta tuyên xưng, công bố và xác nhận tín điều
được Thiên Chúa mạc khải là Mẹ Thiên Chúa Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria trinh
nguyên, khi thời gian sống tại thế hoàn tất, cả hồn lẫn xác của Người đã được
đưa về trời trong vinh quang thiên quốc” (TCF, 207).
Thiên Chúa tôn vinh Mẹ, Giáo Hội tôn vinh Mẹ và mỗi người con đều hân
hoan vui sướng vì người mẹ cao quý của mình đã được diễm phúc lên trời cả hồn lẫn
xác. Qua miệng của vị đại diện Con Mẹ ở trần gian, Giáo Hội nhìn nhận và tin rằng:
Đức Mẹ Maria đã được Thiên Chúa cất nhắc lên trời cả hồn lẫn xác. Đó không phải
là chuyện thần thoại hoang đường, nhưng là một thực tại của đức tin, đức tin mà
Đức Mẹ Maria đã biểu hiện ngay khi còn ở thế gian, nhất là khi nói hai tiếng Xin
Vâng thì đức tin của Mẹ càng thêm mạnh mẽ, và càng mạnh mẽ hơn khi Chúa Giê-su sinh
ra cho đến khi Ngài bị đóng đinh vào thập giá và chết, và niềm tin tuyệt vời
này đã sinh hoa trái là Chúa Giê-su Con Mẹ đã sống lại vinh quang.
Đức Mẹ Maria lên trời cả hồn lẫn xác, để rồi được tôn vinh là Mẹ Thiên
Chúa, là Nữ Vương trên trời dưới đất, và biết bao danh hiệu đẹp và cao quý khác
mà nhân loại dành cho Mẹ. Chính việc lên trời cả hồn lẫn xác này mà Mẹ đã trở
thành kẻ cầu bàu cho chúng ta trước mặt Chúa Giê-su. Cũng như Chúa Giê-su , Mẹ
lên trời để dọn chỗ cho chúng ta là con cái của Mẹ, Mẹ biết vị trí tương lai của
từng đứa con một trên thiên đàng, và khi thấy nhân loại ngày càng xa cách Thiên
Chúa và vị trí của họ trên thiên đàng đang mất dần, thì Mẹ lại xuất hiện nhắc
nhở, khuyên bảo con cái hãy cải thiện đời sống, hãy ăn năn đền tội để nguôi cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa và để vị trí của họ trên thiên đàng khỏi mất.
Đức Mẹ Maria từ giả cõi đời bình an trong vòng tay thân yêu và trong sự
thương tiếc của các tông đồ, những môn đệ thân yêu của Chúa Giê-su, từ nay vị
thế cao trọng của Mẹ trước mặt Thiên Chúa càng cao hơn và quyền thế hơn, không
những cho Mẹ mà còn cho nhân loại được nhờ công phúc của Mẹ mà được đến gần với
Chúa hơn.
Giáo Hội mời gọi chúng ta khi suy ngắm đến mầu nhiệm Mẹ lên trời này,
thì cầu xin Mẹ phù hộ cho chúng ta được ơn chết lành trong tay Mẹ, đó là lời cầu
xin xứng đáng, như Mẹ đã từng hứa cho những ai hết lòng yêu mến Mẹ và Chúa
Giê-su con Mẹ, được sự an ủi và giúp đỡ của Mẹ trong giờ lâm chung. Đức Mẹ
Maria lên trời là cả một niềm hy vọng cho chúng ta, những đứa con của Mẹ, bởi
vì Thiên Chúa không tàn nhẫn để mẹ con cách biệt sau khi từ giả cõi đời, Mẹ ờ
đâu thì con ở đó, chỉ khi nào chúng ta tự mình muốn tách khỏi Mẹ để đi tìm cho
mình một nơi khác ngoài thiên đàng mà thôi.
Đức Mẹ Maria lên trời là niềm hy vọng và ủi an của giáo hữu ở trần gian,
bởi vì một ngày nào đó, chúng ta cũng sẽ được ở trên thiên đàng với Mẹ.
5.
Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời.
Đức Mẹ Maria đã lên trời, đó là phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những
ai khi còn sống ở thế gian này mà hết lòng kính mến Thiên Chúa và yêu người
thân cận như chính mình. Nhưng Thiên Chúa còn muốn thưởng Đức Mẹ Maria những ơn
khác ở khi Mẹ ở trên trời, để nhờ Mẹ mà nhân loại chúng ta đón nhận dồi dào những
ơn của Chúa hơn.
Trước hết, Thiên Chúa đặt Mẹ làm Nữ Vương trên trời dưới đất, cũng có
nghĩa là Mẹ có toàn quyền ban phát ơn lành cho người thế, và là Đấng cầu bàu rất
có thế giá trước mặt Thiên Chúa và con của mình là Chúa Giê-su. Nói như thế
không phải là Mẹ quyền năng phép tắc hơn Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa là Đấng tạo
dựng con người, Ngài rất “rành” tâm lý của con người, bởi vì Thiên Chúa là Đấng
cao trọng, mà con người khi phạm tội thì không dám đến trước mặt Chúa để xin lỗi,
nên nhờ công nghiệp của Mẹ và chức vị Nữ Vương của Mẹ để xin Chúa tha tội cho họ,
bởi vì không một ai yêu mến Đức Mẹ Maria mà lại không kính thờ Thiên Chúa.
Ơn cao trọng kế tiếp mà Thiên Chúa thưởng cho Đức Mẹ Maria khi ở trên trời
chính là Mẹ trở nên kho tàng mọi ân sủng của trời cao, có thể nói tất cả ân sủng
của Thiên Chúa đều đã ban cho Mẹ, như lời dạy của thánh Công Đồng Vatican II: “Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của Ngài
(Mẹ) trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng Ngài vẫn luôn tiếp tục cầu bàu để
đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được phần rỗi đời đời.”[45] Giáo Hội đã xác định
như thế, vì Giáo Hội qua bao nhiêu thăng trầm của chính mình và của thế giới,
đã cảm nghiệm được quyền thế của Đức Mẹ Maria trước tòa Thiên Chúa, và nhờ đó
mà Mẹ can thiệp kịp thời và ban ơn lành xuống cho Giáo Hội và cho thế giới.
Đức Mẹ Maria là kho tàng ân sủng của Thiên Chúa, có nghĩa là Mẹ cũng được
Thiên Chúa cho phép được chia sẻ một phần nhỏ vào vinh quang và quyền năng của
Ngài, để qua Mẹ mà nhân loại dễ dàng đến với Chúa hơn.
Những lần Đức Mẹ Maria hiện ra cho loài người, là những lần Mẹ tỏ cho
loài người thấy và biết quyền thế của Mẹ trước tòa Thiên Chúa, những lời Mẹ dạy,
những phép lạ Mẹ làm đều phù hợp với ý định của Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại.
Và thánh công đồng Vatican II lại một lẫn nữa khẳng định Mẹ chính là kho tàng
ân sủng của Thiên Chúa: “Thật thế mọi ảnh
hưởng có sức cứu rỗi của Đức Trinh Nữ trên nhân loại không phát sinh từ một sự
cần thiết khách thể nào, nhưng từ ý định nhân lành của Thiên Chúa và bắt nguồn
từ công nghiệp dư tràn của Chúa Ki-tô.”[46]
Thiên Chúa thưởng công cho Đức Mẹ Maria trên trời là kết thúc mầu nhiệm
mùa Mừng, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy sống xứng đáng với những ân huệ mà
Thiên Chúa ban cho, qua trung gian Đức Mẹ Maria, để ngày sau chúng ta cũng được
Thiên Chúa thưởng ở trên trời với Mẹ. Bởi vì được sum họp vớ Chúa và Mẹ trên trời
chính là mục đích sống của chúng ta ở đời này.
Mầu nhiệm mùa Mừng của kinh Mân Côi là niềm vui và hy vọng cứu độ của
chúng ta, suy ngắm và sống với mầu nhiệm này là chúng ta biết Thiên Chúa và Đức
Mẹ Maria yêu thương chúng ta đến chừng nào.
NĂM SỰ SÁNG
Ngọn đèn dẫn đường cứu rỗi
Em thân mến,
Đức Giáo Hoàng
Gioan Phao-lô II –được gọi là người con của Đức Mẹ- đã thêm vào Mười Lăm mầu
nhiệm kinh Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương, Năm Sự Mừng truyền thống thêm một
“Sự” nữa, đó là Năm Sự Sáng, có lẽ như nhiều người nói là “để cám ơn Đức Mẹ
Maria đã cứu ngài khỏi chết bởi cuộc ám sát của một thanh niên người Thổ Nhỉ Kỳ
thuộc Hồi giáo cực đoan”.
Và chắc có lẽ chỉ
có những ai yêu mến Đức Mẹ Maria mới cảm nghiệm được tình yêu của Mẹ dành cho
mình, như Đức Giáo hoàng Gioan Phao-lô II.
Năm Sự Sáng là mầu
nhiệm Nhập Thế hành động công khai rao giảng tin mừng Nước Trời của Chúa
Giê-su, là mầu nhiệm rất phù hợp chó công cuộc truyền giáo hiện nay của Giáo Hội,
bởi vì Giáo Hội được Chúa Giê-su thiết lập trên nền tảng các tông đồ, tức là những
con người ở trong thế gian, vì thế gian mà loan báo Tin Mừng của Chúa Giê-su.
Năm Sự Sáng –có thể
nói- là một chuổi dài suy tư và truyền giáo của Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô
II, là một cảm nghiệm rất sâu sắc về vai trò của Đức Mẹ Maria trong đời sống của
Giáo Hội, qua việc đồng hành với Chúa Giê-su khi Ngài bôn ba rảo bước trên các
nẻo đường Palestine để loan báo tin vui cứu độ và chữa lành nhiều bệnh tật,
cũng như xua đuổi mà quỷ ra khỏi những người bị nó không chế.
Với tâm tình cảm tạ
Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria, qua người con ưu tuyển của Me là Đức Giáo Hoàng Gioan
Phao-lô II, anh cũng xin chia sẻ với em mầu nhiệm mới này: Năm Sự Sáng.
1.
Đức Chúa
Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan.
Khởi đầu công khai
sứ vụ rao giảng tin mừng của Nước Trời, Chúa Giê-su đã làm một việc rất khiêm tốn
là xuống sông Gio-đan xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình. Đấng vô tội
đã như một tội nhân đến giữa những anh chị em và để chia sẻ thân phận yếu hèn
như mọi người, thánh sử Mát-thêu đã thuật lại như sau: “Bấy giờ Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gioan để
xin ông làm phép rửa cho mình.”[47]
Hai con người, hai
nhân vật của lịch sử ơn cứu độ đang gặp nhau. Một người có tên là Gioan Tẩy Giả
đang làm công việc dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, và một người được Chúa Cha
sai đến, là Đấng mà muôn dân trông đợi, người mà ông Gioan Tẩy Giả đang chuẩn bị
cho mọi người dọn tâm hồn để đón tiếp Ngài, đó là Chúa Giê-su.
Phép rửa của ông
Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người sám hối, tức là kêu gọi những tội nhân hãy quay
trở về với Thiên Chúa, hãy làm lành tránh ác, và hãy sửa mọi ý nghĩ gian tà
thành ý nghĩ thánh thiện. Và như lời tường thuật của thánh sử Mát-thêu: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng
dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Bấy giờ, người ta từ
Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với
ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan”[48] Để
được đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa, thì điều kiện trước tiên là phải thật
lòng sám hối và thay đổi cuộc sống của mình.
Chúa Giê-su –Con
Chiên Thiên Chúa, Đấng vô tội- cũng tự mình đi đến sông Gio-đan xin ông Gioan
làm phép rửa, Ngài không nề hà thân phận cao quý của mình, Ngài cũng không bày
tỏ mình là Đấng mà ông Gioan đang rao giảng và chuẩn bị tâm hồn mọi người chờ
đón Ngài. Chính Ngài đã tự nguyện, như một tội nhân đến xin ông làm phép rửa,
nhưng Thánh Thần đã soi mở tâm trí của ông Gioan, và ông đã nhận ra Đấng mà ông
đang làm phép rửa chính là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, và ông đã
từ chối làm phép rửa cho Ngài, nhưng Chúa Giê-su đã nói: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công
chính.”[49] sự
khiêm tốn giữa hai con người này chính là biểu hiệu của người được Thiên Chúa
kêu gọi, bởi vì Thiên Chúa thường
“Hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư,
người giàu có lại đuổi về tay trắng.”[50]
Chúa Giê-su, trong
thân phận con người, khi chịu phép rửa bởi tay ông Gioan Tẩy Giả, Ngài đã thật
sự trở nên đồng hình đồng dạng với chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, dù
thời giờ chưa đến, Chúa Cha vẫn cứ làm một dấu lạ để cho mọi người biết Ngài là
Đấng từ trời xuống, bởi Cha mà đến, cả ba thánh sử đều có ghi chép lại giây
phút quan trọng của lịch sử cứu độ này: “Khi
Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra.
Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và
có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.”[51]
Tiếng Chúa Cha từ
trời vang xuống như một chứng thực Chúa Giê-su là Đấng thiên sai mà loài người
trông đợi, trong lời giới thiệu long trọng ấy, Thiên Chúa muốn chúng ta từ nay
hãy vâng nghe lời giảng dạy của Chúa Giê-su, lời ban sự sống đời đời cho những
kẻ tin vào Ngài.
Phép rửa của ông
Gioan Tẩy Giả hướng chúng ta đến bí tích Rửa Tội do Chúa Giê-su lập ra, nơi
phép rửa của ông Gioan mời gọi con người sám hối, mà nơi bí tích Rửa Tội thì Chúa
Giê-su thứ tha tội lỗi và trả lại cho chúng ta ơn làm con Thiên Chúa, mà do tội
nguyên tổ đã đánh mất trong vườn địa đàng.
Mỗi người chúng ta
khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội thì cả Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện và ngự trong
tâm hồn của mình, đó chính là mầu nhiệm tình yêu cao cả mà Chúa Cha, nhờ sự chết
và sống lại của Chúa Giê-su, và nhờ ân sủng thánh hóa của Chúa Thánh Thần đã
ban cho chúng ta. Ân huệ cao cả này, tình thương cao cả này vượt qua trí thông
minh sáng láng của các thiên thần, vượt qua tất cả sự thông minh của các nhà
thông thái trên mặt đất gộp lại, và chỉ có những ai khiêm nhường –nhờ đức tin
Chúa ban cho- mới nhận ra và hiểu được mà thôi.
Khi suy niệm mầu
nhiệm này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II mời gọi chúng ta –những người đã được
lãnh nhận bí tích Rửa Tội- hãy luôn nhớ mình là những người con được Chúa yêu
thương rất đặc biệt, được Máu Thánh Chúa Giê-su đổ ra để rửa sạch tội lỗi, được
Thánh Thần xức dầu thánh hiến để trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự, do đó
mà chúng ta cũng phải luôn sống tâm tình khiêm tốn như thánh Gioan Tẩy Giả như
khi ngài giảng dạy cho người Do Thái: “Tôi,
tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh ăn năn sám hối.
Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người.”[52]
Chúa Giê-su chịu
phép rửa nơi sông Gio-đan là Ngài mở một con đường sáng để cho chúng ta đi
theo, con đường sáng ấy chính là thái độ khiêm tốn của Ngài khi xuống sông
Gio-đan xin ông Gioan Tẩy Giả làm phép rửa. Và chỉ có thái độ và lòng khiêm tốn
trong cuộc sống ấy mới có thể làm chúng ta đi trên con đường sáng để đến với
Chúa và với tha nhân mà thôi.
2.
Đức Chúa
Giê-su dự tiệc cưới Ca-na.
Tiệc cưới, là một
ngày vui của đôi tân hôn, và là ngày hội vui vẻ của bà con thân thuộc bên họ
nhà trai và nhà gái, tiệc cưới là dấu chỉ của yêu thương và hạnh phúc. Do đó,
những người khách được mời tham dự tiệc cưới cần phải có tâm hồn yêu thương để
chia sẻ hạnh phúc với đôi tân hôn.
Tiệc cưới Ca-na hôm
nay, Đức Mẹ Maria được mời và Chúa Giê-su cùng các môn đệ của Ngài cũng được mời.
Qua câu chuyện tiệc
cưới Ca-na này, chúng ta thấy vai trò của Đức Mẹ Maria rất quan trọng, Mẹ không
những làm những việc của người nội trợ ở trong bếp, mà còn quan tâm đến những
nhu cầu của người khác, nhất là quan tâm đến niềm vui của họ, sự quan tâm này
được Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ kể lại như thế này: “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: ”Họ hết rượu rồi”.
Đức Giê-su đáp: “Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.”
Thân mẫu Người nói với gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”[53] Khi
nói: ”Người bảo gì, các anh cứ việc làm
theo”, thì Đức Mẹ Maria đã dạy cho chúng ta một bài học vâng lời và phó
thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, chính Mẹ đã làm gương trước cho
chúng ta, Mẹ đã phó thác đôi tân hôn cho Chúa khi xin Ngài làm cho niềm vui của
họ được kéo dài, vì họ đã hết rượu, và Chúa Giê-su đã nhậm lời Mẹ xin.
Đức Mẹ Maria, Chúa
Giê-su và các thánh tông đồ là một gia đình, một khối yêu thương bất khả phân
ly trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Thật vậy, nơi tiệc cưới Ca-na này, sự
liên kết hiệp nhất ấy càng nổi bật hơn khi có sự hiện diện của Chúa Giê-su và Mẹ
Maria cũng như các tông đồ, và chúng ta có thể nói, đó là mô hình của Giáo Hội
tương lai mà Chúa Giê-su sẽ thiết lập để đem ơn cứu độ đến cho nhân loại. Là
người mẹ của Giáo Hội trong nhiệm thể Chúa Ki-tô, Mẹ Maria với tấm lòng mẹ hiền
luôn cầu bàu cho Giáo Hội trước tòa Thiên Chúa, và khi được Thiên Chúa đem lên
trời cả hồn lẫn xác thì vai trò của Mẹ càng nổi bật hơn trong nhiệm cục cứu độ
của Thiên Chúa.
Khi suy ngắm đến việc
Chúa Giê-su hiện diện trong tiệc cưới Ca-na, Giáo Hội muốn nhắn nhủ chúng ta những
điều sau đây:
-
Tha nhân là hình ảnh
của Thiên Chúa, và trong Chúa Ki-tô tất cả chúng ta đều là anh em với nhau, họ
chính là những Ki-tô khác mà chúng ta gặp hằng ngày trong cuộc sống, do đó mà
chúng ta cần phải có những quan tâm cần thiết đến với họ.
-
Con người ta, trước
mặt Thiên Chúa đều bình đằng như nhau, cho nên cần phải lấy sự công bằng mà tiếp
đãi nhau, như tiếp đãi Chúa Giê-su vậy.
-
Noi gương Chúa
Giê-su và Đức Mẹ Maria luôn cố gắng đem niềm vui đến cho mọi người.
Chính vì học theo
gương Chúa Giê-su và Đức Mẹ Maria khi tham dự tiệc cưới Ca-na, mà Đức Giáo
Hoàng Gioan Phao-lô II mỗi khi đi thăm viếng mục vụ một quốc gia nào đó, thì việc
trước tiên của Ngài làm khi bước xuống máy bay là hôn đất của quốc gia ấy, bày
tỏ niềm vui sướng và tình thương mà ngài dành cho họ.
3.
Đức Chúa
Giê-su rao giảng Nước Trời và kêu gọi sám hối.
Trong Phúc Âm nhất lãm, các thánh sử đều nhắc đến viêc Chúa
Giê-su công khai sứ vụ rao giảng tin mừng Nước Trời của Ngài. Thánh Lu-ca, vị thánh sử viết Phúc Âm cho người
ngoại đã trở lại, tường thuật lại như sau: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.”[54]
Thánh sử Mát-thêu chú
trọng viết tin mừng cho người Do Thái vùng Xy-ri-a đã tin vào Chúa Giê-su thì kể
rằng: ”Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan
bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở
Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và
Máp-ta-li...Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy
sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.”[55]
Thánh sử Mác-cô viết
Phúc Âm cho các tín hữu không phải là gốc Do Thái sống ngoài xứ Palestin kể lại
như sau: “Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giê-su đến miền
Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và triều
đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”[56]
Lời đầu tiên mà
Chúa Giê-su rao giảng là kêu gọi mọi người hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, sám
hối và tin vào Tin Mừng là điều kiện để được cứu rỗi, bởi vì không thể nào sám
hối tội lỗi mình thì cũng không thể nào tin vào Tin Mừng, và chỉ nhờ Tin Mừng
thì mới có thể nhìn thấy rõ đời sống của mình không phù hợp Phúc Âm để mà ăn
năn sám hối.
Dân thành Ni-ni-vê
đã nghe lời của tiên tri Giô-na và đã ăn năn sám hối, mặc áo nhặm rắc tro trên
đầu, và Đức Chúa đã tha hình phạt cho họ[57],
lòng sám hối chân thành của dân thành Ni-ni-vê đã đụng chạm đến nơi thẳm sâu
tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Thiên Chúa thứ tha chứ
không phải là Thiên Chúa chấp tội, là Thiên Chúa nhân từ chứ không phải là
Thiên Chúa độc ác, là Thiên Chúa luôn quên hết tội lỗi khi con người thật lòng
hoán cải quay về nẻo chính đường ngay.
Lòng sám hối và tin
vào Đấng đang bị đóng đinh với mình trên thập giá kia của người trộm lành[58], cũng
là một dấu hiệu rất rõ ràng để cho chúng ta thấy rằng, lời rao giảng “hãy sám hối
và tin vào Tin Mừng” của Chúa Giê-su, chính là hé mở hạnh phúc thiên đàng cho
chúng ta có niềm hy vọng vào sự sống đời sau.
Chúng ta đang sống
trong thời đại mà khoa học phát triển từng ngày từng giờ, thế giới như thu nhỏ
lại trong bàn tay, nhưng giữa tâm hồn con người với nhau vẫn cứ có khoảng xa
cách vì ý thức hệ, vì thù hận và vì kiêu căng. Và khi con người càng sống dư thừa
vật chất, xây dựng được một vài công trình to lớn thì càng trở thành những kẻ
chối bỏ Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và tạo dựng nên con người. Do đó, lời
rao giảng “hãy sám hối” của Chúa Giê-su vẫn còn vang dội cho đến ngày nay, đã
và đang làm cho nhiều người hoán cải đời sống để trở nên những môn đệ thật sự của
Chúa Giê-su Ki-tô.
Sám hối để được tha
tội và tin vào Tin Mừng để được cứu rỗi, là hai điều căn bản phải có nơi những
người môn đệ của Chúa Giê-su.
4.
Đức Chúa
Giê-su biến hình trên núi.
Để củng cố đức tin
cho các môn đệ, và để cho các ngài “nếm” trước mùi vị ngọt ngào của hạnh phúc
trong Nước Trời, Chúa Giê-su đã biến hình sáng láng trên núi, thánh sử Mat-thêu
đã tường thuật như sau: “Người đưa các
ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến hình dạng trước mặt
các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục của Người trắng tinh
như anh nắng.[59]
Biến cố biến hình của Chúa Giê-su là một sự mở con mắt đức tin của ba môn đệ, để
các ngài biết rằng, Đấng mà các ngài tin và đi theo đúng là vị tiên tri từ trời
xuống. Nhưng điều làm cho các tông đồ ngạc nhiên sợ hãi chính là tiếng Chúa Cha
phán ra từ đám mây: “Đây là Con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về Người. Các người hãy vâng nghe lời Người.”[60]
Tiếng từ trong đám
mây là tiếng của Cha đang giới thiệu Con yêu quý của mình, là lời mạc khải về
thiên tính của người Con duy nhất, và là lời chứng thực, chỉ có người Con này mới
là Đấng từ trời xuống để thi hành thánh ý của Cha mà thôi.
Chúa Giê-su là Con
yêu quý của Chúa Cha, chính Ngài –dù đang mang thân phận con người- vẫn là hình
ảnh vô hình của Chúa Cha[61] đang
hiện diện ở trần gian, và chỉ có Ngài mới có đủ tư cách cứu nhân loại khỏi ách
thống trị của ma quỷ và tội lỗi, chỉ có Ngài mới là Đấng ban lại cho nhân loại
ơn làm con Thiên Chúa mà thôi.
Cuộc biến hình trên
núi của Chúa Giê-su là một sứ điệp đức tin cho các môn đệ, những người chỉ tin
mà chưa thấy, chỉ nghe mà chưa tường tận, giờ đây, qua cuộc biến hình sáng chói
này của Chúa Giê-su và là Thầy của mình, đức tin của các ông như được tăng lên
gấp bội.
Suy niệm đến việc
Chúa Giê-su biến hình này với lời giới thiệu long trọng của Chúa Cha, Giáo Hội
mời gọi chúng ta hãy bước theo Chúa Giê-su để tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã giao
phó trong ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, đó là sứ mạng rao giảng Tin
Mừng Nước Trời cho mọi người; Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta khi bước theo Chúa
Giê-su thì cố gắng liên tục–nhờ ơn Chúa- biến đổi cuộc sống của mình cho phù hợp
với những gì mà mình đã tin và đã rao giảng. Đó chính là điều mà mọi người đang
chờ đợi nơi chúng ta: những người –nhờ đức tin- mà thấy được niềm hy vọng nơi
Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su biến
hình trên núi, là dịp để chúng ta suy ngắm lại sự sống đời sau của chúng ta,
hơn là chúng ta chỉ sống trong ước mơ muốn được thấy Chúa biến hình như ba
thánh tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan.
-
Tôi đã thực sự thay
đổi cuộc sống của mình chưa, thay đổi hoàn toàn mà không giữ lại những thói
quen làm cho mình dễ chịu, nhưng sẽ làm hại linh hồn mình.
-
Tôi đã thực sự tin
vào Chúa Giê-su chưa, hay là vẫn còn hoài nghi về Ngài, khi mà cuộc sống của
tôi chỉ toàn đau khổ mà không thấy vinh quang.
-
Tôi đã nghe lời
Chúa Cha giời thiệu Chúa Giê-su cho các môn đệ, có lúc nào tôi giới thiệu Chúa
Giê-su cho bạn bè, người thân của tôi chưa ?
Cuộc biến hình của
Chúa Giê-su và lời giới thiệu của Chúa Cha là ngọn đèn dẫn nhân loại đến con đường
cứu rỗi, mà chúng ta –người Ki-tô hữu- chính là những ngọn đèn ấy, lấy cuộc sống
gương sáng của mình để chiếu soi Tin Mừng vào trong cuộc sống của tha nhân.
5.
Đức Chúa
Giê-su lập bí tích Thánh Thể.
Thánh Thể là nguồn
sống của Giáo Hội, là lương thực nuôi sống mỗi người Ki-tô hữu. Thánh Thể là mầu
nhiệm của sự hiệp nhất giữa các Ki-tô hữu với nhau trong Chúa Ki-tô, bởi đó mà
trong tông thư về bí tích Thánh Thể, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô đã nói: “Giáo Hội
sống nhờ Thánh Thể (Ecclesia de
Eucharistia vivit). Chân
lý này không chỉ diễn tả một kinh nghiệm hằng ngày của đức tin, nhưng dưới hình
thức tổng hợp nó còn gồm tóm cả cốt lõi của mầu nhiệm Giáo Hội. Trong hân hoan,
Giáo Hội cảm nghiệm dưới nhiều hình thức sự thể hiện liên tục lời hứa: “Và Thầy,
Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Chúa Giê-su đã lập bí tích Thánh Thể để ban Mình và Máu Thánh của Ngài cho Giáo Hội, để Giáo Hội làm lương
thực thần thiêng trên đường lữ thứ trần gian về quê trời. Bí tích Thánh Thể là
bí tích cao trọng nhất của Giáo Hội, là dấu chỉ của hiệp thong và yêu thương,
và có thể nói, nếu không có bí tích Thánh Thể thì không có Giáo Hội và không có
Giáo Hội thì không có bí tích Thánh Thể. Chính Chúa Giê-su thấy rõ và tiên liệu
trước cho Giáo Hội của Ngài ờ trần gian nên đã lập bí tích yêu thương này, để
qua đó, mà Ngài tiếp tục ở lại với Giáo Hội cho đến ngày tận thế. Tông thư trên
cũng đã lập lại lời của công đồng Vatican II: “Công đồng
Vaticanô II đã chính thức
công bố rằng Hy Tế Thánh Thể là “nguồn mạch
và chóp đỉnh của toàn thể đời
sống Kitô hữu.”[62]
Thánh Mát-thêu tường thuật lại việc Chúa
Giê-su lập phép Thánh Thể như sau:”Cũng
trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rôi bẻ ra, trao cho
các môn đệ mà nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy. Rồi Người cầm lấy
chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả an hem hãy uống chén này,
vì đây là máu Thầy, máu Giáo Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.”[63] Ý
định của Chúa Giê-su đã rõ rang, các môn đệ cũng hiểu được lời của Chúa Giê-su
nói: đây là mình và máu của Thầy, mình và máu này sẽ trở nên lương thực thần
thiêng cho Giáo Hội, là sự bảo đảm của ơn cứu rỗi cho những ai tin và tham dự
bàn tiệc Thánh Thể.
Giáo Hội hơn hai ngàn năm lịch sử, đã và
đang được tiếp tục nuôi dưỡng bằng Thánh Thể, và từ nơi Thánh Thể, Giáo Hội càng
ngày càng nhận ra được tình yêu thương của Chúa Giê-su dành cho Giáo Hội và
nhân loại, cho nên, Giáo Hội càng thấy mình có thêm một một sứ mạng đặc biệt nữa
là rao giảng sự hiệp nhất giữa các Ki-tô với nhau, và giữa những con người với
nhau. Giáo Hội, giữa bao thăng trầm của thế giới, giữa bao đau thương mà Giáo Hội
phải chịu, thì Thánh Thể chính là nguồn an ủi và là nguồn cảm hứng tràn đầy
thánh dược để Giáo Hội tiếp nối tục làm tròn sứ mạng của mình giữa thế gian
này.
Mỗi ngày trong thánh lễ, Giáo Hội lại hân
hoan cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, và Chúa Giê-su Ki-tô vẫn hằng ngày hiện diên
trên các bàn thờ trên khắp thế giới, để luôn là niềm khích lệ và là nguồn sống
của Giáo Hội và của mỗi người Ki-tô hữu, đó là mầu nhiệm khôn sánh mà nhân loại
không thể nào hiểu thấu, nhưng con cái của Giáo Hội Chúa thì vẫn luôn yêu mến
và thường xuyên năng đón nhận bí tích yêu thương này, bởi vì Thánh Thể là
nguyên nhân của mọi tình yêu và bác ái của họ.
Chúa Giê-su lưu lại cho Giáo Hội Mình và
Máu của Ngài, như một bằng chứng yêu thương và quyền năng của Đấng Thiên Chúa
làm người giờ đây đã trở lại trong vinh quang Thiên Chúa, và khi tham dự bàn tiệc
thiên quốc này ở trần gian, thì Giáo Hội cũng luôn mong mỏi đến ngày được tham
dự tiệc thánh trên trời với Chúa Giê-su và các thánh nam nữ, những con người đã
luôn yêu mến Thánh Thể khi còn ở trần gian.
Khi suy ngắm đến mầu nhiệm tình yêu này,
Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ, bởi vì trong thánh lễ,
Chúa Giê-su hiện diện thực sự trên bàn thánh để trở nên lương thực nuôi sống
linh hồn chúng ta, và trở nên nguồn mạch yêu thương nối kết lòng chúng ta lại với Thiên Chúa và với tha nhân.
Cho nên, Giáo Hội
khuyên dạy chúng ta phải có thái độ cung kính, nghiêm trang và yêu mến khi đi
tham dự thánh lễ, bởi vì có nhiều con cái của Giáo Hội ngày càng tục hóa các bí
tích, coi các bí tích như là những việc làm vô ích mà Giáo Hội bày ra để “hù dọa”
thiên hạ, và nguy hiểm hơn, họ coi Thánh Thể như là một trò đùa của Giáo Hội phỉnh
gạt những người không hiểu biết.
Có những lúc, chúng
ta đi tham dự tiệc Thánh Thể bằng thái độ không nghiêm túc, đi rước lễ chỉ là
hình thức che giấu tội lỗi của mình mà thôi. Đó chính là điều mà Chúa Giê-su rất
đau buồn, bởi vì khi chúng ta rước Thánh Thể cách bất xứng là chúng ta lại đóng
đinh Chúa Giê-su vào thập giá lần nữa, mà lần này thì Chúa đau khổ hơn khi Ngài
bị đóng đinh trên thập giá trên đồi Can-vê, bởi vì những kẻ đóng đinh Ngài là
chúng ta, những người được Ngài yêu thương và cứu chuộc bằng cái chết nhục nhả
của mình. Từng giờ và từng phút, nơi nhà tạm trong nhà thờ, Chúa Giê-su Thánh
Thể vẫn chờ đợi chúng ta đến viếng thăm an ủi Ngài, bởi vì từng giay từng phút
có rất nhiều người xúc phạm đến Chúa Giê-su Thánh Thể trên khắp thế giới, đó là
lý do mà Giáo Hội mời gọi chúng ta luôn viêng Thánh Thể và chầu Thánh Thể.
Ngay từ thời sơ
khai của Giáo Hội, thánh Phao-lô tông đồ đã lên tiếng cảnh cáo những người tham
dự Thánh Thể cách bất xứng, ngài nói: “Vì
thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến
Mình và máu Chúa[64].
LỜI KẾT
Em thân mến,
Trên đây là những
điều anh chia sẻ với em về kinh Mân Côi, anh tin rằng chính em khi lần chuỗi
Mân Côi chung hoặc riêng, thì cũng bỏ ra ít phút để suy niệm các mầu nhiệm
trong kinh Mân Côi này, bởi vì nếu chúng ta đọc kinh lẩn chuỗi mà lòng trí
không suy niệm, thì chẳng ích lợi gì cả cho chúng ta.
Như em đã nói, kinh
Mân Côi chỉ là việc đạo đức thì không quan trọng cho lắm, nhưng anh nghĩ rằng,
dù nó quan trọng hay không thì vẫn là một việc làm đạo đức rất tốt. Tại sao Đức
Mẹ Maria chỉ dạy cho chúng ta cách “đi tắt” lên thiên đàng mà ta lại chê không
muốn đi ! Tại sao Đức Mẹ Maria giúp chúng ta là những kẻ tội lỗi được đến gần
Chúa cách dễ dàng hơn thì chúng ta lại không muốn ?
Con người ta thời
nay viện rất nhiều lý do để chối bỏ Thiên Chúa, chối bỏ những gì mà họ cảm thấy
làm cho sự tự do của họ bị đe dọa, họ muốn lên thiên đàng nhưng phải sống thật
tự do thật thoải mái ưa gì làm nấy không bị ràng buộc, viện cớ là Chúa rất tôn
trọng tự do của họ nên không “bắt bẻ” họ; họ muốn vừa trở nên thánh nhưng không
muốn hy sinh hãm mình, họ lấy lý do là hy sinh hãm mình thì chỉ có Chúa biết là
được rồi, nên họ cứ tha hồ ăn uống; họ muốn dấng hiến cuộc sống cho Chúa, nhưng
viện cớ là con người nên vẫn còn có nhiều sai phạm và khuyết điểm, thế là họ sẵn
sàng mắc phạm từ khuyết điểm này đến khuyết điểm khác.
Chuỗi Mân Côi là
phương thế để giúp chúng ta –người Ki-tô hữu- đồng hành với Chúa Giê-su và Đức
Mẹ Maria cách đơn giản nhất, là cách vắn tắt giúp chúng ta dễ hiểu khi suy ngắm
các mầu nhiệm làm người của Chúa Giê-su, và là cách làm đẹp lòng Đức Mẹ Maria
nhất.
Cho nên, đã là người
Ki-tô hữu, thì không ai mà không biết lợi ích và hiệu quả của việc lần chuỗi
Mân Côi. Anh có thể nói với em như thế này, những ai cứ viện lý do này lý do nọ
để coi thường kinh Mân Côi, thì họ không xứng đáng làm con cái của Đức Mẹ
Maria. Những người yêu mến đọc kinh Mân Côi, thì dù cho công việc làm ăn chiếm
mất thời gian đi chăng nữa, thì họ vẫn luôn tìm cách chia nhiều phần kinh Mân
Côi ra để đọc, bởi vì đối với họ, kinh Mân Côi là sự ủi an và nâng đỡ của Đức Mẹ
Maria.
Anh hy vọng với những
lời chia sẻ với em trong dịp tháng Mân Côi này, sẽ giúp em chút gì đó trong đời
sống thiêng liêng, nhất là trong việc yêu mến Chúa Giê-su và Mẹ của Ngài qua
kinh Mân Côi này.
Xin Thiên Chúa nhờ
Đức Mẹ Maria chuyển cầu, ban cho em và gia đình được ngày càng yêu mến kinh Mân
Côi hơn. Nhớ cầu nguyện cho anh.
Ngày lễ Mẹ hiện ra tại Fatima
13.10.2007
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
[1] Ga 19,
26-27.
[2] Bảy dao nhọn (là Bảy sự thương khó) đâm thâu là: 1- Lúc
nghe lời tiên tri Simêon, khi dâng
Chúa Giêsu trong đền thánh.2- Lúc ẵm bế Chúa Hài Ðồng trốn sang Ai Cập.3- Lúc lạc mất Chúa tại Giêrusalem. 4- Lúc gặp Chúa vác thánh giá.5- Lúc Chúa chịu đóng đinh.6- Lúc hạ xác Chúa xuống khỏi thập giá.7- Lúc táng xác Chúa.
[3] St 3, 14.
[4] CD Vat. II: “Hiến
chế tín lý về Giáo Hội” chương 8, số 53.
[5] Lc 1, 26a.
[6] Lc 1, 42.
[7] Is 9, 1.
[8] Is 9, 5.
[9] Is 11, 1-9.
[10] Is 45, 8.
[11] Is 7, 14b.
[12] Lc 2, 23.
[13] Lc 2, 29-32.
[14] Lc 2, 34.
[15] Lc 2, 43-45.
[16] Lc 2, 46-48.
[17] Mt 26, 36.
[18] Mt 26, 42.
[19] St 3, 14.
[20] Is 50, 6.
[21] Pl 2, 6-8.
[22] Lc 2, 34.
[23] Ds 21, 8-9.
[24] Dt 5, 8.
[25] Mt 25, 31-46.
[26] Mt 27, 45-50.
[27] Ga 19, 34-35.
[28] Mc 15, 39.
[29] Ga 12, 24.
[30] 1 Cr 15, 3-4.
[31] Mt 12, 40.
[32] Mt 28, 5b-6
[33] Lc 24, 25-26.
[34] Cl 1, 1
[35] Kh 5, 9-12.
[36] Ga 14, 6.
[37] Ep 1, 20.
[38] Ep 1, 3b.
[39] Mt 6, 9-13.
[40] Cv 1, 7-8a.
[41] Cv 2, 1-4.
[42] Cv 2, 6.
[43] Lc 1, 38.
[44] 2 Cr 10, 17-18.
[45] Công Đồng
Vat. II: Hiến chế tín lý về Giáo Hội, chương VIII, số 62.
[46] Công đồng
Vat. II: Hiến chế tín lý về Giáo Hội, chương VIII, số 61.
[47] Mt 3, 13.
[48] Mt 3, 4-7.
[49] Mt 3, 15.
[50] Lc 1, 52-53.
[51] Mt 3, 16-17; Mc 1, 9-11; Lc 3, 21-22.
[52] Mt 3, 11.
[53] Ga 2, 1-5.
[54] Lc 4, 14-15.
[55] Mt 4, 12-17.
[56] Mc 1, 14-15.
[57] Gn 3, 1-10.
[58] Lc 23, 40-43.
[59] Mt 17, 1, 2.
[60] Mt 17, 5b.
[61] Cl 1, 15.
[62] Công đồng
Vat. II: Hiến chế tín lý về Giáo Hội, chương II, số 11.
[63] Mt 26, 26-28.
[64] 1 Cr 11, 27.