Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Chia
sẻ với em
ĐỨC
ÁI
CỦA
LINH
MỤC CHÚA KI-TÔ
Em thân mến,
Để kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của thánh Gioan Maria
Vianney cha sở họ Ars, bổn mạng của các cha sở, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI
tuyên bố từ ngày 19.6.2009 đến 19.6.2010 là năm đặc biệt: “Năm Linh Mục”, ngài
nói: ”Để tạo điều kiện thuận lợi cho các linh mục hướng
về sự trọn lành thiêng liêng là điều mà hiệu năng sứ vụ của các vị lệ thuộc,
tôi quyết định mở năm đặc biệt “Năm Linh Mục.”
Và mới cách đây đúng một tuần, có câu hỏi của một bạn sinh
viên Hà Nội muốn đi tu làm linh mục để phục vụ Chúa, nhưng anh bạn sinh viên
này cảm thấy buồn và lúng túng khi thấy một vài linh mục sống không có đức bác
ái, nghĩa là theo như bạn ấy nói, thì cha sở của bạn rất quan liêu, giáo dân
không nhìn thấy đức ái nơi cha sở của mình, không những quan liêu, mà ngài còn
nạt nộ hách dịch, xa cách và sống như một ông vua, ngài không những vun vén cho
cá nhân mà còn gia đình của ngài nữa. Và anh bạn sinh viên này ngán ngẫm quá, và
hỏi anh bây giờ phải làm thế nào, có nên đi tu làm linh mục không, hay là lập
gia đình mà sống tốt hơn với Chúa Giê-su ?
Câu hỏi này cũng như câu hỏi của em về chuyện có một số linh
mục sống hình như sống không có đức bác ái, thì làm thế nào để rao giảng Phúc
Âm được ?!
Nhân dịp “Năm Linh Mục” anh xin chia sẻ với em về “Đức Ái của linh mục Chúa Ki-tô” trong tập sách nhỏ này, hy vọng em và anh bạn sinh viên Hà Nội
kia, cũng như tất cả các bạn trẻ nhìn thấy Đức Ái là nhân đức tuyệt vời của người
Ki-tô hữu chúng ta, nhất là linh mục, những người đã dâng mình làm tôi Chúa...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-------------------
BÀI CA ĐỨC
ÁI
“Giả
như tôi có nói được các thứ tiếng
của
loài người và của các thiên thần đi nữa,
mà
không có đức mến,
thì
tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,
chũm
chọe xoang xoảng.
Giả
như tôi được ơn nói tiên tri,
và
được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu,
hay
có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non,
mà
không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.
Giả
như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay
nộp cả thân xác tôi để chịu thiệt thòi,
mà
không có đức mến,
thì
cũng chẳng ích gì cho tôi.
Đức
mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không
ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không
làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không
nóng giận, không nuôi hận thù,
không
mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng
vui khi thấy điều chân thật.
Đức
mến tha thứ tất cả,
tin
tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.
Đức
mến không bao giờ mất được.
Ơn
nói triên tri ư ? Cũng chỉ nhất thời.
Nói các tiếng lạ chăng ? Có ngày sẽ hết.
Ơn
hiểu biết ư ? Rồi cũng chẳng còn...”[1]
Em thân mến,
Trên đây là bài ca Đức Ái (đức mến)[2] của
thánh Phao-lô tông đồ, đây cũng đã là một đề tài suy tư sâu xa cho các nhà thần
học và tu đức học trong Giáo Hội, bởi vì nó chứa đựng một giáo lý mới dựa vào
luật mới của Chúa Giê-su: luật yêu thương. Chính thánh Phao-lô đã cảm nghiệm được
điều ấy với tất cả gian nan vất vả mà ngài phải chịu vì danh Chúa Giê-su, chính
ngài là vị tông đồ đầu tiên đem tình yêu của Chúa Giê-su đến cho dân ngoại,
tình yêu đó chính là tình yêu thập giá, tình yêu vượt qua đau khổ và sự chết của
Chúa Giê-su, và chính ngài –thánh Phao-lô- cũng đã vì tình yêu ấy mà tự nguyện
hy sinh tất cả để danh của Chúa Ki-tô được mọi người biết đến.
Ngài đã cảm nghiệm được Đức Ái chính là nền tảng căn bản để
chúng ta nhìn thấy Chúa Giê-su nơi mọi người, và nhờ Đức Ái mà người ta nhận biết
chúng ta là người Ki-tô hữu, như lời Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ của mình
trong bữa tiệc ly: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là
môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.”[3]
Người anh em mà Chúa Giê-su nói đây không phải là anh, là em
và những người đã tin vào Ngài và đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội sao ? Chắc chắn
là như thế.
Nhưng người anh em mà Chúa Giê-su nhấn mạnh và cách riêng
trong bữa ăn cuối cùng (tiệc ly) của Ngài với các môn đệ (đây chính là lúc Ngài
thiết lập bí tích Truyền Chức Thánh), tức là các linh mục của ngày hôm nay,
linh mục của Tân Ước, tức là linh mục của Chúa Giê-su Ki-tô.
Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Chúa Giê-su đã nhắn
nhủ cách riêng với các môn đệ của mình rất nhiều điều, và tất cả những điều ấy
đều quy về một chữ “Yêu”, tức là Đức Ái, hay còn gọi là đức mến. Bởi vì Chúa
Giê-su biết rằng, chỉ có yêu thương mới hoán cải được tâm hồn của người khác,
chỉ có yêu thương mới làm cho người khác nhận ra Ngài trong tha nhân, mà bản
sao yêu thương của Chúa Giê-su chính là các môn đệ của Ngài, tức là các tông đồ,
các giám mục và linh mục của Ngài ngày hôm nay.
Do đó, Đức Ái (đức mến) của các linh mục –dù cho ở thời đại
nào- thì vẫn cứ là đức ái của Chúa Giê-su, tức là một đức ái lấy hy sinh làm
chuẩn mực cho cuộc sống của mình.
GIÁO HỘI
VÀ ĐỨC ÁI
Giáo Hội định nghĩa Đức Ái (mến) như sau: “Đức Ái là một nhân đức đối thần, nhờ đức ái mà chúng ta vì chính Thiên
Chúa, mà vừa yêu Ngài vượt trên vạn vật, vừa vì nguyên nhân yêu mến Thiên Chúa
mà yêu thương người như chính mình.”[4] Và Giáo Hội hơn
hai ngàn năm nay đã nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động và hướng dẫn, mà đi khắp
nơi rao giảng Tin Mừng yêu thương của Chúa Giê-su, và được thừa hưởng gia tài
vĩ đại và cao quý từ nơi Đấng đã vì yêu thương mà chết trên thập giá –Chúa
Giê-su- mà Giáo Hội đã không ngừng rao giảng tình yêu của Ngài cho nhân loại.
Được chính Đấng khi bị đóng đinh trên thập giá đã cầu xin với
Chúa Cha tha tội cho những kẻ giết mình, mà Giáo Hội đã không ngừng trở thành
nơi nương tựa cho những người nghèo khó, cô đơn và bất hạnh...
Được chính Đấng đã tỏ lòng yêu thương, và hứa cho người trộm
cướp bị đóng đinh ở bên hữu Ngài vào nước thiên đàng, mà Giáo Hội đã không những
luôn dang rộng đôi tay để đón nhận những người con lầm lạc trở về với gia đình,
mà Giáo Hội còn không ngừng lên tiếng bênh vực những người yếu đuối trong xã hội...
Tất cả những điều mà Giáo Hội đã và đang làm ấy đều vì luật
mới của Chúa Giê-su là yêu thương, và thế gian sẽ nhận biết Giáo Hội là gia
đình của Chúa Giê-su khi mọi người biết yêu thương nhau, tức là khi mỗi người
biết thực hành đức ái với tất cả mọi người, bởi vì như lời thánh Phao-lô tông đồ
đã nói: không có Đức Ái thì tất cả những việc mà Giáo Hội làm đều là không
không, chẳng là gì cả, bởi vì đức ái chính là cốt lõi của lề luật mới, luật yêu
thương.
Qua mọi thời đại, và ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội đã
và luôn thực hành Đức Ái với hết mọi người, tất cả mọi sự đều là của chung và
phân phát cho mọi người tùy theo nhu cầu của các tín hữu, sẽ không có kẻ ăn dư
thừa người thiếu thốn, bởi vì Đức Ái được Chúa Thánh Thần luôn khơi dậy trong
lòng người tín hữu, và họ đồng tâm nhất trí cầu nguyện với nhau và dùng bữa với
nhau[5].
Bởi vì Đức Ái là hoa quả của Chúa Thánh Thần, nên nó sinh ra
rất nhiều hoa trái khác cho Giáo Hội, và cho những ai thành tâm thiện chí yêu mến
Thiên Chúa và tha nhân, mà những hoa trái của Đức Ái là: niềm vui, bình an và
lòng từ bi.
Vì lệnh truyền của Chúa Giê-su là hãy thực thi Đức Ái với
tha nhân, mà trong đại gia đình Giáo Hội của Chúa có rất nhiều các dòng tu được
thành lập, trước hết là để loan truyền Tin Mừng của Chúa Giê-su đến cho mọi người,
sau nữa là thực hành Đức Ái đối với mọi người nghèo trên khắp thế gian này, do
đó mà tất cả các dòng tu hoặc tu hội, hoặc các hội đoàn của Giáo Hội được thành
lập là đều vì Tin Mừng và vì Đức Ái của Chúa Giê-su. Đức Ái làm cho người khác
dễ dàng nhận thấy Chúa Giê-su hiện diện cách sống động nơi người Ki-tô hữu, và
nhờ đó mà họ càng thêm yêu mến Giáo Hội của Chúa hơn.
Thánh Phao-lô tông đồ đã khẳng định:
“Giả
như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay
nộp cả thân xác tôi để chịu thiệt thòi,
mà
không có đức mến,
thì
cũng chẳng ích gì cho tôi.”[6]
Nếu như các dòng tu hay tu hội đem tất cả tài sản của mình
cho người nghèo, sai phái các thành viên của mình đi khắp thế gian để giảng đạo
mà không có Đức Ái, thì cũng chẳng ích gì cho họ cả, bởi vì Đức Ái chính là tâm
điểm mọi hoạt động tích cực để đưa người ta tìm đến Thiên Chúa.
LINH MỤC
VÀ ĐỨC ÁI
Hơn bao giờ hết, thời đại ngày nay người ta đều nhìn vào
cách sống của linh mục để dự đoán tương lai của giáo xứ, bởi vì một cha sở nhiệt
thành với giáo xứ của mình, biết sống chan hòa với giáo dân của mình, thì chắc
chắn giáo xứ ấy sẽ có sức sống và phát triển, bằng ngược lại, nếu giáo xứ nào
có một cha sở chỉ biết làm lễ mà thôi, thì giáo xứ ấy sẽ tan nát, nếu không tan
nát thì giáo dân cũng sẽ chia năm xẻ bảy, vì cha sở “không làm cha sở” mà chỉ
làm lễ mà thôi. Và có lúc, người ta cũng nhìn linh mục của Giáo Hội, để chê bai
hoặc khen ngợi Giáo Hội, bởi vì người ta biết rằng, linh mục chính là sợi giây
liên kết chắc chắn giữa giáo dân và Giáo Hội, giữa con chiên và mục tử là Chúa
Giê-su, và linh mục chính là người chuyển đạt thông ơn của Thiên Chúa cho giáo
dân mỗi khi cử hành thánh lễ và các bí tích.
Dó đó, một linh mục tốt lành và được mọi người yêu mến,
chính là một linh mục mà đức ái vượt qua cả chức thánh mà mình đã lãnh nhận.
Đức Ái vượt qua chức thánh nghĩa là các ngài không coi chức
thánh như là bàn đạp để tiến thân, không coi chức thánh như là một “bảo bối” để
ăn trên ngồi trước, để làm “cha” thiên hạ, bởi vì chức thánh vốn là luôn được mọi
người kính trọng, nhưng các ngài để Đức Ái của Chúa Giê-su chiếm hữu tâm hồn của
mình, và tỏa lan ra đến với mọi người chung quanh mình qua cách sống, như Chúa
Giê-su đã sống và đã chết vì Đức Ái đối với nhân loại tội lỗi vậy.
Đức Ái đối với linh mục như con mắt với con ngươi, như cơm với
cá, như mẹ với con, như cá với nước, nghĩa là nếu một linh mục không có đức ái
thì linh mục ấy như một thây ma (đã chết), mọi hoạt động của các ngài sẽ không
sống động, sẽ không phát lửa yêu thương truyền sang cho người khác; nếu một
linh mục không có Đức Ái thì ngài chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe
xoang xoảng, làm điếc tai nhức óc người khác mà thôi, và quan trọng hơn, chính
các ngài sẽ trở thành những tảng đá lớn chặn đường không cho người ta đến với
Chúa. Người ta có thể thông cảm và bỏ qua những lỗi lầm của một linh mục thông
thái mà kiêu ngạo, nhưng người ta khó mà thông cảm và bỏ qua những hành động
thiếu đức ái của linh mục, bởi vì đức ái là tâm điểm mọi bài giảng của linh mục,
và là cốt lõi trong đời sống của người Ki-tô hữu.
Đức Ái của các linh mục được thể hiện qua cuộc sống của các
ngài, mà giáo xứ là nơi mà các ngài biểu lộ đức ái cách rõ ràng nhất, bởi vì
trong ngày lãnh nhận chức thánh, các tiến chức (phó tế) được đức giám mục xức dầu
thánh trên hai bàn tay của mình, với ý nghĩa không những là để chúc lành thi ân
giáng phúc của Chúa xuống cho mọi người mà thôi, nhưng mà còn là đôi bàn tay để
thực hiện Đức Ái đối với tha nhân nữa, đôi bàn tay của các ngài vươn ra để nắm
lấy bàn tay của người tội lỗi mà an ủi và tha thứ, đôi bàn tay ngài vươn ra để
ban phát của ăn cho họ, như Chúa Giê-su đã làm khi Ngài còn ở thế gian này...
“Bác ái là đồng phục của người Ki-tô hữu”, bởi vì chính Đức
Ái làm nổi bật hình ảnh của Chúa Giê-su nơi bản thân của người Ki-tô hữu. Và với
các linh mục thì Đức Ái không những là đồng phục của các ngài, mà còn là áo
giáp bảo vệ đức tin của người Ki-tô hữu khỏi những ích kỷ hưởng thụ của thế
gian, và qua việc thực hành Đức Ái, mà các linh mục trở thành ngọn đèn sáng, dẫn
đường cho giáo hữu đi trong một xã hội đầy những bóng đêm của ích kỷ và thù hận.
Do đó, Đức Ái của linh mục càng phải nổi bật hơn nữa trong một
xã hội -mà hể những ai làm quan- thì trở thành cái mốc đàm tiếu cho người khác
vì sự thiếu Đức Ái nơi họ.
Linh mục không phải là một chức tước hay một nghề nghiệp,
nên linh mục càng phải thoát ra khỏi vòng “kềm kẹp” của ích kỷ và hưởng thụ,
càng phải thoát ra khỏi vòng “kim cô” hơi hám của đồng tiền dưới bất cứ hình thức
nào, để thong dong thực hành Đức Ái của mình với tha nhân, và nhất là với những
người mà Giáo Hội trao trọng trách cho mình trông nom linh hồn của họ.
Linh mục cũng không phải là một vị thánh tại thế, nên ngài
không thể bàng quang trước những nỗi đau khổ và bất hạnh của tha nhân để lo việc
nhà Chúa, càng không phải cứ ngồi suốt ngày trong nhà thờ nhà xứ để cầu nguyện
hoặc để đợi chờ giáo dân đến, nhưng ngài là một con người học làm thánh và làm
những việc của thánh nhân ở thế gian này, cho nên ngài biết rõ việc làm Đức Ái
rất cần cho việc nên thánh của ngài. Thánh Vincent de Paul đã dạy các đệ tử của
mình rằng “cần phải bỏ Chúa để được Chúa.” Ngài giải thích câu này như sau: khi chúng ta đang đọc
kinh nguyện ngắm mà có người muốn đến gặp chúng ta, thì lập tức chúng ta phải bỏ
đi gặp họ ngay, dù đang đọc kinh nguyện ngắm, bởi vì khi chúng ta đi gặp họ thì
không phải là chúng ta bỏ Chúa, nhưng là đem Chúa đến cho họ bằng việc quan tâm
đến họ, đó chính là thực hành Đức Ái, và là gặp được Chúa nơi họ vậy.
Đức Ái đối với linh mục thì như cái võng bao trùm toàn bộ
con người và việc làm của các ngài, hay nói các khác, Đức Ái như là cái lưới
thiên la địa võng bao lấy cuộc đời của các linh mục, mà thật đúng như vậy, khi
người ta gặp những điều bất hạnh thì họ sẽ thấy an ủi hơn khi tiếp xúc với linh
mục, khi người ta cần sự bình an tâm hồn thì người ta tìm đến linh mục, và như
thế, mọi công việc, mọi hoạt động của linh mục đều được bao trùm bởi Đức Ái của
Chúa Giê-su, cũng như Chúa Giê-su đi đến đâu thì dân chúng vây quanh Ngài đến đấy
để nghe Ngài giảng, để mong sờ vào gấu áo của Ngài cho được lành bệnh[7], và
nhất là để cảm nghiệm được Ngài chính là một lương y đầy lòng yêu thương và
luôn chăm sóc đến họ.
Bởi vì thời nay, có một vài linh mục đi đến đâu thì giáo dân
phải tránh, không phải vì họ coi thường ngài, mà vì mỗi lần gặp ngài thì nhất định
là gợi ý: khi thì gợi ý ủng hộ nhà thờ làm gác chuông, khi thì ủng hộ nhà thờ sửa
chữa cái lan can.v.v... ủng hộ và ủng hộ, cho nên họ sợ mà không dám gặp các
ngài, và điểm tế nhị sâu xa mà họ không dám đối diện với các ngài, là bởi vì họ
không nhìn thấy được khuôn mặt hiền hòa nơi các ngài, mà chỉ thấy khuôn mặt
nghiêm khắc, bởi vì họ thấy các ngài sống không có Đức Ái như lời ngài giảng,
và nhất là cuộc sống của ngài đầy những hưởng thụ như một chủ nhân ông, hoặc
như một tổng giám đốc trong giáo xứ của ngài. Do đó mà Đức Ái luôn luôn vừa là
biểu hiện lòng yêu mến Thiên Chúa nơi các linh mục qua việc phục vụ tha nhân, vừa
là niềm tự hào và an ủi của giáo dân khi họ thấy linh mục của mình sống tràn đầy
Đức Ái với mọi người.
Đức Ái là cốt lõi của lề luật, Chúa Giê-su đã dạy như thế
khi Ngài kể dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành, Ngài kết luận: “Ông hãy đi và cũng hãy làm như vậy.”[8] “Đi và làm như vậy” là làm thế nào, thưa đó là ra đi
rao giảng Tin Mừng và bày tỏ lòng thương xót với người thân cận. Và bởi vì Chúa
Giê-su không đến để phá bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn, có nghĩa là lề luật của
Thiên Chúa truyền dạy qua ông Môi-sê đã rất rõ ràng, nhưng vì các biệt phái,
kinh sư và các thầy thông luật đã lạm dụng lề luật để ăn trên ngồi trước, để chất
gánh nặng trên vai người dân, cho nên Chúa Giê-su đến để làm cho lề luật của
Thiên Chúa được nhẹ nhàng, trong sáng hơn và đầy đủ ý nghĩa cốt lõi hơn, đó
chính là Đức Ái, để khi mọi người tuân giữ lề luật thì không còn bị sức ép giữ
luật nữa, mà chính là vì lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như chính mình vậy.
Đức Ái tự bản chất chính là “yêu người như chính mình” (ái
nhân như kỷ), và “anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho
người ta như vậy”[9].
Linh mục là người được Thiên Chúa chọn để làm điều ấy, tức
là để thực thi Đức Ái giữa một xã hội mà dối trá, bon chen, hưởng thụ của thế
gian đang len lõi dần dần vào trong hàng ngũ những người có chức thánh, đó
chính là các linh mục của Chúa Giê-su. Chính Đức Ái làm cho linh mục trổi vượt
giữa đời và giữa những giao tiếp với nhau trong từng thành phần của xã hội
trong cuộc sống của mình, bởi vì khi thực hiện Đức Ái cho một ai đó, vì mình là
linh mục, thì chắc chắc phần thưởng sẽ to lớn trên trời đang dành cho các ngài,
bởi vì khi thực hiện Đức Ái nhân danh linh mục Chúa Giê-su thì hiệu quả của việc
làm càng thêm giá trị của các công chứng nhà nước. Tại sao vậy ? Tại vì một
linh mục luôn sống Đức Ái và đem Đức Ái đặt lên hàng đầu trong cuộc sống của
mình, thì giáo dân sẽ thấy Chúa Giê-su đang thực sự hiện diện trong các ngài, bởi
vì như lời thánh Tô-ma A-ki-no tiến sĩ đã nói: “Nếu
không có đức ái thì không có bất kỳ đức hạnh nào, cũng giống như nếu không có mặt
trời, thì cũng không có một tinh tú nào cả. (Thánh Thomas de Aquino)”[10].
Linh mục đối với Đức Ái giống như con mắt với thân thể, mắt
bị mù thì thân thể không có định hướng được cho mình, cũng vậy khi Đức Ái bị
thui chột (vì hưởng thụ, vì tham lam...) thì linh mục không những sẽ trở thành
công cụ của ma quỷ, mà còn trở thành một bại tướng đắc lực dưới trướng của ma
quỷ gây nhiều gương mù gương xấu cho giáo dân và cho tha nhân. Chẳng hạn có một
vài linh mục đi đâu cũng nói về Đức Ái và mọi việc đều quy về Đức Ái, và được
giáo dân hoan hô ủng hộ vật chất lẫn tinh thần, nhưng sau đó thì giáo dân chán
ngán cái đức ái của các ngài, nghĩa là các ngài dùng cộng đoàn nghèo khó của
mình làm bình phong che đậy cái tham lam hưởng thụ của mình: từ khi xây được
nhà thờ to lớn sừng sửng giữa đám nhà lá nghèo khổ của giáo dân, thì cha sở
cũng thay da đổi thịt đi xe đời mới, ăn sung mặc sướng và mỗi tuần đều vi vút
lái xe đi lên thành phố một hai lần với nhiều lí do khi được giáo dân hỏi, mà
trước đây chưa bao giờ ngài làm như thế cả. Khi Đức Ái không còn là tâm điểm của
cuộc đời linh mục, thì giống như con lợn đã sút chuồng đi tìm thỏa mãn thân xác
của mình, hưởng thụ vật chất thế gian giống như người thế gian, đó chính là điều
làm cho khuôn mặt của Chúa Giê-su bị biến dạng trên mẫu người thứ hai của Ngài
là các linh mục: Alter Christus-Đức Ki-tô thứ hai.
Sách Gương Chúa Giê-su nói rằng: “Không
có đức ái, thì công việc bên ngoài vô dụng. Vì đức ái mà làm việc, mặc dù rất
nhỏ nhưng lợi ích rất lớn.”[11] Thật đúng như vậy, xây nhà thờ to lớn mà không có Đức
Ái thì giống như xây nhà thờ trê nền cát, không làm cho lòng giáo dân thành một
khối yêu thương; không có Đức Ái thì thành lập cho nhiều hội đoàn trong giáo xứ,
thì các hội đoàn ấy sẽ trở thành từng phe nhóm chỉ trích nhau và cuối cùng sẽ
chỉ trích cả cha sở của mình, cho nên thà như thánh Gioan Maria Vianney trước hết
chuyên tâm cầu nguyện để hoán cải mình và hoán cải giáo dân, sau đó lấy đời sống
Đức Ái của mình để xây dựng giáo xứ, bởi vì nếu không có Đức Ái thì tất cả những
việc bên ngoài đều vô dụng, và trở thành cái phèng la kêu chũm chọe như lời của
thánh Phao-lô mô tả trong bài ca Đức Ái của ngài.
Đức Ái toàn vẹn không phải chỉ lo cho giáo xứ, giúp đỡ mọi
người mà thôi, nhưng trước hết phải có Đức Ái đối với bản thân của mình, bởi vì
đa phần tất cả mọi người khi nói đến Đức Ái, là luôn nghĩ đến giúp đỡ và làm việc
từ thiện cho người khác, mà quên mất rằng mình cũng phải có Đức Ái đối với bản
thân của mình.
1.
Đức Ái đối với bản thân mình.
Em thân mến,
Có một vài bạn thanh niên nói đùa (nhưng không đùa) với anh
là trong “tứ đổ tường” (rượu chè, thuốc sái, cờ bạc
và đĩ điếm[12],
và khi một người mà nghiện đủ bốn thứ ấy thì chắc chắn là tan gia bại sản, bởi
vì phải bán nhà bán đất thì mới có tiền để nghiện những thứ ấy, nên gọi là “tứ
đổ tường”) của người đời, thì các linh
mục chiếm hết “hai đổ tường” rồi, đó là bia rượu và thuốc lá. Tuy không phải tất
cả các linh mục đều có “hai đổ tường” nhưng phần nhiều là như thế, bởi vì không
có người nào thích uống rượu mà lại không hút thuốc, hoặc ngược lại, không có
ai nghiện thuốc mà lại không uống rượu. Tuy nhiên, xét cho cùng để được gọi là
“tứ đổ tường” là khi mà người ta trong “tứ đổ tường” món gì cũng nghiện, tức là
thích và nếu không có thì không được, nó như một nhu cầu cần thiết của họ thì mới
bị gán cho là “tứ đổ tường”.
Khi một linh mục nghiện một trong “tứ đổ tường” ấy, thì trước
hết, chính ngài không có Đức Ái đối với bản thân của mình, bởi vì “tứ đổ tường”
ấy món nào cũng độc hại, không những độc hại cho thân xác mà còn độc hại với
linh hồn hoặc với cuộc sống tu đức của các ngài; không những có hại với bản
thân mình, mà còn có hại với người khác nữa, nhất là linh hồn của những người
mà Giáo Hội -thay mặt Chúa Giê-su- trao cho các ngài chăm lo phần linh hồn của
họ. Mà ảnh hưởng của linh mục đối với mọi người nói chung, và với giáo dân nói
riêng thì rất lớn, do đó, thực hành Đức Ái đối với bản thân mình –linh mục- thì
rất quan trọng, quan trọng như là nhu cầu ăn uống hằng ngày của con người vậy.
“Hai đổ tường” mà anh muốn chia sẻ là bia rượu và thuốc lá
a.
Rượu
Có nhiều giáo dân thắc mắc: tại sao có một số linh mục uống
rượu nhiều vậy ? Giáo dân lo lắng cho linh mục là những mục tử của mình khi các
ngài uống nhiều rượu, chứ giáo dân không lên án các linh mục uống rượu. Sự lo lắng
của họ rất chính đáng, bởi vì khi uống nhiều rượu thì không tốt cho thân thể sức
khỏe của các ngài, hơn nữa nếu một linh mục mà uống nhiều rượu thì ngài không
thể khuyên bảo giáo dân từ bỏ rượu được, nhất là trong xã hội “kim tiền và ăn uống”
hiện nay.
Đức ái đối với mình chính là tự mình nêu gương (dĩ thân tác
tắc) để trở thành nhà mô phạm, không những trong lãnh vực giáo dục, mà còn
trong lãnh vực tu đức nữa, bởi vì bản thân linh mục chính là nhà mô phạm. Người
ta, dù thuộc tôn giáo nào, hoặc không theo tôn giáo nào thì cũng luôn kinh trọng
các linh mục, bởi vì các ngài được đào tạo và huấn luyện để trở nên thầy dạy của
mọi người về đàng nhân đức, do đó mà các linh mục phải luôn có đức ái đối với bản
thân mình, để trở thành chứng nhân cho lời giảng dạy của mình là đúng, là hợp với
Lời Chúa mà mình đã sống và thực hành.
Các linh mục thường giảng dạy và khuyên bảo giáo dân của
mình sống phải có đức ái với nhau, phải luôn nhìn thấy những nhu cầu của tha
nhân để giúp đỡ họ nếu có thể được, nhưng các ngài thường không có đức ái đối với
bản thân mình.
Các ngài thường khuyên bảo người ta đừng uống rượu, nhưng
các ngài -có khi- uống rượu nhiều hơn họ, đó là các ngài không có đức ái đối với
bản thân của mình. Khi một linh mục có đức ái đối với bản thân mình, thì các
ngài cảm thấy tổn thương khi thấy người khác uống quá nhiều rượu hoặc say rượu,
và cảm thông sâu xa với những gia đình có những người chồng rượu chè be bét mà
chia sẻ Đức Ái với họ, nhờ đó mà khi ngài lên tòa giảng để giảng Lời Chúa, thì
ngài cảm nghiệm sâu sắc về lời mình rao giảng, và giáo dân cũng sẽ cảm nhận được
lời của các ngài thật sự đánh động tâm hồn của họ, mà không cần phải có tài lợi
khẩu, bởi vì các linh mục đã biết tôn trọng và có Đức Ái đối với bản thân mình,
mà không làm hại mình bằng những ly rượu quá chén...
Con người thời nay rất dị ứng với bia rượu, khắp nơi ngoài
xã hội người ta khuyến khích không nên uống rượu nhiều, các bạn trẻ thời nay
cũng có một số lớn không thích uống các thức uống có hơi men, thì linh mục cũng
nên hạn chế việc uống rượu, nhất là những lần tiệc tùng có giáo dân hoặc có các
bạn trẻ tham dự, bởi vì có những bạn trẻ rất không thích linh mục của mình uống
quá nhiều rượu trước mặt họ, bởi vì có những bạn trẻ cũng như có một số giáo
dân đã ngao ngán, ngán ngẫm khi thấy một linh mục trẻ măng dâng thánh lễ thì mặc
đỏ kè nói năng lè nhè, và chầu phép lành thì đi đứng xiêu vẹo...!
Có giáo xứ nọ, cha sở rất thích uống rượu, và thường uống rượu
với một vài ba giáo dân cũng thích uống rượu, ngài cùng với họ một tuần ít là
vài lần uống rượu với nhau, khi thì ở nhà xứ, khi thì ở nhà giáo dân, khi thì ở
quán nhậu và có khi vừa uống rượu vừa hát ka-ra-ô-kê, làm cho giáo dân trong xứ
chán ngán, và gia đình họ bất mãn với cha sở vì cứ uống rượu với con cái của
mình, thế là họ không coi trọng cha sở nữa, họ coi cha sở cũng như một tên bợm
nhậu không hơn không kém, kết quả là trong giáo xứ chia năm xẻ bảy mất đoàn kết,
và giáo dân thì đa phần không thích cha sở của mình uống rượu quá nhiều, thế là
đem chuyện cha sở uống rượu đi nói khắp nơi, đương nhiên khi nói lại cho người
khác nghe thì có thêm mắm thêm muối vào cho câu chuyện thêm phần “mặn mà”, vậy
là cha sở chịu thêm nhiều tiếng không tốt...
Đức Ái không chỉ có nghĩa là giúp đỡ người khác mà
thôi, nhưng còn là giúp đỡ bản thân mình nữa, việc tự mình kềm chế khi uống rượu
là một hành động của Đức Ái đối với bản thân mình, và nếu suy cho thấu đáo thì
đó còn là niềm vui cho mọi người nữa, nhất là giáo dân của mình, bởi vì khi
giáo dân thấy cha sở của mình không nâng ly rượu “dô dô” với thực khách, thì họ
rất vui mừng và cảm động, bởi vì Đức Ái với bản thân của mình và với cộng đoàn
giáo xứ mà ngài không uống rượu hoặc rất hạn chế uống rượu...
“Con hãy chừng mực trong
cách ăn uống, vì khi ăn uống, sẽ nói lên tư cách của con là một mục tử tốt lành
hay bê tha!”
“Con hãy nâng ly chúc mừng
các khách dự tiệc, nhưng con đừng để cho người ta đánh giá con là một người
nghiện rượu!”
“Giáo dân sẽ không hài
lòng khi thấy vị mục tử của mình uống qua ly rượu thứ ba, khi con uống qua ly
rượu thứ tư, thì họ sẽ coi con là người như họ, không đáng kính trọng!”
“Giáo dân sẽ rất vui mừng
và hãnh diện cùng đồng bàn với con, nhưng họ sẽ rất buồn và lấy làm nhục khi thấy
con uống hết ly rượu nầy qua ly rượu khác!”
“Con cũng nên nhớ điều nầy: trước khi dâng thánh lễ, con đừng bao giờ uống
một giọt rượu nào cả, nếu con không muốn giáo dân sẽ nói con là: ông cha rượu!”[13]
Giáo dân của các ngài sẽ rất hãnh diện với các giáo
dân của các giáo xứ khác, khi họ vui vẻ khoe với các giáo dân là cha sở của
mình không hề uống rượu, nhưng rất vui vẻ và hòa đồng với mọi người...
b.
Thuốc lá
Hình như linh mục nào cũng biết hút thuốc, ngoại trừ một số
ít linh mục thuộc tu viện (nhà dòng), hút thuốc thì không tội lỗi gì cả, nhưng
sẽ không tốt cho bản thân của mình, và có khi gây khó chịu cho giáo dân khi họ
đi xưng tội, bởi vì mùi thuốc là nơi cha giải tội sẽ làm cho họ chịu không nỗi
và không cầm lòng cầm trí để xưng tội. Đó là lời chia sẻ của một vài giáo dân,
khi họ đi xưng tội với một vài linh mục thường xuyên hút thuốc.
Thời nay, khoa học chứng minh hút thuốc rất có hại cho sức
khỏe, dù linh mục không có chuyện tứ đổ tường, nhưng khi các ngài hút thuốc quá
nhiều thì cũng sẽ ảnh hưởng đến đời sống tu đức của mình.
Có một vài linh mục trước khi dâng thánh lễ khoảng mười lăm
phút thì hút một điếu thuốc, dâng lễ xong vừa cởi áo lễ ra là lập tức chạy ra
ngoại bật quẹt hút một điếu cho đã cơn “khát” thuốc trong thời gian làm lễ, các
ngài không nghĩ rằng thói quen như thế làm giáo dân rất khó chịu, bởi vì giáo
dân được học giáo lý rằng: phải giữ chay lòng một giờ trước khi rước lễ, dù uống
nước trà cũng không nên, và khi rước lễ xong thì Chúa Giê-su đang ở trong lòng
mình, phải giữ vệ sinh sạch sẽ “lục phủ ngũ tạng” khoảng mười lăm phút đến nửa
giờ, thì trái lại, linh mục vừa dụi tắt điếu thuốc thì lập tức dâng lễ, và vừa
dâng lễ xong thì lập tức chạy ra ngoài hút thuốc, mặc cho giáo dân đang đọc
kinh cám tạ ơn Chúa, đó không phải là một thói quen không tốt hay sao ?
Có một vài linh mục hút thuốc liên tục, hết điếu này đến điếu
khác liên miên, đó là đốt phổi của mình chứ không phải tìm thú vị khi hút thuốc,
đó là hút thuốc độc làm hại bản thân mình, và như thế cũng có nghĩa là các ngài
không có Đức Ái đối với bản thân của mình.
Những người khác thì có rất nhiều lý do để hút thuốc, nhưng
linh mục thì không có lý do gì để hút thuốc, chỉ là thói quen, thói quen đưa đến
nghiện mà thôi.
Người đời khi có chuyện buồn thí hút thuốc, hút liên miên đến
ngón tay vàng khè để quên đi phiền muộn, nhưng linh mục khi có chuyện buồn thì
nên tâm sự với Chúa, đọc sách hoặc giải trí hoặc trò chuyện với bạn bè.
Người đời khi cần suy tư tìm tư tưởng mới để viết sách thì
hút thuốc, nhưng linh mục thì không viết sách, mà nếu có viết sách thì tư tưởng
không phải bởi hút thuốc mà có, nhưng bởi cảm nghiệm trong cuộc sống và cầu
nguyện với Chúa, và ý tưởng lớn nhất của các ngài chính là tinh thần và tư tưởng
của Phúc Âm.
Người đời khi thất tình thì hút thuốc uống rượu, nhưng linh
mục thì không có tình để thất tình, nên không cần hút thuốc và uống rượu để
quên sự đời, và người đời có rất nhiều lý do để hút thuốc, nhưng linh mục thì
không có lý do gì cả, chỉ là thói quen mà thôi.
Hút thuốc uống rượu tự nó không là tội lỗi, nhưng đối với một
linh mục biết kềm chế cơn thèm muốn hút thuốc và uống rượu, thì chính là Đức Ái
đối với bản thân mình, và có thể là mẫu gương sáng cho giáo hữu, và nhất là làm
cho bài giảng của mình tăng phần giá trị và hấp dẫn, bởi vì xưa nay chưa có một
linh mục nào uống nhiều rượu hút nhiều thuốc mà được giáo dân khen ngợi là một
linh mục đạo đức thánh thiện.
Lại có một vài linh mục nại đến việc uống rượu là...chính
đáng, vì Chúa Giê-su cũng đã đi dự tiệc cưới ở thành Ca-na và cũng có uống rượu,
nếu nại lí do trên đây để vui đùa thì được, nhưng lấy chuyện Chúa Giê-su uống
rượu ra, để biện minh cho việc uống rượu như hủ chìm của mình thì thật là đắc tội
với Chúa Giê-su. Rượu và việc uống rượu thì không phải là tội, nhưng cứ nói với
giáo dân rằng mình uống rượu bao nhiêu cũng được chẳng bao giờ say, thì hãy coi
chừng, sẽ có một ngày giáo dân sẽ cười và tặc lưỡi nói cha cố gì mà lúc nào mặt
cũng đỏ kè (uống rượu nên mặt đỏ), thì lúc đó có lẽ lời giảng của linh mục trên
tòa giảng sẽ mất đi mức độ khả tín nơi giáo dân của mình.
2.
ĐỨC ÁI VỚI GIÁO DÂN
Thánh Phao-lô tông đồ đã nói: “Cũng
như anh em đã từng trỗi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết,
lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được
nơi chúng tôi, thì anh em cũng phải trỗi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc
quyên này nữa.”[14]
Vâng, các linh mục đều trỗi vượt giáo dân về mọi mặt: đức
tin, sự hiểu biết về Thiên Chúa và lòng nhiệt thành với Chúa và Giáo Hội, và nhất
là lòng bác ái cao thượng của các ngài đối với mọi thành phần dân Chúa, bởi vì
mục đích mà Giáo Hội sai phái các linh mục đến với mỗi giáo xứ, không phải là
làm cho người giáo hữu ở đó, nhìn thấy Chúa Giê-su và Giáo Hội đang ở trong con
người của các linh mục hay sao ? Do đó mà mọi lời nói, mọi việc làm của linh mục
đều bày tỏ Đức Ái của Chúa Giê-su đang thực hiện trên giáo xứ của ngài.
a.
Quyên góp xây dựng giáo xứ.
Có một vài linh mục vì bức xúc với cuộc sống nghèo khó của
giáo dân mình, nên đi đông đi tây để kiếm tiền về cho con em trong giáo xứ được
đến trường học, đây là bức xúc do Đức Ái tự tâm hồn của cha sở mà có; tuy nhiên
vì để cho giáo xứ có bộ mặt văn hóa mới như các giáo xứ lớn trong thành phố của
mình, nên có các linh mục hết vay tiền người này đến vay tiền người nọ, để thực
hiện các công trình do chính tay mình hoặc thuê các kiến trúc sư vẻ kiểu mẫu,
mà không cần tham khảo ý kiến của giáo dân (ít nữa là của ban hội đồng giáo xứ),
cho đến khi vỡ nợ thì bị mọi người khinh dễ và coi thường, và hậu quả là ngài
phải bỏ trốn khỏi giáo xứ của mình, vì không trả nổi số tiền nợ quá lớn mà ngài
tự mình vay mượn...
Đức Ái là không để gánh nặng trên vai người nào cả, bởi vì
hoa quả của Đức Ái trước tiên là niềm vui hoan lạc, niềm vui hoan lạc này không
thể có được khi linh mục đi vay tiền để sửa lại nhà thờ, khi mà nhà thờ của
giáo xứ vẫn còn sử dụng được đến cả mấy chục năm; niềm vui này cũng không thể
có được khi linh mục không vì hoàn toàn danh Chúa để làm phòng ốc sinh hoạt của
giáo xứ, nhưng danh Chúa thì chỉ một phần ba mà thôi, hai phần ba còn lại là vì
danh tiếng cá nhân của mình, làm để được tiếng khen để đời, làm để lỡ đức giám
mục đổi đi thì cũng có gì đó để lại cho giáo xứ chứ; niềm vui này cũng không thể
có được khi mà giáo xứ đã có đầy đủ phòng ốc, nhà thờ mới xây dựng đẹp đẽ hùng
tráng, các em nhỏ nghèo trong giáo xứ được giúp đỡ đến trường, thì tiếng xì xầm
to nhỏ của giáo dân bay ra khắp nơi là cha sở đi xin tiền về cho giáo xứ, nhưng
hết một nửa tiền thì ngài bỏ túi riêng để sử dụng cho mình hoặc cho gia đình bà
con của ngài...
Chúa Giê-su –vị mục tử nhân lành và nghèo khó- không muốn Đức
Ái kiểu đó của linh mục, nhưng Ngài muốn linh mục phải thể hiện bản lãnh Đức Ái
của mình, trong sứ mạng của một mục tử hết lòng tin tưởng và phó thác vào tình
yêu của Ngài, chính vì thế mà Chúa Giê-su trong Tin Mừng của thánh Mát-thêu đã
hai lần Ngài nhấn mạnh là Thiên Chúa cần “tấm
lòng nhân chứ đâu cần lễ tế”[15], bởi vì kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân
thì mới gọi là lễ tế đích thực, tức là Ngài muốn các linh mục dùng Đức Ái của
mình để xây dựng đền thờ tâm hồn của các tín hữu, hơn là xây dựng đền thờ vật
chất mà Đức Ái chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài, để che giấu những kiêu căng bên
trong tâm hồn của mục tử; Thiên Chúa cần Đức Ái của các linh mục để làm cho tâm
hồn các tín hữu đoàn kết với nhau, hơn là xây dựng nhà thờ nguy nga đồ sộ mà
đàn chiên tan nát vì những ghét ghen, tị hiềm, phe cánh khi nhà Chúa vừa mới
xây xong; Ngài muốn Đức Ái của linh mục phải là động cơ lôi kéo những tâm hồn
giáo dân nguội lạnh lòng mến, khô khan lòng đạo, biết đốt lên ngọn lửa mến Chúa
yêu người qua việc thực hiện Đức Ái của linh mục, hơn là khoe khoang mình đã vì
giáo xứ, vì nhà Chúa mà hao tổn rất nhiều vật chất lẫn tinh thần...
Em thân mến,
Vì có một vài linh mục nghĩ rằng Thiên Chúa muốn cư ngụ
trong một nhà thờ lộng lẫy nguy nga, nên các ngài đi xin của bố thí nơi những
giáo dân có máu mặt để xây nhà thờ, để xây mới hoặc sửa sang lại phòng ốc cho
các sinh hoạt của giáo xứ, nghĩa là hể cần tiền là đến với họ (những gia đình
giàu có), cho nên có không ít giáo dân giàu có ấy coi thường các linh mục của
mình, và coi các ngài như là một con người tầm thường không hơn không kém những
người đến vay mượn tiền của họ là bao nhiêu.
Có mẫu chuyện đối thoại thật này: “Mấy ngày tết, trong nhà
giáo dân giàu có nọ, có người hỏi bà chủ nhà: “Tết
năm nay chị không đi chúc tết các cha quen biết à ?”
Bà chủ nhà trả lời: ”Chị
mà đi chúc tết các ông cha ấy à ? Các ông cha ấy phải đến đây chúc tết chị mới
phải chứ...!”
Tại sao lạ vậy ? Từ trước đến nay có giáo dân nào bắt cha sở
hoặc các linh mục phải đến chúc tết mình trước, thật là điều nghịch nhĩ và chói
tai trái sự đời, vậy mà chuyện này lại có thật trong giáo xứ nọ. Chẳng qua là tại
vì các ông cha ấy thường chạy đến nhà bà giáo dân giàu có nọ để xin tiền về cho
nhà thờ, nghĩa là ngài muốn làm gì ở nhà thờ, thì chạy đến “cầu cứu” với bà chủ
giàu có ấy, hoặc xin tiền cho cá nhân mình tiêu xài, nên mới có chuyện coi thường
các ngài như vậy, mà không coi thường sao được khi có các linh mục hể rãnh rỗi
là đến những nhà giáo dân ấy chơi từ sáng đến tối, ngày tết thì đến đánh bài,
ngày thường thì đến ăn cơm uống rượu. Đức Ái của các linh mục đối với nhà thờ
nhà xứ mà bày tỏ không đúng chỗ, thì ngay cả người giáo dân nghèo cũng khinh
thường các ngài, bởi vì giáo dân không ai muốn người khác coi thường các linh mục,
nhất là coi thường cha sở của mình, họ đau lòng lắm khi thấy những người giàu
có giúp đỡ cho cha sở mình rồi coi thường các ngài, thậm chí khi nói chuyện với
cha sở mà cha sở thì một thưa bà hai thưa chị coi bộ ...lép vế, làm mất đi tư
cách vừa là linh mục vừa là mục tử của mình.
Đức Ái vì nhà Chúa nơi các linh mục, không phải đi quỵ lụy
những người cho tiền để các ngài xây dựng nhà thờ, nhưng các ngài phải làm sao
cho Đức Ái của mình tỏa sáng, để giáo dân –dù nghèo hay giàu- cũng tự nguyện
đóng góp cho nhà Chúa, không phải than thờ hoặc khoe khoang, nhưng là vì những
lời nói của cha sở là sự thật, và hành động của cha sở thì luôn bày tỏ Đức Ái của
ngài với việc xây dựng nhà Chúa đã đánh động tâm hồn của giáo dân, để rồi họ rộng
tay với nhà Chúa trong trách nhiệm và yêu thương.
Có một vài giáo xứ, cha sở muốn xây dựng nhà thờ thì khoáng
cho giáo dân bao nhiêu phần trăm, còn lại ngài đi quyên tiền những nơi khác,
giáo dân giàu hay nghèo cũng phải gánh lấy khoảng tiền mà cha sở khoáng cho họ,
có những gia đình nghèo cơm không đủ ăn, không có tiền cho con cái đóng học
phí, nhưng vì cha sở đã nói và phân chia khoảng phải đóng góp để làm nhà thờ mà
họ phải cắn răng bóp bụng để đóng góp với giáo xứ. Có một vài giáo dân đi hợp
tác lao động nước ngoài (Taiwan) đã nói với anh rằng, gia đình ở bên Việt Nam
(miền Bắc) gọi phone qua nhắc gởi tiền về để đóng góp cho nhà thờ, năm ngoái họ
đã gởi về gia đình mười triệu đồng (VN) rồi, bây giờ lại phải gởi về nữa vì cha
sở nói không đủ. Chắc chắn Thiên Chúa không muốn cư ngụ trong những nhà thờ như
thế, khi mà tâm hồn giáo dân than vãn vì làm nhà Chúa mà họ phải cực khổ thêm.
Đương nhiên cha sở có nhiều cách để trả lời cho họ: nào là nhà thờ xuống cấp rồi,
nào là không có chỗ để cho con em học giáo lý, nào là phải xây dựng giáo xứ của
mình càng ngày càng đẹp.v.v... nhưng khi khánh thành nhà thờ thì người ta trầm
trồ khen ngợi nhà xứ của cha sở ở thì quá đẹp, quá tiện nghi và sang trọng hơn
cả nhà thờ là nhà của Chúa, cửa kính nhà cha sở bóng loáng, vào phòng khách nhà
cha sở mát rượi như vào khách sạn năm sao ở thành phố Sài Gòn, còn vào nhà thờ
chầu Chúa muốn mở cái máy quạt cũng bị cha nạt nộ...
Thánh Augustin nói rằng: “Có
tình yêu thì không có nhọc nhằn; cho dù có nhọc nhằn thì nhọc nhằn này cũng bị
tình yêu hóa lỏng.”[16] Đức Ái là như thế, nhọc nhằn của nó chính là hoan lạc
trong tâm hồn, sự hoan lạc này được phát xuất từ tâm hồn yêu thương của linh mục,
được sự đồng tình của giáo dân trong các công việc của giáo xứ, và do đó, dù có
gặp nhiều phá phách hay ngăn trở, thì Đức Ái cũng vẫn luôn là kim chỉ nam hướng
dẫn mọi công việc làm của linh mục tại nơi mà mình phục vụ, nhất là trong cộng
đoàn giáo xứ.
b. Đức Ái trong lời nói.
Đức Ái đối với mọi người và với giáo dân nơi giáo xứ
mình phục vụ, không phải chỉ là đi quyên tiền xây dựng nhà thờ mà thôi, nhưng
còn là đối xử cách trân trọng và lịch sự với giáo dân của mình nữa, đó mới
chính là Đức Ái thật sự làm cho người khác nhìn thấy linh mục như là một mẫu
gương đạo đức thánh thiện, một nhà mô phạm gương mẫu, thánh Phao-lô tông đồ đã
khuyên dạy ông Ti-mô-thê rằng: “Đừng nặng lời với cụ già,
nhưng khi khuyên nhủ, hãy coi cụ như cha; hãy coi các thanh niên như anh em,
các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với tấm lòng hoàn toàn trong sạch.”[17] Lời dạy của ngài đầy tràn Đức Ái mà tất cả mọi người
Ki-tô hữu đều phải biết và thực hành, nhất là các linh mục, bởi vì quyền cai quản,
giảng dạy và thánh hóa của Chúa Giê-su, đã được trao cho các linh mục của Giáo
Hội Công Giáo, do đó, Đức Ái của các linh mục khi thi hành công việc mục vụ cần
phải hài hòa, tôn trọng và lịch sự với mọi người trong giáo xứ của mình.
Có nhiều giáo dân than trách rằng, thời nay có một số
linh mục trẻ sống thiếu nhân bản, bởi vì các ngài chỉ chú trọng đến việc xây dựng
nhà thờ nhà xứ sao cho to lớn đẹp đẽ, hoành tráng, để thi đua với các linh mục
bạn đang ở những giáo xứ lớn có đông giáo dân và nhà thờ đẹp, mà các ngài không
chú trọng, hoặc chú trọng rất ít đến vấn đề nhân bản của các ngài khi tiếp xúc
với giáo dân, mà nhân bản chính là Đức Ái trong giao tiếp vậy. Nếu một linh mục
chính xứ chuyên tâm vào việc sống có Đức Ái với các giáo dân của mình, tức là
các ngài sống có nhân bản Ki-tô giáo, thì giáo xứ của ngài chắc chắn sẽ là một
giáo xứ phát triển đoàn kết và yêu thương, mà nhân bản Ki-tô giáo, nếu suy rộng
ra, thì “cao cấp” hơn nhân bản của xã hội mà con người ai cũng phải học phải biết.
Nhân bản phổ thông là người nhỏ lễ phép với người
trên, nói năng vâng dạ, bởi vì mình nhỏ hơn người đối diện, nhưng nhân bản
Ki-tô giáo không những thấy mình nhỏ hơn người đối diện để nói chuyện cho lễ
phép, mà còn nhìn thấy Chúa Giê-su trong người đang nói chuyện với mình nữa, có
như thế mới tôn trọng và yêu mến họ được.
Có một vài linh mục trẻ coi chức linh mục vượt qua cả
Đức Ái nên các ngài sống thiếu nhân bản với người già, chẳng hạn như nói năng cộc
lốc với họ, bạt tai nhéo tai trẻ em và uống rượu với thanh niên trong giáo xứ,
các ngài quên mất lời Đức giám mục đã răn dạy các ngài trong ngày truyền chức
linh mục cho các ngài: “Vậy chúng con hãy luôn
luôn vui vẻ chu toàn nhiệm vụ của Đức Ki-tô Thượng Tế trong Đức Mến chân thật,
không tìm kiếm những sự thuộc về mình, nhưng tìm kiếm những gì thuộc về Đức
Giê-su Ki-tô...”[18]
Và, không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giê-su đã dùng dụ
ngôn người Sa-ma-ri tốt lành[19] để đề
cao Đức Ái, bởi vì trong dụ ngôn này, có đến ba nhân vật của ba giai cấp của xã
hội thời đó được nhắc đến, đó là thầy tư tế, thầy Lê vi và người Sa-ma-ri ngoại
đạo nhưng tốt lành. Thầy tư tế vì quá coi trọng chức tư tế hơn cả Đức Ái, cho
nên đã bỏ mặc người bị nạn bên đường, thản nhiên bước đi; thầy Lê vi cũng coi
trọng việc phục vụ bàn thờ là cao trọng hơn Đức Ái, nên cũng tránh qua người bị
nạn mà đi; cuối cùng chỉ có người Sa-ma-ri ngoại đạo cũng đi ngang qua người bị
nạn, nhưng không nhẫn tâm bỏ đi, mà cúi xuống băng bó vết thương, ân cần săn
sóc người bị nạn.v.v...nghĩa cử cúi xuống săn sóc người bị nạn, người đau khổ
chính là hành vi của Đức Ái mà tất cả mọi người có lương tâm đều phải làm, thì
huống gì là thầy tư tế, thầy lê vi là những người mô phạm của Đức Ái !
Các linh mục của Chúa Giê-su càng phải coi trọng Đức
Ái hơn tất cả mọi người, chức linh mục là một phẩm hàm cao quý, không do người
đời nhưng do tự Thiên Chúa, do đó, mà các linh mục cần phải sống có Đức Ái và đặt
Đức Ái trên tất cả mọi công việc của nhà xứ, và Đức Ái đòi hỏi các ngài phải hy
sinh chính mình từ thời gian cho đến công việc, và vì Đức Ái mà các ngài phải
quên đi ngay cả bản thân của mình.
Chu toàn bổn phận của Đức Ki-tô trong đức mến (Đức Ái)
chân thật, chính là quên đi chức vụ linh mục khi phục vụ tha nhân, mà chỉ còn Đức
Ái để phục vụ mà thôi, bởi vì khi phục vụ cộng đoàn mà các ngài vẫn còn nhớ đến
chức vụ linh mục chính xứ của mình, thì các ngài sẽ chấp tay sau lưng để trò
chuyện với những cụ già đáng tuổi cha ông của mình, hoặc nói năng xẳng giọng với
họ, hoặc lớn tiếng nạt nộ -và có khi- bạt tai trẻ em khi chúng nó nghịch ngợm
phá phách, hoặc “kỳ cục” hơn nữa, là các ngài lớn tiếng chỉ trích và đuổi không
cho các cô thiếu nữ tham dự thánh lễ, vì các cô ấy mặc áo quần mô đen “híp
hop”. Đức Ái không phải trợn mắt bặm môi, nhưng là hiền hòa giải thích, động
viên khuyên bảo với tinh thần yêu thương của người cha trong gia đình, bởi vì một
lời nói hiền hòa thì có sức mạnh hấp dẫn hơn cả một ngàn lời nói cộc lốc và
nóng nảy.
Đức Ái trong lời nói không phải là nói năng dẻo kẹo để
lấy lòng người khác, cũng không phải là nói những lời kể công kể trạng người
này hay kết tội người kia, nhưng là biết kính trên nhường dưới, biết nhìn thấy
cha mẹ mình nơi những cụ già để nói năng từ tốn với họ; biết nhìn thấy anh chị
em của mình nơi các bạn trẻ thanh niên nam nữ, để chan hòa yêu thương và giúp đỡ;
biết coi các em thiếu nhi như là những con cái mình, để yêu thương dạy dỗ bằng
lời lẽ ôn tồn dịu dàng, có như thế, các linh mục mới đi sát với lời dạy của
thánh Phao-lô tông đồ gởi cho ông Ti-mô-thê trên đây.
Đức Ái trong lời nói cũng là lời rao giảng của linh mục
khi ngài đứng trên tòa giảng, lời giảng của ngài cần thể hiện Đức Ái rõ ràng nhất.
Có một vài linh mục dùng tòa giảng để “chửi” giáo dân
vô tội vạ, làm đụng chạm đến vết thương sâu tận tâm hồn của họ, cho nên khiến
cho nhiều người cảm thấy bị xúc phạm khi linh mục dùng tòa giảng để “sửa lưng”
họ, cho nên họ không thích thú gì khi đến nhà thờ. Đức Ái như thánh Phao-lô
tông đồ nói là tha thứ tất cả, là tin tưởng tất cả, có tha thứ cho giáo dân khi
họ lỡ xúc phạm đến mình, thì tòa giảng mới trở nên nơi công bố lời hòa giải của
Thiên Chúa, bằng không thì nó sẽ là hố sâu ngăn cách cha sở với họ, ngăn cách
nhà thờ với họ và vô tình chính linh mục là người cản ngăn họ đến với Chúa. Có
tin tưởng giáo dân, thì lời nói của mình mới được giáo dân tôn trọng, bằng
không thì lời giảng của linh mục chỉ làm cho họ buồn ngủ, chán ngắt và bỏ ra
ngoài tán dóc. Nếu không có Đức Ái tha thứ, thì dù cho linh mục có tài ăn nói lợi
khẩu giảng cả tiếng đồng hồ, thì càng giảng, giáo dân càng thấy sự giả hình nơi
linh mục mà thôi, bởi vì giáo dân đã thấy những gì linh mục làm, thường là ngược
lại với những gì mà các ngài giảng cho họ nghe.
Có một vài linh mục trẻ nói với nhau rằng: “tớ giảng Lời
Chúa ai nghe không nghe mặc họ.” Vâng, các ngài đang giảng Lời Chúa, nhưng Lời
Chúa chỉ trên mặt chữ thì không thể nào thấm sâu vào trong tâm hồn của người
nghe; Lời Chúa chỉ trên môi miệng thì người ta sẽ nghe tai này lọt qua tai khác
và bay mất tiêu, cũng như hạt giống gieo vào đất cứng khô cằn không có nước thì
nếu không bị chim trời đến ăn, thì cũng sẽ bị côn trùng gậm nát. Đức Ái của
linh mục nơi tòa giảng quan trọng chẳng khác gì khi linh mục mở kho tàng dự trử
gạo, mì gói, tiền bạc của giáo xứ để cứu đói cho dân nghèo đói ăn, cho nên khi
giảng Lời Chúa thì chắc chắn Đức Ái phải nổi bật trên tất cả những lời nói từ
miệng ngài phát ra, đó là lời được ngài chiêm niệm và thực hành trong cuộc sống,
đó là lời đã được ngài chắt lọc thành tinh túy khi đối chiếu cuộc sống của mình
với Lời Chúa, và giờ đây đang chia sẻ cho các giáo dân của mình.
Có một linh mục nọ đã nói với anh rằng: “giáo dân cần
Chúa, chứ Chúa không cần giáo dân”, bởi vì ngài quan niệm như thế nên ngài phải
sống “lưu vong” ở một giáo xứ khác, bởi vì nơi giáo xứ của ngài giáo dân phản đối
ngài, kiện cáo ngài vì ngài chỉ biết mình và chỉ “biết” một vài gia đình giàu
có trong giáo xứ mà thôi, cho nên có nhiều giáo dân trong xứ của ngài không cần
Chúa của cha sở, nhưng cần Chúa ở nhà thờ giáo xứ bên cạnh, bởi vì họ không
nhìn thấy Chúa của họ nơi linh mục cha sở của mình. Đương nhiên là nhân loại cần
đến Chúa, vì nếu không có Ngài thì nhân loại sẽ bị tiêu diệt, nếu không có Ngài
thì chúng ta –dù một bước đi- cũng nhấc chân không nổi. Vì quan niệm “giáo dân
cần Chúa chứ Chúa không cần giáo dân” như thế, nên vị linh mục ấy không cần
nghe giáo dân góp ý, không muốn giáo dân chia sẻ với mình trong những công việc
của giáo xứ, cho nên cũng có thể hiểu rằng vị linh mục ấy rất ít thực hành Đức
Ái với giáo dân của mình, nên mới có chuyện ngài đi sống “lưu vong” ở giáo xứ
khác, thật đáng tiếc.
“Một vị Do
thái theo chủ nghĩa thần bí, có một phương pháp cầu nguyện rất đặc biệt độc
đáo. Ông ta cầu nguyện với Thiên Chúa như thế này:
“Đừng quên
à nghe, Thiên Chúa, Ngài cần con, như con cần Ngài, nếu Ngài không tồn tại thì
con cầu nguyện với ai? Và nếu con không tồn tại, thì ai thốt lên lời cầu nguyện
đây?” [20]
Đương nhiên là chúng ta cần Chúa, mỗi giây mỗi phút trong cuộc đời đều phải cần
đến tình yêu của Thiên Chúa, nhưng Chúa cũng cần chúng ta, bằng chứng nếu Chúa
không cần chúng ta thì chắc chắn là Ngôi Hai Thiên Chúa –Chúa Giê-su- không
thèm xuống thế làm người, hy sinh chịu chết trên thập giá vì chúng ta, để cho
chúng ta thuộc về Ngài, thuộc về một Thiên Chúa yêu thương và nhân từ. Nếu
không cần yêu thương chúng ta, thì chắc chắn Thiên Chúa không tạo dựng nên vũ
trụ vạn vật và chúng ta...
Thiên
Chúa cũng cần chúng ta, cần linh hồn chúng ta, thì linh mục càng cần giáo dân
hơn nữa, nếu không cần giáo dân thì Giáo Hội không tồn tại, giáo phận, giáo xứ
sẽ không được thành lập, và chắc chắn cũng không có bí tích Truyền chức thánh để
có linh mục nối tiếp công trình của Chúa Giê-su ở trần gian này...
c. Đức Ái trong hành vi, thái độ.
Có những giáo dân bực mình khi thấy một linh mục trẻ đứng
chấp tay sau lưng nói chuyện với cha mẹ già của mình, trong khi các cụ thì khúm
núm cung kính: dạ lạy cha ạ, dạ bẩm cha ạ. Chuyện bực mình này thì cũng đúng
thôi, vì ở nhà các cụ dạy con cái cháu chắt của mình phải lễ phép kính trên nhường
dưới, nhưng đến nhà thờ thấy vị linh mục trẻ đáng tuổi con cháu mình vênh mặt
lên trời nói chuyện với cha mẹ già mình, thì đứa con nào mà chịu cho thấu chứ !
Đức Ái trong hành vi thái độ của linh mục rất quan trọng,
bởi vì có khi chỉ một cử chỉ vô tình của mình thôi, cũng làm cho giáo dân “phản
cảm” và có ấn tượng không mấy tốt đẹp với mình.
Thánh Phao-lô tông đồ đã dạy:
“Đức
mến thì nhẫn nhục, hiền hậu,
không
ghen tương, không vênh vang, không tự đắc,
không
làm điều bất chính, không tìm tư lợi,
không
nóng giận, không nuôi hận thù,
không
mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng
vui khi thấy điều chân thật.”[21]
Có mấy điểm sau đây mà các linh mục thường mắc phải
khi tiếp xúc với giáo dân của mình, và làm trái ngược lại với những gì mà thánh
Phao-lô đã dạy:
1. Thái độ giận dữ trái ngược
với hiền hậu.
Nóng giận thì ai cũng có, nhưng tùy hoàn cảnh, tùy chức
tước và bổn phận mà bày tỏ sự nóng giận của mình, nhưng nóng giận ở đây không
có nghĩa là vì ích lợi của cá nhân mình, hoặc vì tự ái của mình bị đụng chạm,
nhưng là vì lợi ích cho tha nhân và cho cộng đoàn, những nóng giận ấy không gây
mất hòa khí giữa linh mục và giáo dân, hoặc giữa linh mục và những người khác.
Nếu nóng giận để tự ái của mình được thỏa mãn thì sẽ không giải quyết được vấn
đề gì, mà chỉ gây thêm nhiều chia rẻ và buồn phiền mà thôi.
Khi có giáo dân góp ý, thì có một vài linh mục nổi giận
không bằng lòng, thế là lời qua tiếng lại, gặp giáo dân thẳng tính và nóng nảy
thì chắc chắn giữa hai người sẽ có cuộc đụng độ, mà phần thắng bên ngoài thì
luôn thuộc về linh mục, nhưng kết quả là giáo xứ mất đi một con chiên không đến
nhà thờ, mà linh mục thì sẽ buồn phiền và hối hận vì thái độ nóng giận của
mình. Đức Ái do đó mà trốn khỏi con người của linh mục, bởi vì sự nóng giận thường
là mất khôn, mà Đức Ái thì không thể ở chung với sự nóng giận đầy tự ái.
Đức Ái thì nhẫn nhục và hiền hòa, mà cử chỉ đầy Đức Ái
của một linh mục thì luôn làm cho người khác cảm thấy được an ủi, được khuyến
khích và họ cảm thấy đời sống tâm linh của mình đầy tin tưởng vào Chúa Giê-su
qua vị đại diện của Ngài là linh mục, là cha sở của họ.
Linh mục là những người đọc nhiều sách, nhất là các
sách tu đức và hạnh các thánh, thì sự hiểu biết của các ngài chắc chắn nhiều
hơn giáo dân trong việc kiềm hãm tính nóng giận, do đó mà một linh mục thường
hay nóng giận thì giáo dân sẽ không nhìn thấy Đức Ái nơi các ngài, và đương
nhiên họ cũng sẽ không nhìn thấy được Chúa Giê-su nơi con người của các ngài.
Linh mục là người được chọn để diễn lại từng ngôn ngữ
và hành động của Chúa Giê-su cho người khác thấy và nghe, cho nên không ngạc
nhiên khi thấy có một vài giáo dân không hề có cảm tình hay kính trọng các linh
mục, bởi vì các vị linh mục ấy có cuộc sống giống như họ chẳng khác chút nào:
cũng bon chen đầu tư buôn bán, cũng nạt nộ giận dữ, cũng uống rượu hút thuốc,
cũng hưởng thụ những tiện nghi vật chất sang trọng như các đại gia ngoài đời,
và nguy hiểm hơn là các vị linh mục ấy coi chức thánh như là một chức vụ để được
phục vụ, và do đó mà không lạ gì khi các ngài sống không có Đức Ái với tha nhân,
nguyên nhân chính là những ai cứ lo nghĩ về bản thân mình, thì chắc chắn sẽ
không nghĩ đến người khác và không quan tâm đến người khác, mà linh mục thì
không phải như thế vì tha nhân mà sống hiền hòa chứ không phải vì mình để rồi
giận dữ với tha nhân.
2. Thái độ kiêu ngạo vênh
vang, tự đắc ngược lại với Đức Ái .
Có lẽ việc đào tạo ở trong chủng viện ít chú trọng đến
nhân bản mà quá chú trọng đến việc lịch sự khách sáo, ít chú trọng đến việc phục
vụ mà chỉ chú trọng đến sự lãnh đạo, và điều này ảnh hưởng rất nhiều đến các
linh mục tương lai, cho nên sau khi ra trường được bài sai đi làm mục vụ ở giáo
xứ, thì đa phần các linh mục trẻ đều tỏ ra thái độ “khác thường” với giáo dân,
thậm chí với các bạn bè của mình và với bà con thân thuộc của mình, sự “khác thường”
ấy chính là kiêu ngạo, coi mình thuộc hàng “cõi trên” và mọi người thuộc hàng
“cõi dưới”, đó là thái độ thiếu Đức Ái hoàn toàn nơi linh mục của Chúa Giê-su.
Thời nay, giáo dân thường ta thán về việc có một số
linh mục sống hưởng thụ và thiếu nhân bản, do đó mà thường dẫn đến kiêu ngạo
khi đối xử với giáo dân, sự kiêu ngạo này dẫn đến hành động thiếu Đức Ái nơi
linh mục. Thánh Phao-lô khuyên không nên vênh vang tự đắc, bởi vì chức vụ linh
mục không phải để ăn trên ngồi trước, cũng không phải để tiến thân ngoài xã hội,
càng không phải để được người khác phục vụ, nhưng linh mục chính là một thiên
chức được Chúa Giê-su lập ra, để vì phần rỗi của các linh hồn đã được Ngài đổ
máu ra để cứu chuộc, cho nên linh mục là người được chọn để ban phát các ân sủng
của Thiên Chúa cho nhân loại, chứ không phải được chọn để trở thành người ăn
trên ngồi trước và là kẻ thống trị.
Giáo dân thời nay không còn thần thánh hóa linh mục nữa,
nhưng không phải vì thế mà họ không tôn trọng linh mục, không còn thần thánh
hóa linh mục là bởi vì họ được học hỏi nhiều về giáo lý, tri thức cũng đầy đủ,
kiến thức thì có khi vượt hẳn linh mục và học vị thì cũng như thế, cho nên nếu
một linh mục mà cứ cao cao sang sang coi giáo dân như là những thuộc hạ của
mình, hoặc như những đầy tớ để mình sai vặt không công khi ở nhà thờ nhà xứ,
thì chẳng khác gì các linh mục đang sống ở các thế kỷ trước vậy. Nếu không vì đức
tin, nếu không vì vâng phục lời giáo huấn của Giáo Hội, và nếu không vì lòng đạo
đức thì không một giáo dân nào đi xem lễ của một linh mục mà ai cũng biết là
kiêu ngạo hách dịch, và càng không ai muốn đến nhà thờ khi mà linh mục cư xử với
ông bà bố mẹ của họ như hàng bề dưới, bởi vì thời nay giáo dân không còn nhìn vẻ
uy nghi bệ vệ của linh mục để phán đoán linh mục thánh thiện hay đạo đức nữa,
nhưng người ta sẽ nhìn vào cách sống có Đức Ái hay không của linh mục để đánh
giá sự đạo đức của các ngài.
Cho nên, thái độ vênh vang tự đắc của linh mục là đi
ngược lại với Tin Mừng của Chúa Giê-su, và đi ngược lại với lời dạy của thánh
Phao-lô tông đồ, và nhất là chính những vênh vang tự đắc ấy làm cho hình ảnh của
linh mục trở nên xa lạ với giáo dân, bởi vì Giáo Hội đã dạy cho giáo dân biết
nhận ra những dấu chỉ nơi linh mục, để biết một linh mục chân chính của Chúa
Giê-su, đó chính là Đức Ái và sự khiêm nhường của các ngài.
Ở một giáo xứ nọ, giáo dân đa phần là những người có học
thức và địa vị, có người thì làm bác sĩ, có người làm kiến trúc sư, và phần nhiều
làm giáo sư dạy các trường đại học nổi tiếng, và những người được bầu vào trong
ban điều hành của giáo xứ đều là những giáo dân có địa vị và học thức. Khi giáo
xứ được trao cho một linh mục trẻ học lực chỉ hết bậc trung học coi sóc, và sau
một năm thì giáo dân bắt đầu ta thán là linh mục còn trẻ mà kiêu ngạo, thích
sinh hoạt với thanh thiếu niên trong giáo xứ nhưng lại không có lễ phép với những
giáo dân lớn tuổi, ăn nói nhỏ nhẹ với các bạn thanh niên nam nữ nhưng lại la lối
to tiếng với người già cả, và giáo dân từ từ bỏ không đến nhà thờ vào những
thánh lễ ngày chủ nhật nữa, có người đi lễ các nhà thờ bên cạnh, có người không
đi lễ nơi nào, và thậm chí có người không muốn cho bố mẹ của mình đi lễ với cha
sở trẻ đó nữa, lý do duy nhất là: cha sở trẻ vì học lực không cao nhưng vì mặc
cảm mình học hành ít, nên luôn lấy quyền cha sở ra để nạt nộ giáo dân, nhất là
những giáo dân lớn tuổi, để tỏ ra mình cũng có học thức và có quyền “sanh sát”
trong tay, thế là con cái khi đến nhà thờ dâng lễ cùng với cha mẹ, thấy cha sở
tuổi đang con cái mình mà ăn nói vô phép, thái độ bất kính trọng với cha mẹ
mình thì chịu không nổi, thế là cách giải quyết duy nhất của họ là không đi lễ
nhà thờ nữa, để khỏi phải nhìn thấy một linh mục trẻ tuổi đáng làm em của mình
mà vô phép với cha mẹ già của mình.
Đành rằng cá tính của mỗi người không giống nhau,
nhưng hể làm linh mục thì chắc chắn phải sửa đổi cá tính không phù hợp với
thiên chức linh mục mà mình đã lãnh nhận, bởi vì linh mục không phải là một chủ
nhân ông để sai khiến đầy tớ, nhưng là phục vụ; bởi vì linh mục không phải là một
tổng giám đốc để sai khiến hoặc chỉ tay năm ngón với giáo dân, nhưng là để phục
vụ; bởi vì linh mục không phải là một chức quan, nên không thể thi ân cho người
này và bỏ bê người khác theo ý muốn của mình, nhưng là để phục vụ. Bởi vì phục
vụ với tất cả yêu thương là dấu chỉ của một linh mục mang trong mình Đức Ái của
Chúa Giê-su, và là thước đo của giáo dân đối với một linh mục, do đó mà thánh
Phao-lô tông đồ đã không khách sáo khi dạy dỗ giáo dân của giáo đoàn Cô-rin-tô
về Đức Ái rằng: Đức Ái thì không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, vì
những điều ấy rất xa lạ với giáo huấn của Chúa Giê-su và rời xa cuộc sống của một
mục tử với đàn chiên của mình.
Đức Ái của linh mục phải vượt tất cả mọi sự, nhất là phải vượt
qua những công lao mà mình đã làm cho giáo xứ, hoặc những nơi mà mình đang phục
vụ với tất cả thành công của tài năng, bởi vì như lời thánh Phao-lô đã dạy, dù
các ngài có đem tất cả tài sản (bao gồm vật chất, tài năng, sức khỏe, trí óc) để
bố thí và cống hiến, mà nếu không có Đức Ái thì cũng chỉ là con số không mà
thôi, chẳng có ích gì cả. Chẳng có ích là bởi vì người không có đức tin nhưng
có nhiều tiền bạc thì cũng có thể làm được như thế, và có khi làm thành công
hơn các linh mục nữa là khác, Đức Ái của linh mục phải vượt qua và lớn hơn tất
cả những gì mình đã phục vụ cho giáo xứ hay cho bất cứ cộng đoàn nào là như thế
đó.
Chúa Giê-su vì yêu mà xuống thế làm người, yêu khi chúng ta
còn là tội nhân, đó chính là Đức Ái toàn hảo tuyệt vời của Ngài, là mẫu gương
cho những “Ki-tô thứ hai” là các linh mục, bởi vì các linh mục cũng là những tội
nhân như những tội nhân khác cần luôn trông cậy vào tình yêu của Thiên Chúa,
cho nên linh mục không thể nào dùng sự kiêu ngạo hợm mình để đối xử với giáo
dân và tha nhân; bởi vì Chúa Giê-su muốn Đức Ái này phải được con người –đặc biệt
những người Ki-tô hữu- thực hiện cách nổi bật nơi các anh chị em của mình, nơi
người lân cận và ngay cả với người thù ghét mình nữa.
ĐỨC ÁI
KHI LÀM MỤC VỤ
Em thân mến,
Đức Ái của linh mục không chỉ có khi tiếp xúc với giáo dân
hay bất cứ người nào khác, nhưng Đức Ái vẫn cứ luôn hiện diện nơi con người của
linh mục, và do đó mà khi linh mục làm bất cứ việc gì dù lớn hay nhỏ, dù quan
trọng hay không quan trọng, dù dạy dỗ hay làm những công việc khác, thì trên mỗi
công việc đều thể hiện Đức Ái của các ngài trước tiên.
Công việc hằng ngày của linh mục là dâng thánh lễ và suy niệm,
đôi lúc có dạy dỗ các giáo dân trong họ đạo hoặc làm công tác mục vụ ở trường học,
nhưng việc quan trọng nhất mà các linh mục phải làm, đó là công tác mục vụ
trong giáo xứ của mình, hoặc nơi các cộng đoàn đã được giao phó cho các ngài.
Cho nên, công tác mục vụ của các linh mục cần phải nổi bật lên một tấm lòng
nhân hậu và khiêm tốn, bởi vì không một linh mục nào có thể thành công trong mục
vụ được nếu linh mục ấy không thực hành Đức Ái của mình, đây là điều mà các
thánh linh mục đã từng cảm nghiệm khi các ngài phục vụ Chúa nơi con người được
giáo phó cho các ngài, chẳng hạn như thánh Thánh Francis of Assisi nói: “Ở
nơi chỗ đầy hận thù, con phải gieo xuống hạt yêu thương.” Và ngài cũng xác tín rằng: “Yêu
chính là Thiên Chúa phát ra tia lửa trên con người.” Do đó, mà trong công việc mục vụ hằng ngày, các linh mục
cũng luôn phải làm thế nào để thực hiện Đức Ái nơi giáo xứ của mình, để mỗi một
giáo dân của ngài luôn nhìn thấy khuôn mặt yêu thương của Chúa Giê-su nơi cha sở
và nơi các linh mục của mình.
Mục vụ bao gồm tất cả những gì liên quan đến công tác truyền
giáo của linh mục, từ cử hành thánh lễ, ngồi tòa giải tội, hoặc dạy dỗ các lớp
giáo lý trong giáo xứ của mình, vì qua những công việc mục vụ này mà linh mục
thể hiện tình yêu của Chúa Giê-su trên con người của ngài với các giáo dân. Tóm
lại, mục vụ được gói trọn trong ba nhiệm vụ mà Giáo Hội đã trao phó cho các
linh mục thông qua vị giám mục của họ, đó là nhiệm vụ giảng dạy, thánh hóa và
cai quản.
a. Đức Ái trong nhiệm vụ giảng dạy.
Thánh công đồng chung Vatican II dạy rằng: “Các giám mục và các linh mục, các cộng sự viên của các ngài, có nhiệm vụ
số một là loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người theo lệnh của
Chúa Ki-tô”[22] Có nhiệm vụ loan báo Tin Mừng tức là rao giảng Lời
Chúa cho tất cả mọi người, đó chính là nhiệm vụ và là trách nhiệm của linh mục,
là căn tính của linh mục, do đó, khi mà một linh mục không làm tròn nhiệm vụ
rao giảng của mình thì chắc chắn ngài trở thành một cái xác không hồn, hoặc khi
giảng dạy mà ngài không có Đức Ái, thì lời giảng dạy của ngài sẽ như thanh la
chũm chọe mà thôi.
Đức Ái trong nhiệm vụ giảng dạy đòi hỏi các linh mục phải có
sự tế nhị để nhận ra, hoặc nhìn thấy đối tượng của mình là những giáo dân đang
rất thiếu thốn giáo lý hoặc Lời Chúa, để khi giảng dạy ngài không la lối thóa mạ,
không giận dữ chỉ trích, nhưng bày tỏ thái độ hiền hòa trong cách giảng dạy và
khiêm tốn trong lời giảng của mình.
Nhiệm vụ giảng dạy của linh mục không chỉ bằng lời mà thôi,
nhưng còn bằng cuộc sống của mình nữa, mà dấu chỉ rõ ràng nhất để lôi kéo và hấp
dẫn giáo dân nghe và bắt chước mình đó là Đức Ái:
- Đức Ái làm cho nhiệm vụ giảng dạy của linh mục trở
thành niềm vui.
- Đức Ái làm cho nhiệm vụ giảng dạy của linh mục trở
thành giòng suối mát chảy vào tâm hồn tín hữu.
- Đức Ái làm cho lời giảng dạy của linh mục như ngọn lửa
yêu thương, cháy phầng phầng trong tâm hồn tín hữu.
- Đức Ái của linh mục làm cho cuộc sống của ngài nên giống
Chúa Giê-su hơn.
b. Đức Ái trong nhiệm vụ thánh hóa.
Muốn thánh hóa người khác thì trước hết phải thánh hóa chính
mình, nghĩa là mình phải trở thành nhà mô phạm cho người khác, rồi mới chỉ bảo
hướng dẫn người khác học làm người tốt.
Linh mục được giám mục trao cho quyền thánh hóa, tức là được
cử hành bí tích Thánh Thể là trung tâm điểm của đời sống Giáo Hội, các ngài
thánh hiến Giáo Hội bằng lời cầu nguyện và các việc làm gương sáng của mình, do
đó mà linh mục cần phải có một đời sống gương mẫu như Chúa Giê-su –là đường là
sự thật và là sự sống- để trở nên người được thánh hóa cách riêng cho Thiên
Chúa và để trở nên tấm bánh cho cộng đoàn nơi ngài thi hành sứ mạng thánh hóa.
Thánh công đồng chung Vartican II đã nhấn mạnh và khuyên nhủ
các linh mục rằng: “Đừng làm như những lãnh chúa đối với những người
được ủy thác cho phần coi sóc của mình, nhưng bằng cách trở thành những gương mẫu
cho đàn chiên. Như vậy, họ sẽ cùng với đàn chiên được trao phó, đạt tới sự sống
đời đời.”[23] Lời nhắn nhủ rất tế nhị này của công đồng chung đáng
làm cho các linh mục phải suy gẫm và xét mình, bởi vì từ ngày được chọn vào
hàng ngũ công hầu danh tướng của Chúa –hàng giáo sĩ- thì linh mục thực sự được bao lần dang tay
đón nhận người tội lỗi trở về với Chúa, ngài có bao nhiêu lần lỗi phạm Đức Ái với
đoàn chiên mà Giáo Hội đã trao cho ngài, hay các linh mục chăm nom đoàn chiên
như những người làm thuê, hoặc như các lãnh chúa trong giáo xứ của mình.
Nhiệm vụ thánh hóa là ban phát ân sủng của Thiên Chúa cho
nhân loại, mà cụ thể là các giáo dân trong giáo xứ của mình, chính khi cử hành
bí tích Thánh Thể -trung tâm của Đức Ái- thì linh mục càng thấy rõ hơn bất cứ
người nào về mầu nhiệm tình yêu mà Chúa Giê-su đã thực hiện trong bí tích Thánh
Thể, bởi lẽ, nếu ngài –linh mục- không thực sự trở nên tấm bánh cho giáo dân hưởng
dùng, tức là nếu ngài không thực hiện Đức Ái cách chân thật giữa cộng đoàn, thì
việc ngài đọc lời truyền phép trên bánh và rượu sẽ là một xúc phạm lớn với Chúa
Giê-su Thánh Thể, cho nên khi ban phát Mính Thánh Chúa cho giáo dân thì cũng là
khi linh mục ban phát Đức Ái của mình cho họ, bởi vì như lời thánh Francis of
Assisi đã nói: “Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự
nguyện chết vì yêu con.”[24] Chúa Giê-su vì yêu nhân loại cho đến chết, và đã trở
nên bánh trường sinh nuôi sống các linh hồn như thế nào, thì các linh mục cũng
vì yêu mến Chúa Giê-su mà hiến thân cho đoàn chiên của mình như vậy, tức là đem
Đức Ái chia sẻ những niềm vui nỗi buồn với giáo dân của mình.
Nhiệm vụ thánh hóa còn đòi hỏi các linh mục phải hết sức
thánh hóa mình trước bằng cầu nguyện, suy ngắm Lời Chúa và thực hành Đức Ái, bởi
vì nếu không thích cầu nguyện hoặc cầu nguyện cách hời hợt cho có lệ thì không
thể tìm được thánh ý Chúa trong lời của Ngài, và một khi không tìm được ý Chúa
thì khó mà thực hành Đức Ái trong cuộc sống hiến dâng cách trọn vẹn được.
c. Đức Ái trong nhiệm vụ cai quản.
Nói đến cai quản là nói đến quyền hành, quyền hành này được
trao cho toàn quyền hay một phần quyền hạn tùy theo nhu cầu chức vụ, để thi
hành nhiệm vụ cai quản của mình, nhưng mà hể có quyền cai quản thì cũng đồng thời
có quyền hạch sách và nhũng nhiễu quần chúng. Thế nhưng, quyền cai quản trong Hội
Thánh là quyền để phục vụ, như lời dạy của thánh công đồng Vatican II rằng: “Các giám mục dẫn dắt các Giáo Hội riêng biệt của mình, như những vị đại
diện và những đặc sứ của Chúa Ki-tô, bằng các lời khuyên, các lời khuyến khích
và gương sáng của mình, nhưng cũng bằng uy quyền của mình, và bằng việc hành sử
quyền hành linh thánh của mình.”[25]
Đức giám mục đã chia sẻ quyền hành cai quản này lại cho các
linh mục là những cộng sự viên đắc lực của mình, cho nên các linh mục cũng phải
sử dụng quyền cai quản này để xây dụng theo tinh thần phục vụ của Thầy mình là
Chúa Giê-su Ki-tô.
Không như quyền cai quản của quân đội thuộc cấp chỉ biết
tuân lệnh thượng cấp, các linh mục cai quản giáo xứ của mình trong tinh thần
yêu thương hơn là đe nạt, phục vụ hơn là được phục vụ và sai khiến, bởi vì Chúa
Giê-su đến không phải để được phục vụ, mà là phục vụ người khác.
Đức Ái của các linh mục trong nhiệm vụ cai quản cần phải lấy
tình yêu thương mà quản trị, lấy sự công bằng mà đối đãi với mỗi giáo dân không
phân biệt giàu nghèo, đạo mới hay đạo cũ, hoặc có công trạng hay không công trạng
với giáo xứ, bởi vì các linh mục là những “vị
mục tử tốt lành sẽ là mẫu mực và khuôn đúc cho nhiệm vụ chủ chăn của các giám mục...” có như thế vai trò chủ chăn của các ngài mới thật sự
nên giống Chúa Giê-su.
Có một vài mục tử cai quản giáo xứ của mình như một chủ nhân
ông, lợi dụng lòng quý mến của giáo dân đối với linh mục nên sai khiến họ bất kể
ngày giờ, miễn là được việc của mình mà thôi. Hoặc là có một vài giáo xứ mà mỗi
khi nhắc đến cha sở của mình thì lắc đầu ngao ngán, vì ngài cai quản giáo xứ mà
không như cai quản, ngài làm cha sở mà không hề xử lý công việc của nhà xứ, vì
tất cả mọi việc đều ủy quyền cho cô thư ký thay ngài làm tất cả mọi việc: giáo
dân muốn gặp cha sở để bàn chuyện tâm linh của mình thì phải hỏi cô thư ký, cô
cho gặp cha thì gặp không cho thì giáo dân không thể gặp; có những chuyện mà
đáng lẽ phải đích thân giải quyết như xưng tội, thì cũng phải qua sự đồng ý của
thư ký, vì cha sở luôn bận rộn tối ngày: khi thì đi phố, khi thì đi họp tại tòa
giám mục, khi thì bận họp công tác, khi thì bận đi nghỉ.v.v...nghĩa là những
công việc “bận và họp” của ngài không ở trong giáo xứ, mà ở đâu đâu chỉ có Chúa
biết và cô thư ký biết mà thôi, cho nên lâu ngày giáo dân không nhìn thấy được hướng
đi cho giáo xứ, ngài chỉ biết làm những gì mà trong giáo xứ đã có sẵn, và rồi
khi được giáo dân góp ý việc xây dựng giáo xứ, thì ngài gạt bỏ và nói: bày vẻ
làm gì thêm mệt. Thái độ tiêu cực ấy bày tỏ cho giáo dân biết ngài không yêu mến
giáo xứ của ngài, ngài đến hình như bị ép buộc và vì bổn phận mà làm, chứ không
có hứng thú gì với công việc mục vụ của giáo xứ mình.
Chủ chăn tốt lành vì đàn chiên mà hy sinh mạng sống của
mình, một mục tử tốt lành thì luôn nhân hậu với đàn chiên, không ngần ngại lắng
nghe những tỏ bày tâm sự của họ, và đùm bọc họ như người cha chăm sóc đứa con
yêu quý của mình, đó chính là Đức Ái, Đức Ái làm cho linh mục trở nên những mục
tử tốt lành như ý Chúa Giê-su mong muốn. Thánh Phan-xi-cô Khó Nghèo đã nói: “Các thánh yêu người thì không coi phải yêu ai, mà đơn giản là vì ai mà
thực hành đức ái.” đó chính là lời hướng dẫn các
linh mục trong nhiệm vụ cai quản của mình, bởi vì trong công việc cai quản giáo
xứ của chủ chăn, giữa đông đảo giáo dân thì có một vài linh mục chọn người nào
đó để giúp đỡ và để được giúp đỡ, cho nên giáo xứ của ngài lắm lời qua tiếng lại
trong giáo dân là cha sở không công bằng, yêu người này ghét bỏ người kia...
Thánh công đồng Vatican II nói về chức linh mục như sau: “Chức vụ của các linh mục, xét như đó là chức năng được kết hợp với hàng
giám mục thì dự phần vào uy quyền của Chúa Ki-tô, uy quyền mà ngài dùng để xây
dựng, thánh hóa và cai quản Nhiệm Thể của Ngài.”[26] Một linh mục hiểu rõ được giáo xứ mà mình được sai đến
phục vụ, không còn là một cộng đoàn xa lạ, cũng không phải chỉ là một giáo xứ
thuần túy tôn giáo, mà giáo xứ còn là một Nhiệm Thể của Chúa Giê-su, do đó mà
linh mục không còn cai quản theo kiểu quyền hành nữa, nhưng là phục vụ những
chi thể của thân thể mầu nhiệm của Chúa mà linh mục là một trong những chi thể ấy...
Khi lấy Đức Ái ra để đối đãi với người khác, thì chính là đối
đãi với bản thân mình vậy.
MẪU GƯƠNG
ĐỨC ÁI CỦA LINH MỤC
Em thân mến,
Là linh mục của Chúa Giê-su Ki-tô, trong cuộc đời tận hiến của
mình, ngoài Chúa Giê-su ra, thì có rất nhiều mẫu gương về Đức Ái để cho các
linh mục học hỏi bắt chước, nhưng có lẽ gần gủi nhất và dễ thương nhất, chính
là Đức Mẹ Maria mẹ của Chúa Giê-su, và thêm mẫu gương khác đó chính là thánh
Gioan Maria Vianney, bổn mạng của các cha sở và của các linh mục.
Hai mẫu gương này đều là mẫu gương tuyệt hảo về Đức Ái, mà
trong cuộc sống ở trần gian các ngài đã trở thành những tấm gương phản chiếu
tinh thần Phúc Âm của Chúa Giê-su trong cuộc đời của các ngài, mà tinh thần
Phúc Âm thì gói trọn trong hai chử Yêu Thương, tức là Đức Ái.
1.
Đức Ái của Đức Mẹ Maria.
Tất cả các thánh trên thiên đàng, không có một vị thánh nào
mà không yêu mến Đức Mẹ Maria, tất cả những người được gọi là thánh thiện trong
Giáo Hội Công Giáo, không một ai mà không biết Đức Mẹ Maria, và không một linh
mục nào của Chúa Giê-su mà lại không biết người Mẹ tuyệt vời ấy của mình, nhưng
điều anh muốn nói ở đây là tất cả các linh mục đều biết đến Đức Mẹ Maria, nhưng
các ngài có bắt chước các nhân đức và gương sáng của Mẹ, để đời sống tận hiến của
mình được thêm thú vị không ? Bởi vì có rất nhiều người –trong đó có cả linh mục-
rất yêu mến Đức Mẹ Maria, đọc kinh lần chuổi Mân Côi, cầu xin với Mẹ rất nhiều
điều, nhưng rất ít có người cầu xin cho được bắt chước các nhân đức của Mẹ, để
sống tốt lành hơn trong cuộc sống của mình.
Cuộc đời của Đức Mẹ Maria là bản tóm gọn Phúc Âm của Chúa
Giê-su, cuộc sống của Đức Mẹ Maria tràn đầy Đức Ái đối với tha nhân, từ khi Mẹ
có trí khôn cho đến ngày được Thiên Chúa đưa Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác. Cuộc đời
của Đức Mẹ Maria là cuốn phim sống động của những người tận hiến cho Thiên
Chúa, nhất là các linh mục, để các ngài qua trung gian của Đức Mẹ Maria mà trở
thành những môn đệ tốt lành của Chúa Giê-su, và mục tử nhân hậu của đoàn chiên
mình.
Đức Ái của Đức Mẹ Maria được thể hiện rõ ràng nhất trong ba
sự việc xảy ra trong đời của Mẹ, đó là:
1. Đi thăm bà Ê-li-sa-bét.
2. Tham dự tiệc cưới ở Ca-na.
3. Dưới chân Thánh Giá Chúa.
mà mỗi linh mục nên suy gẫm và cám ơn Thiên Chúa đã gởi đến
cho các ngài một mẫu gương tuyệt vời về đàng nhân đức, đặc biệt là Đức Ái và đức
khiêm nhường. Như lời thánh công đồng Vatican II dạy rằng: “Đúng thế, Trinh Nữ Đức Mẹ Maria được công nhận và tôn kính là Mẹ đích
thực của Thiên Chúa và của Đấng Cứu Chuộc. Mẹ cũng thật sự là “Mẹ các chi thể
Chúa Ki-tô”, vì đã đã cộng tác bằng Đức Ái của mình bằng việc sinh ra các tín hữu
trong Giáo Hội, những chi thể của Đầu này...”[27]
a.
Đức Ái khi Mẹ đi phục vụ bà Ê-li-sa-bét.
Tin Mừng của thánh Lu-ca thuật lại rằng: sau khi được sứ thần
truyền tin mang thai Đấng Cứu thế, thì Đức Mẹ Maria vội vã lên đường, đến miền
núi, để thăm và giúp đỡ người chị họ là bà Ê-li-sa-bét, vì bà đang mang thai gần
đến ngày sinh nở, và Mẹ đã ở lại đó độ ba tháng rồi trở về[28].
Sự mau mắn ra đi để phục vụ tha nhân của Đức Mẹ Maria là một
biểu hiệu Đức Ái rất mãnh liệt, chính lòng yêu mến Chúa thôi thúc Mẹ thực hành
Đức Ái với tất cả tâm hồn, và vì Đức Ái này mà Mẹ càng thêm khiêm tốn hơn trong
việc phục vụ tha nhân, mặc dù thân phận của Mẹ bây giờ đã khác trước, đó là
thân phân cao sang: Mẹ Thiên Chúa. Mặc dù Mẹ không hề nói ra những việc mà
Thiên Chúa đã thực hiện nơi bản thân Mẹ, nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn bảo vệ
người công chính đã làm thay điều này thay cho Mẹ, khi bà Ê-li-sa-bét cất tiếng
ca ngợi: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và người
con em mang thai cũng được chúc phúc.”[29] Ba tháng ở trong nhà chị họ nơi miền núi, Đức Mẹ
Maria đã phục vụ với tất cả lòng yêu mến, cuộc sống ở miền núi thì khác hẳn ở
miền xuôi, và công việc phục vụ người đàn bà mang thai sắp đến ngày sinh nở lại
càng mệt nhọc và phức tạp hơn, nhưng Đức Mẹ Maria đã không ngần ngại phục vụ
trong tinh thần khiêm tốn ngập tràn Đức Ái.
Được sai phái đến một giáo xứ bởi giám mục của mình, linh mục
giống như Đức Mẹ Maria vội vã ra đi vì Đức Ái để phục vụ, chứ không vì thân phận
là một giám đốc, và càng không phải là một ông quan quyền thế võng lọng đón đưa
đến giáo xứ mới, rồi sau đó dù chưa tiếp xúc với giáo dân, chưa nắm rõ tình
hình giáo xứ, thì đã bày tỏ quyền hành của mình qua lời nói và cử chỉ thái độ
gây một ấn tượng không mấy tốt đẹp cho giáo dân mới của mình. Phục vụ với tâm
tình khiêm tốn –dù mình là cha sở- và hành xử với tất cả Đức Ái của một linh mục,
thì dù cho linh mục không có nhiều tài năng trổi vượt, thì ngài cũng được giáo
dân vui mừng hoan hỉ, vì ngài đã trở nên giống Đức Mẹ Maria phục vụ quên mình.
Đức Ái của Đức Mẹ Maria không bao gồm trong dòng tộc, mà trải
rộng đến từng người trên thế gian này, nhưng lại được bắt đầu từ trong họ hàng
bà con của Mẹ, đó là việc phục vụ bà Ê-li-sa-bét. Đức Ái của linh mục cũng phải
như thế, được bắt đầu từ trong gia đình mình, tức là luôn tỏ lòng hiếu thảo với
cha mẹ, yêu thương và kính mến anh chị em của mình, rồi sau đó đem yêu thương
này đến trong cộng đoàn giáo xứ của mình, phục vụ chăm nom đoàn chiên của mình
như yêu mến chăm sóc cha mẹ và các anh chị em của mình vậy. Đó không những là
noi gương Đức Ái của Đức Mẹ Maria, mà còn là thực hành lời thánh Phao-lô đã dạy.
b.
Đức Ái của Mẹ nơi tiệc cưới Ca-na.
Cũng như tất cả những người phụ nữ trong thôn xóm, hoặc bà
con, hoặc bạn bè, Đức Mẹ Maria cũng được mời đi dự tiệc cưới[30],
và Mẹ đến không phải để được phục vụ vì Mẹ là mẹ của Chúa Giê-su một Rabi-thầy-
nhưng là để phục vụ giúp đỡ cho đôi tân hôn trong ngày cưới. Sự phục vụ này làm
nổi bật Đức Ái nơi Mẹ khi Mẹ nhìn thấy họ đang hết rượu, và với cái nhìn tinh tế
của người phụ nữ, với lòng yêu thương của người mẹ, Mẹ đã xin Chúa Giê-su –con
mình- giúp họ để họ được trọn vẹn niềm vui, và Chúa Giê-su đã nhậm lời Mẹ.
Cái tế nhị tinh tế không ồn ào này, chỉ những ai có tâm hồn
khiêm tốn, lòng tràn đầy Đức Ái mới có thể làm được, và đó chính là các linh mục
của Chúa Giê-su, các ngài là những người con của Mẹ được sinh ra trên đồi
Gôn-gô-tha qua lời trối của Chúa Giê-su: “Thưa
Bà, đây là con Bà”, và “Đây là mẹ của anh.”[31]
Giáo xứ như một gia đình có tiệc cưới, mỗi người một nét và
ai cũng muốn đến giúp một tay để cho giáo xứ thêm yêu thương đoàn kết, tạo bầu
khí vui vẻ cho giáo xứ, mà cha sở chính là chủ gia đình ấy, cho nên ngài có bổn
phận và vui vẻ đón tiếp tất cả mọi người đến chia sẻ niềm vui và xây dựng với
ngài, mà không vì một lý do gì để từ chối họ, bởi vì chính ngài đã học được
tinh thần khiêm tốn và lòng tràn ngập Đức Ái đối với các giáo hữu của mình nơi
Đức Mẹ Maria.
Không la lối thóa mạ, không hách dịch hợm mình, nhưng luôn
luôn bày tò nét hân hoan khi có người muốn đến với mình để chia sẻ nổi niềm băn
khoăn về đức tin, hoặc về công việc của giáo xứ. Đó chính là Đức Ái của phục vụ
như Đức Mẹ Maria đã phục vụ vì Đức Ái nơi tiệc cưới Ca-na.
c.
Đức Ái khi Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá Chúa.
Trong đau khổ oan ức thì con người ta khó mà tha thứ, khó mà
thông cảm, bởi vì thù hận đang chất chứa tràn đầy trong lòng. Trong đau khổ tột
cùng, không một ai bình tĩnh để tha thứ cho kẻ đã giết con mình, và đó chính là
điều mà thế gian không thể làm được, vì thế gian chưa nhìn thấy lòng nhân hậu của
Thiên Chúa, chưa thấy sự hy sinh tột cùng của tình yêu nơi Chúa Giê-su, và chưa
cảm nghiệm được Đức Ái nơi Đức Mẹ Maria.
Dưới chân Thánh Giá trên đồi Gôn-gô-tha có hai hạng người:
công chính và tội lỗi là Đức Mẹ Maria và các quân lính đóng đinh Chúa; có hai
thái độ: yêu thương tha thứ của Chúa Giê-su và hận thù chết chóc của người lính
đâm cạnh nương long Chúa; có hai trạng thái: vui mừng của những người biệt phái
và thượng tế và buồn thương của Đức Mẹ Maria và môn đệ Gioan cũng như những người
phụ nữ nhân đức khác. Đó chính là bối cảnh mà Đức Ái được trổi vượt lên trên tất
cả mọi hận thù toan tính của con người.
Dưới chân Thánh Giá Chúa, Đức Mẹ Maria đã cảm nghiệm sâu xa
ơn cứu chuộc nhân loại chỉ có nơi sự hy sinh của Chúa Giê-su, và qua sự hy sinh
quên mình này của Chúa Giê-su mà Đức Ái sẽ được vươn chồi nẩy lộc nơi con người,
trước hết là nơi bản thân của Mẹ, các tông đồ rồi đến những người tin vào Chúa
Giê-su Ki-tô.
Dưới chân Thánh Giá Chúa ngày hôm nay chính là bàn thờ tế lễ,
mà các linh mục mỗi ngày cử hành mầu nhiệm hy tế vượt qua –thánh lễ Misa- nơi
bàn thánh này, sự đổ máu không còn nữa, nhưng tình yêu của Chúa Giê-su thì vẫn
cứ tuôn chảy trên bàn thờ, nơi mỗi người tham dự thánh lễ qua vị đại diện của
Ngài là linh mục công giáo, do đó mà các linh mục học được, suy niệm được sâu
xa căn tính của linh mục chính là yêu thương, là Đức Ái, vì qua Đức Ái này mà
người linh mục mỗi ngày càng trở nên giống Chúa Giê-su hơn.
Dưới chân Thánh Giá Chúa, Đức Mẹ Maria đã nghe được những lời
xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ đóng đinh mình từ nơi miệng Chúa Giê-su phát ra,
thì ngay trong lòng Mẹ, sự tha thứ ấy cũng được thể hiện bằng việc chấp nhận và
phó thác tình yêu tận hiến này cho Thiên Chúa Cha, mà không một lời oán trách
hay giận hờn, đó chính là Đức Ái tuyệt vời của Đức Mẹ Maria, và đó là mẫu gương
yêu thương tuyệt vời mà Chúa Giê-su –qua trung gian của Đức Mẹ Maria- để lại
cho các môn đệ của Ngài.
Không một linh mục nào mà không yêu mến thánh lễ, bởi vì một
khi cử hành thánh lễ là chính ngài thực hiện lại tình yêu tận hiến của Chúa
Giê-su trên Thánh Giá, do đó mà ngài càng học được sự tha thứ nơi Chúa Giê-su
và Đức Mẹ Maria. Sự tha thứ này vẫn mãi luôn xảy ra trong đời sống mục vụ của
mình, ngài cần phải tha thứ luôn luôn, tha thứ không điều kiện đối với những kẻ
công kích mình, không thích mình và gây khó khăn cho mình trong công việc rao
giảng Phúc Âm của Chúa Giê-su, đó là Đức Ái trọn hảo của linh mục.
Đức Mẹ Maria là mẫu gương về Đức Ái của các linh mục của
Chúa Giê-su Ki-tô, nếu yêu mến Mẹ mà không noi gương và thực hành các nhân đức
của Mẹ, nhất là Đức Ái và đức Khiêm nhường, thì có thể nói: các linh mục đang lừa
dối Mẹ và lừa dối các tín hữu của mình vậy.
2.
Đức Ái của thánh Gioan Maria Vianney.
Mở ra “Năm linh mục”, Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 mời gọi các
linh mục học hỏi và noi gương của thánh Gioan Maria Vianney, một vị thánh mà sức
học tầm thường nhưng đạo hạnh thì trổi vượt trên mọi người; kiến thức không xuất
sắc nhưng đã làm cho rất nhiều hối nhân trở lại với Chúa là Cha rất nhân từ;
làm cha xứ một họ đạo nhỏ -họ Ars- giáo dân khô khan về đạo hạnh, nhưng chỉ năm
(5) năm sau, mỗi ngày đã có hàng ngàn người từ khắp nơi tìm đến họ đạo của ngài
để xưng tội, để được lòng ăn năn hối cải, điều gì đã làm cho ngài được như thế
? Thưa, đó chính là Đức Ái của ngài trổi vượt trên tất cả mọi việc mà ngài thực
hiện.
Chỉ có Đức Ái mới làm được như thế, chỉ có Đức Ái mới khiến
cho tâm hồn của con người ta biết khiêm tốn, hy sinh khi phục vụ tha nhân mà
thôi.
a. Nhờ Đức Ái được chọn làm
linh mục.
Thánh Gioan Maria Vianney được gọi là linh mục “dốt nát”, vì
sức học của ngài quá kém và theo lẽ thường thì không được làm linh mục, nhưng cha
chính địa phận thay mặt đức giám mục đã hỏi ngài có yêu mến Thiên Chúa không,
và được sự xác nhận của các giáo sư là cậu chủng sinh tuy học dở nhưng đạo đức
thì trổi vượt mọi sinh viên cùng lớp. Đoạn văn này giúp ta hiểu rõ điều kỳ diệu
Chúa làm nơi con người “dốt nát” là Gioan Maria Vianney:
“Bấy giờ đức giám mục đi vắng,
cha chính địa phận đại diện đức giám mục khảo hạch khả năng thần học của các thầy.
Cha chính đã biết rõ về thầy Gioan qua cha Balley, và vì tin lời cha Balley,
cũng như biết cha là người đạo đức thâm trầm nên ngài gọi Gioan đến và khảo hạch
riêng trong phòng. Gioan trả lời những câu hỏi của cha chính cũng vừa đủ không
đến nỗi kém quá nên ngài bằng lòng cho Gioan chịu chức năm.
Khi các giáo sư dạy thần học trình bày cho cha chính
biết trường hợp của Gioan, và muốn biết quyết định của ngài như thế nào, cha
chính hỏi:
- Về lòng đạo đức sốt sắng của Gioan thế nào? Có lòng yêu mến Thiên Chúa không?
- Về lòng đạo đức sốt sắng của Gioan thế nào? Có lòng yêu mến Thiên Chúa không?
Các giáo sư đều trả lời:
- Về phần đạo đức sốt sắng, cách ăn ở khiêm nhường cùng các nhân đức khác thì Gioan hơn hẳn anh em bạn học, chỉ mỗi tội là học quá kém thôi.
- Về phần đạo đức sốt sắng, cách ăn ở khiêm nhường cùng các nhân đức khác thì Gioan hơn hẳn anh em bạn học, chỉ mỗi tội là học quá kém thôi.
Nghe thế cha chính trả lời:
- Ta bằng lòng cho thầy Gioan chịu chức năm, thầy có thiếu điều gì thì Chúa sẽ bù đắp cho…”[32]
- Ta bằng lòng cho thầy Gioan chịu chức năm, thầy có thiếu điều gì thì Chúa sẽ bù đắp cho…”[32]
Thánh Gioan Maria Vianney đã được Chúa chọn làm linh mục
không phải vì tri thức uyên bác, cũng không phải là một người đầy tài năng,
nhưng là vì có lòng yêu mến Thiên Chúa, người có lòng yêu mến Thiên Chúa thì chắc
chắn cũng sẽ làm những gì thuộc về Thiên Chúa yêu cầu: đó là yêu mến tha nhân
như chính mình. Khi yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì Thiên Chúa sẽ dùng
chính Đức Ái ấy mà thực hiện những kỳ công của Ngài trên họ, cha thánh Gioan
Maria Vianney cũng như như thế, Thiên Chúa chọn ngài không vì học thức uyên bác
của ngài, nhưng chính sự ngu dốt của ngài mà Thiên Chúa chọn, để làm sáng danh
Ngài ở trần gian
Có một vài linh mục được Chúa ban cho trí thông minh, học
hành giỏi giang, nhưng thiếu bóng khiêm tốn và cuộc sống thiếu Đức Ái với ngay
cả chính bản thân mình: vì kiêu ngạo nên các ngài thường lấy khả năng trình độ
học thức của mình để biện hộ cho hành động thiếu Đức Ái với mình là đúng, như
hút thuốc uống rượu, mà một khi đã không yêu bản thân mình thì không thể trở
thành gương tốt cho người khác được. Thiên Chúa là Đấng ban phát trí khôn và tài
năng cho con người, nhưng Ngài cũng sẽ lấy lại nếu con người vì quá kiêu ngạo
phủ nhận mọi tài năng của mình là do bản thân của mình mà có. Và đó chính là điều
mà Thiên Chúa đã dùng thánh Gioan Maria Vianney để tình yêu thương của Ngài
trên mọi linh hồn được thể hiện, mà cụ thể là giáo dân của họ đạo Ars, một họ đạo
khô khan và “ngoại
trừ họ đã chịu Phép Rửa Tội ra, thì tất cả đều sống như con vật.”
b. Đức Ái cảm hóa lòng người.
Thánh Gioan Maria Vianney lên đường đến xứ đạo mới –họ Ars-
với một cái rương nhỏ đựng một ít đồ dùng cần thiết, ngài không biết đường đến
nhà thờ nên phải nhờ em bé mục đồng chỉ đường, ngày dâng lễ đầu tiên ở họ đạo mới
chỉ có vài người, nhưng trong lòng ngài đầy ắp cả chương trình làm việc ở họ đạo
mới khô khan lòng đạo này. Chương trình đó của ngài chính là đặt Đức Ái lên
trên hết mọi công việc mục vụ, mà việc đầu tiên của Đức Ái chính là đi thăm
giáo dân của mình, ngài đi thăm từng gia đình một, ngài nắm vững từng tâm hồn của
con chiên của ngài, và ngài biết phải làm gì để cảm hóa lòng họ, yêu thương họ
và cầu cứu với Thiên Chúa, đó là cầu nguyện
Khác hẳn với các linh mục hôm nay, khi nhận bài sai đến giáo
xứ mới thì chính mình hoặc nhờ người thân tín đến đó trước để dò hỏi tình hình,
và có khi “chỉ đạo từ xa” cho giáo dân ở xứ đạo ấy phải làm thế nào đón tiếp
mình cho thật long trọng, phòng khách nhà xứ chưa có thì phải làm hoặc sửa sang
lại ngay, nhà ở của cha sở chưa có gắn máy lạnh thì phải kêu thợ đến gắn ngay,
rồi sau khi mọi chỉ thị từ xa được hoàn thành thì ngài mới đến. Thánh Gioan
Maria Vianney không chần chừ khi được bài sai, cũng không nhờ người đi dò hỏi
trước giáo xứ mà mình đến, cũng không chỉ thị từ xa cho họ phải làm cái này phải
bỏ cái kia, nhưng ngài vội vàng ra đi với một tâm hồn tràn đầy lửa yêu mến Chúa
và tha nhân. Linh mục thời nay được chọn với học thức đầy đủ, và chắc chắn
không có một giáo xứ nào nhỏ bé mà khô khan cằn cỗi lòng đạo như họ Ars của
thánh Gioan Maria Vianney, bởi vậy các linh mục cần phải có tâm hồn tràn đầy Đức
Ái như ngài, thì Đức giám mục sẽ vui mừng hân hoan, các giáo dân cũng nhờ đó mà
vui mừng tiến bước trong ân sủng của Chúa dưới sự dẫn dắt của cha sở mình.
Không những viếng thăm giáo dân và tìm hiểu đời sống và ước
muốn nội tâm của giáo dân, thánh Gioan Maria Vianney còn chuyên chăm cầu nguyện,
bởi vì ngài biết rằng, hiểu rõ hoàn cảnh của mỗi giáo dân mà thôi thì cá nhân
ngài cũng không thể làm được gì cả, nhưng phải cậy nhờ vào tình yêu của Chúa,
thế là ngài chuyên tâm cầu nguyện, cầu nguyện để được biết ý Chúa, cầu nguyện để
trở nên gương sáng cho giáo hữu, và sự cầu nguyện của ngài làm cho các giáo dân
hồ nghi đây có phải là linh mục đích thực không ? Thế là vì tò mò mà người đến
nhà thờ để coi ngài, nhìn ngài cầu nguyện, và rồi sự cầu nguyện đã cảm hóa được
tâm hồn nguội lạnh về Thiên Chúa của họ.
Nếu không có Đức Ái thì linh mục cũng chỉ là như một người
làm công cho đức giám mục mà thôi, nghĩa là các ngài trước khi đến giáo xứ thì
đòi điều kiện với Đức giám mục, đến nơi giáo xứ thì hạch sách giáo dân, chứ
không vì đức vâng lời, không vì trách nhiệm và bổn phận mà phục vụ, bởi vì nơi
những vị linh mục ấy không có Đức Ái nên không có khiêm tốn, không có đức vâng
lời và cũng không có tinh thần phục vụ như lòng Chúa mong muốn nơi các mục tử của
đoàn chiên Ngài
Không một giáo dân nào thờ ơ khi thấy cha sở hoặc linh mục cầu
nguyện, và ngay cả chính Thiên Chúa cũng mềm lòng trước lầu cầu xin chính đáng
của con người, huống gì là lời cầu nguyện của một linh mục, Thiên Chúa nhất định
sẽ yêu mến và chấp nhận lời cầu xin của các ngài, bởi vì các ngài đã dùng Đức
Ái để cầu nguyện chứ không dùng sự kiêu ngạo, dùng sự bền chí cầu xin chứ không
cầu xin được hay không cũng được. Nhờ Đức Ái mà thánh Gioan Maria Vianney nhìn
thấy những nhu cầu cần thiết của giáo dân trong một họ đạo thiếu vắng linh mục
đã lâu, nên ngài biết cầu nguyện liên lĩ và cầu xin liên lĩ, không những cho
mình có can đảm để tiếp tục cày bừa trên thửa ruộng họ (đạo Ars) khô cằn sỏi đá
được trở bông yêu thương và nhiệt thành, mà còn cầu nguyện cho cả giáo dân của
mình được ơn hoán cải và nhiệt thành với nhà Chúa..
c. Đức Ái dẫn đến hy sinh quên
mình.
Nhìn “thời khóa biểu” trong một ngày của thánh Gioan Maria
Vianney làm cho con người thời nay cảm phục, ngài hy sinh đến quên cả bản thân
mình, mỗi ngày ngài ngồi tòa giải tội liên tục từ giờ này đến giờ nọ, ngay cả
khi ăn cũng giải tội, thời gian một ngày của ngài là giải tội cho giáo dân của
mình và giáo dân từ những nơi xa xôi trong các vùng nước Pháp đến, không có giờ
nấu ăn, nên ngài nấu khoai lang để dùng vài ngày ăn cho tiện, ngay cả giờ nghỉ
ngơi giải trí cũng không, giờ ngủ thì rất ít, tất cả những hy sinh đó nếu không
có lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân thì chắc chắn không thể làm được.
Có một vài linh mục thời nay, sau khi dâng thánh lễ xong thì
không thấy ngài đâu nữa, và không ai biết ngài đi đâu, điện thoại di động không
mở, không phải ngài đang cầu nguyện trong nhà thờ, cũng không phải ngài đang
đóng cửa đọc sách, nhưng ngài đang đóng cửa coi phim, giáo dân có việc tìm ngài
thì không gặp, muốn xưng tội với ngài thì phải coi giờ xưng tội nơi cửa nhà thờ,
chứ đường đột xin xưng tội thì sẽ không được.
Đức Ái của linh mục không hệ tại đọc sách nhiều và làm việc
giỏi (bởi vì có nhiều linh mục năng nổ làm việc đạt nhiều thành quả tốt, nhưng
lại không có sự khiêm tốn trong tâm hồn, nên các ngài dễ dàng bị những thành quả
ấy ấy đánh gục mình khi vừa được tiếng khen ngợi của người khác), nhưng là nhờ
suy gẫm cuộc thương khó của Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại mà chịu khổ
hình, để nhờ đó mà các ngài hiểu rõ được sứ mạng cao cả của mình khi phục vụ
Chúa trong mọi người.
Sự hy sinh của thánh Gioan Maria Vianney trở thành mẫu gương
sáng chói cho các linh mục của Chúa Giê-su, như lời của Đức giáo hoàng Biển Đức
XVI đã nói trong thư gởi các linh mục nhân dịp mở “Năm thánh linh mục”: "Vừa đến nơi, ngài đã chọn nhà thờ làm nơi ở của mình…Ngài vào nhà
thờ trước bình minh và chỉ ra khỏi đó sau Kinh Truyền Tin buổi chiều. Chính ở
đó mà phải tìm kiếm ngài nếu người ta cần đến ngài".[33] Giáo dân không cần đi tìm ngài ở nơi xa xôi, nhưng vào
nhà thờ là thấy được ngài đang cầu nguyện trước Chúa Giê-su Thánh Thể, đây là mẫu
gương tuyệt vời của sự cầu nguyện của các linh mục. Bởi vì thời nay có một số
linh mục rất ít vào nhà thờ ngoài giờ dâng lễ, mặc dù nhà xứ sát bên cạnh nhà
thờ; thời nay cũng có những linh mục không tích cực chầu Mình Thánh Chúa, bởi
vì các ngài có rất nhiều lý do để biện minh cho mình, mà quên mất rằng Chúa
Giê-su Thánh Thể là Đấng thẩm phán trong ngày phán xét chung cuộc của mỗi người,
và của cả nhân loại trong ngày tận thế.
Sách Gương Chúa Giê-su đã dạy: “Con người được đức ái thành toàn, thì trong tất cả mọi việc chỉ vì vinh
quang của Thiên Chúa mà không cầu lợi ích cho mình.” Thánh Gioan Maria Vianney đã thực hiện đúng như thế, ngài
đã để cho Đức Ái chiếm lĩnh hoàn toàn tâm hồn của mình, ngài đã hành động vì
lòng yêu mến Chúa qua những giáo dân nguội lạnh lòng đạo đức trong họ đạo của
mình; ngài thức khuya dậy sớm, cầu nguyện suốt ngày trong nhà thờ, hy sinh ngồi
tòa giải tội bất cứ lúc nào trong ngày, đi thăm viếng từng gia đình trong họ đạo
là chỉ vì vinh quang của Thiên Chúa, chứ không phải tìm vinh quang cho mình.
Ngài đã để cho ngọn lửa Đức Ái đã đốt cháy tâm hồn để trở thành ngọn đuốc yêu
thương tỏa sáng và sưởi ấm lòng lãnh đạm thờ ơ nơi mỗi người tín hữu...
Người ta thường đề cao đức khiêm tốn của các thánh, và
đối với thánh Gioan Maria Vianney cũng không ngoại lệ đó, nhưng sẽ không có sự
khiêm nhường nếu không có Đức Ái, vì Đức Ái chính là mẹ sản sinh ra những nhân
đức khác. Cho nên có thể nói cuộc đời của thánh Gioan Maria Vianney được tóm gọn
trong hai chữ Đức Ái, bởi vì không yêu thì sẽ không làm gì cả, dù cho ân sủng của
Chúa vẫn luôn sẵn sàng ban xuống cho con người.
LỜI KẾT
Em thân mến,
Đức Ái cần phải là kim chỉ nam cho cuộc đời của các
linh mục của Chúa Giê-su Ki-tô, bởi vì nếu không có Đức Ái thì dù các linh mục
có làm những chuyện rung chuyển thế giới, thì cũng chỉ là như cái thanh la kêu
chũm chọe mà thôi, lại còn làm điếc tai người khác nữa.
Đức thánh cha Biển Đức 16 trong ngày khai mạc “Năm
Linh Mục”, ngài đã đi thẳng đến nhà nguyện nơi có xác thánh Gioan Maria Vianney
-bổn mạng của các cha sở- và mở đầu lời cầu nguyện như sau: “”Lạy
Chúa Giêsu, nơi thánh Gioan Maria Vianney, Chúa đã muốn ban cho Giáo Hội một
hình ảnh cảm động về đức bác ái mục tử của Chúa, xin ban cho chúng con sống trọn
vẹn Năm linh mục này, cùng với thánh nhân và được sự nâng đỡ của Người.” Lời
cầu nguyện đơn sơ với tất cả ý van xin nơi vị thánh tràn đầy Đức Ái của Chúa
Giê-su, để nhờ ngài cầu bàu cho các linh mục của Giáo Hội Công Giáo được trở
nên những mục tử tràn đầy Đức Ái như ngài, để các linh mục thực sự là những chứng
nhân hoàn hảo giữa một thế giới đầy dẫy bóng đêm tội lỗi, mà các linh mục phải
trở thành những ngọn đuốc sáng soi cho họ.
“Năm
Linh Mục” được mở ra trong bối cảnh thế giới đang nhìn vào các linh mục của
Giáo Hội, đang xoi bói chế giễu các linh mục của Giáo Hội, và ma quỷ cũng đang
vỗ tay ăn mừng chiến thắng vì có các linh mục đã đầu hàng vô điều kiện trong cuộc
chiến tâm linh với ma quỷ và tội lỗi, thì với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần
mà “Năm Linh Mục” được khai mở cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo, mà đặc biệt là Đức
thánh cha đã chọn thánh Gioan Maria Vianney làm mẫu gương sáng đặc biệt cho các
linh mục học hỏi và noi theo, không phải noi theo cái “ngu dốt tầm thường” kiến
thức của ngài, nhưng noi theo những việc ngài đã làm cho họ Ars, từ một địa
phương không ai biết thành một nơi hành hương nổi tiếng của thế giới, từ một họ
đạo khô khan lòng đạo của giáo dân trở thành nơi an ủi khuyến khích những tâm hồn
tội lỗi trở về với Chúa, tắt một lời đó là học theo gương mến Chúa yêu người của
thánh nhân, tức là Đức Ái.
“Năm
Linh Mục” là để mỗi linh mục nhìn lại cuộc đời tận hiến của mình có phù hợp với
tinh thần Phúc Âm không, là nhìn lại căn tính của linh mục không phải là dâng
thánh lễ, cũng không phải là kiến thiết xây dựng, nhưng căn tính của linh mục
là Đức Ái, là lời truyền dạy của Chúa Giê-su trong bữa tiệc ly trước khi hy
sinh chịu chết vì tội lỗi nhân loại, Chúa Giê-su dạy rằng: “Đây là điều răn của
Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”[34]
“yêu thương nhau” chính là Đức Ái, là căn tính của các linh mục của Chúa Giê-su
Ki-tô.
***
Em thân mến,
“Đức Ái của linh mục
Chúa Ki-tô” là những chia sẻ với em về những suy tư của anh trong
đời sống linh mục, bởi vì nếu không có Đức Ái thì linh mục không thể cảm động
trước nổi bất hạnh của người khác; nếu không có Đức Ái thì linh mục cũng chỉ là
một con người đầy tham sân si như những người khác mà thôi, và có khi còn tệ hại
hơn nữa, bởi vì nơi bản thân linh mục mọi sự đều có, mà theo người đời nhìn vào
thì linh mục là một đại gia có tiền, có danh vọng và có quyền, mà khi một linh
mục trở thành đại gia –nghĩa là không có Đức Ái- thì dù ngài có dâng thánh lễ,
dạy giáo lý, hoặc làm việc bố thí, thì tất cả những việc làm ấy như thanh la
chũm chọe để mọi người khen ngợi mà thôi.
Em
đừng ngã lòng khi thấy cha sở em, hay một vài linh mục sống không có Đức Ái, bởi
vì các vị ấy chỉ là những thiểu số nhỏ, nhưng hầu hết các linh mục của Chúa
Giê-su trên thế giới này đều là những con người đã hy sinh tất cả để được Chúa,
các ngài đã vì tận hiến cho Chúa mà trở thành những mục tiêu tấn công của ma quỷ
và thế gian, cho nên em hãy luôn cầu nguyện cho các linh mục của Giáo Hội, cầu
nguyện thật nhiều bởi vì các linh mục của Chúa Giê-su rất cần lời cầu nguyện của
mọi người, trong đó có em và có anh.
Lời
nguyện kết thúc bài chia sẻ:
Lạy Chúa Giê-su là
linh mục đời đời,
Chúa đã đến thế
gian không phải để được phục vụ
dù Chúa rất đáng để
được người khác phục vụ,
nhưng Chúa đến thế
gian
để phục vụ và hiến
mạng sống
cho nhân loại, là đối
tượng yêu thương của Chúa.
Xin ban cho con và
các linh mục của Chúa,
ngày hôm nay,
đang sống giữa một
thế gian
giữa những cám dỗ của
ma quỷ và tội lỗi
biết trang bị cho
mình tinh thần cầu nguyện,
lòng khiêm tốn và
can đảm,
và nhất là đốt cháy
lòng chúng con ngọn lửa
của Đức Ái.
Để chúng con cũng
như Chúa,
coi họ là những đối
tượng yêu mến của chúng con.
Để nhờ sự cầu nguyện
mà chúng con tìm ra
thánh ý Chúa,
để nhờ lòng khiêm tốn
mà chúng con phục vụ
trong vui vẻ,
để nhờ lòng can đảm
mà chúng con không
ngại trước những cám dỗ,
và nhờ Đức Ái
mà chúng con hoàn
thành nhiệm vụ
vối tất cả hy sinh
quên mình.
Lạy Chúa Giê-su là
linh mục đời đời,
Nhờ lời chuyển cầu
của thánh Gioan
Maria Vianney,
bổn mạng của các
cha sở và các linh mục,
xin cho chúng con
biết noi gương
bác ái, khiêm tốn
và cầu nguyện của ngài,
để chúng con đi đốt
lên ngọn lửa của Đức Ái
nơi những tâm hồn
nguội lạnh,
để lòng họ bừng
cháy lên lòng yêu mến Chúa,
để họ biết chung
tay
thắp lên ngọn lửa Đức
Ái ngay trong cuộc sống
của mình và của người
khác.
Xin Chúa nhậm lời
chúng con cầu xin.
Amen.
Viết
xong ngày khai mạc “Năm Linh Mục”
19.6.2009
Lm.
Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
[2] Từ đây trong quyển sách này dung từ
“Đức Ái”.
[3] Ga 13, 35.
[4] Sách GLCG (Taiwan) 1882.
[5] 1 Cr 2, 44-47.
[6] 1 Cr 13, 3.
[7] Mt 9, 20-22.
[8] Lc 10, 37.
[9] Lc 6, 31.
[10] “Các ngôn thần học tu đức, tập 1” Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. Dịch.
[11] “Cách ngôn thần học tu đức, tập 1” do Lm. Giuse Maria Nhân Tài,
csjb. Dịch.
[12] Đại từ điển tiếng Việt.
[13] Trích trong “Viên ngọc trai”, Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. Dịch
và viết suy tư.
[14] 2 Cor 8, 7-8.
[15] Mt 9, 13; 12, 7.
[16] Trích “Cách ngôn thần học tu đức”, bản dịch của Lm. Giuse Maria
Nhân Tài, csjb.
[17] 1 Tm 5, 1-2.
[18] Lời nguyện truyền chức linh mục.
[19] Lc 10, 29-37.
[20] Trích trong “Viên ngọc trai”, bản dịch của Lm. Giuse Maria Nhân
Tài, csjb.
[21] 1Cr 13, 4-6.
[22] Sách GLCG số 1888.
[23] Sách GLCG số 893.
[24] Trích: ách ngôn thần học tu đức”, bản dịch Lm. Giuse Maria Nhân
Tài, csjb.
[25] Sách GLCG số 894.
[26] Sách GLCG, số 1563.
[27] Sách GLCG, số 963.
[28] Lc 1, 39-45.
[29] Lc 1, 42.
[30] Ga 2, 1-12.
[31] Ga 19, 26b-27.
[33] Thư của ĐGH Biển Đức XVI gởi các linh mục nhân dịp “Năm Linh Mục”.
[34] Ga 15, 12.